Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

TRỨNG VÀ ẤP TRỨNG GIA CẦM part 5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.54 KB, 21 trang )


83

48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
58
57


56
55
54
53
52
52
51
51
50
49
48
4,06
3,99
3,92
3,85
3,78
3,71
3,64
3,64
3,57
3,57
3,50
3,43
3,36
95,90
99,69
103,42
107,08
112,67
114,90

117,65
121,11
124,50
127,89
131,21
134,42
137,67
78
77
77
77
77
76
76
76
76
75
75
75
75
76,62
79,54
83,40
85,22
87,99
90,66
93,29
95,92
98,50
101,01

103,53
105,98
108,37
140
140
140
140
140
140
140
140
135
135
135
135
135
Tuần
tuổi
Tuần
đẻ
Tỷ lệ
đẻ (%)
Số trứng
đẻ/1 gà mái
(quả/tuần)
Số trứng
chọn giống
cộng dồn
(quả)
Tỷ lệ ấp

nở (%)
Số gà con
cộng dồn
(con)
TA/1
gà/ngày
(g)
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
48
47
46

45
44
44
43
42
41
40
3,36
3,29
3,22
3,15
3,08
3,08
3,01
2,94
2,87
2,80
140,86
143,98
147,04
150,03
152,96
166,89
168,75
161,54
164,22
166,85
75
75
75

75
75
75
75
75
75
75
110,77
113,11
115,41
117,65
119,81
122,01
124,18
126,28
128,29
130,26
135
135
135
130
130
130
130
130
125
125
Tổng
cộng
46 179 39,65167 130 45150


Qua theo dõi các chỉ tiêu sản xuất của gà Tam Hoàng, người ta thấy năng suất
trứng của gà là thấp so với gà đẻ hướng thịt, hướng trứng công nghiệp, lý do là do các
giống gà này tạo từ gà địa phương với mục đích thả vườn.
Nhưng nếu thả ở vườn, đồi gà tự kiếm ăn thêm, thì chi phí thức ăn giảm, phẩm chất
thịt khá hơn, có cơ hội thu lợi lớn.
Chú ý: Đối với các giống gà ta thả vườn hướng lấy thịt (gà Mía, Đông Tảo, gà Hồ )
nếu nuôi để đẻ thì ăn thức ăn có tiêu chuẩn dinh dưỡng như gà Tam Hoàng nhưng số lượng
thức ăn thì giảm đi 1/3 - ở các giai đoạn gà dò, gà đẻ, với lý do là gà thả vườn tự kiếm ăn
được 1/3 - lượng thức ăn yêu cầu (đây là dự tính, tuỳ thực tiễn sản xuất mà điều chỉnh).
Còn đối với gà hướng trứng (gà Ri nuôi chăn thả để lấy trứng ấp và trứng ăn thì ăn có
tiêu chuẩn dinh dưỡng như gà Tam Hoàng nhưng số lượng thức ăn chỉ cung cấp 1/3 so với
tiêu chuẩn đề ra với lý do gà Ri nhỏ, tự kiếm được đủ lượng thức ăn yêu cầu. Còn nếu nuôi
nhốt thì phải cho ăn lượng thức ăn tăng lên 2/3 ở mức so với tiêu chuẩn gà Tam Hoàng ở giai
đoạn gà dò, gà đẻ. Còn gà con cho ăn tự do.
Có lời khuyên: Đối với gà ta, kể cả gà thả vườn nhập nội (Tam Hoàng) phải áp dụng
phương pháp chăn thả hoàn toàn, bán chăn thả tự nhiên với điều kiện vườn, đồi, ruộng rộng
áp dụng kỹ thuật chăn nuôi và phòng bệnh tốt thì chăn nuôi sẽ có hiệu quả cao.
Ở những vùng sâu vùng xa không có bán TAHH (thức ăn chế sẵn), mọi gia đình có
thể tự tạo thức ăn cho gà trên cơ sở có đủ một số nguyên liệu cơ bản sẵn có ở địa phương như:
ngô, sắn, cám gạo, lạc, đậu tương, bột cá, premix, vitamin, khoáng và tự chế biến lấy theo các

84

công thức nuôi ở trên.
- Kinh nghiệm nhiều hộ chăn nuôi gà ta tự chế biến thức ăn cho gà ăn thêm như sau:
(bình quân cho 1 gà dò, gà đẻ).
0,1 kg (1 lạng) tinh bột (nửa ngô, nửa cám hoặc sắn).
0,02 kg (1/5 lạng) bột cá hoặc giun tép.
0,050 kg (1/2 lạng) rau xanh băm nhỏ.

Trộn đều cho gà ăn vào buổi sáng và buổi chiều (trước khi gà vào chuồng). Nếu được
ăn như vậy, gà lớn nhanh, đẻ nhiều trứng to, ấp nở tốt.
- Tự tạo thức ăn protein động vật bằng cách nuôi giun.
+ Nếu chăn nuôi nhiều gà vịt thì nuôi theo phương pháp thâm canh - chọn giống giun
đẻ nhiều, lớn nhanh (giun quế có bán giống tại trung tâm chuyển giao kỹ thuật của trường
ĐHNN Hà Nội, Trung tâm Công nghệ Sinh học Hà Nội….). Nuôi giun trong thùng gỗ hoặc
xây gạch kích thước dài 50, rộng 35, sâu 30 cm, đáy thùng dùi một số lỗ nhỏ để thoát nước và
thông khí, đổ phân mục và đất (như cách trên) vào thùng rồi tưới nước ẩm. Sau đó thả giun
vào, mỗi thùng 350 - 400 con có thể dùng nước gạo tưới cho giun rất tốt. Sau 30 ngày nuôi ta
thu hoạch giun bằng cách đổ giun trong thùng lên mặt sàng dưới ánh nắng hoặc ánh điện, giun
sợ ánh sáng mạnh chui qua mắt sàng hoặc lưới mắt nhỏ rơi xuống dưới. Đất, phân còn lẫn
trứng giun và giun nhỏ trên sàng ta lại đổ vào thùng và trộn với phân bổ sung, đồng thời nhặt
khoảng 200 - 250 giun ta thả vào thùng làm giống. Nuôi trong thùng tiết kiệm được diện tích,
thuận tiện cho việc tưới nước.
Nuôi giun ở nơi tối mát, ẩm nhưng phải thoáng khí thì giun mới phát triển tốt.
Chú ý: Các loại phân gà, phân lợn, phân trâu phải ủ 25 - 30 ngày, sau đó tãi ra cho bay
hết mùi hôi mới dùng nuôi giun. Không được tưới đẫm, không được tưới nước xà phòng,
nước bẩn. Chú ý chống kiến cho giun vì loại giun này rất kỵ kiến.
Nuôi giun đất địa phương: một số bà con nông dân có kinh nghiệm nuôi giun đất địa
phương rất đơn giản và hiệu quả cao. Xung quanh vườn, dưới các tán cây, đào các hố có kích
thước: dài 1,0-1,2 m; rộng 0,4 – 0,5 m; sâu 0,4- 0,5 m; hố nọ cách hố kia 3-4 m, đổ đầy phân
hoai, tốt nhất là phân trâu bò, rơm, rạ, lá hay thân cây chuối…, lấp kín, tưới ẩm thường xuyên
nhưng không để đọng nước. Theo bản năng, giun đất sẽ tìm đến, do nhiều thức ăn, chúng sẽ
định cư tại hố, sinh sản và phát triển rất nhanh. Khi thấy trên bề mặt hố giun đùn lên nhiều
phân giun tức là đã có thể thu hoạch, đưa vịt hay gà đến, bới hố phân lên, gà, vịt sẽ ăn hết
giun. Trong phân và đất còn lại vẫn có rất nhiều trứng giun, bổ sung thêm phân hoai vào cho
đầy hố, lấp lại, tưới ẩm để giun tiếp tục phát triển cho lần sau. Cứ 3 - 4 ngày khai thác một hố,
gia cầm rất chóng lớn và giá rất rẻ.
Một số vấn đề cần đặc biệt chú ý khi nuôi dưỡng gà đẻ
Nhu cầu protein phụ thuộc vào giai đoạn (Fa) đẻ, nhiệt độ môi trường:

Ví dụ:
Nhu cầu protein cho gà Brown Nick:
Đẻ Fa I: (20 - 48 TT) 20-21 g/con/ngày
Đẻ Fa II: (48 - 58 TT) 19 -20 g/con/ngày
Đẻ Fa III: (sau 58 TT) 18 - 19 g/con/ngày
Nhu cầu protein (%) của gà Isa Brown tăng theo nhiệt độ như sau:
Tuần tuổi 20
0
C 25
0
C 30
0
C
19-35 16,6 17,7 19
>35 15,7 16,8 18
Nhu cầu ME: Nhu cầu ME của gà Isa Brown phụ thuộc vào tuổi như sau:
Trước 35 tuần tuổi: 2800 Kcal/kg
Sau 35 tuần tuổi: 2750 Kcal/kg
Nhu cầu ME của gà Isa Brown phụ thuộc vào tỷ lệ đẻ và nhiệt độ môi trường:
ĐVT: Kcal/con/ngày

85

Mức đẻ (%) 15
0
C 20
0
C 25
0
C 30

0
C
Đầu GĐ đẻ
0-10 295 280 265 250
10-30 312 295 278 260
30-50 330 310 290 270
50-70 340 320 300 280
>70 350 330 310 290
Sau đỉnh cao 340 320 300 280
Trong giai đoạn trước đỉnh cao, bao gồm cả giai đoạn sắp đẻ (pre-lay) gà được ăn tăng nhanh
khối lượng thức ăn đến mức tối đa gần như tự do để gà vào đẻ sớm, đẻ rộ, nhanh chóng đạt tới
đỉnh cao của tỷ lệ đẻ và khối lượng trứng, cách này gọi là “cho ăn đón” (ăn tăng trước khi đẻ
tăng).
Trong giai đoạn sau đỉnh cao tỷ lệ đẻ, cần phải định mức ăn hợp lý: khi đạt tỷ lệ đỉnh cao, gà
duy trì đẻ tốt nhất trong khoảng 1 tuần, cần phải cho gà ăn khẩu phần tối đa. Sau đó, khi tỷ lệ
đẻ giảm xuống thì mức ăn cũng giảm xuống tương ứng cho đến khi ngừng khai thác. Việc
giảm này cần tiến hành từ từ và thường giảm sau khi gà giảm đẻ 1-2 tuần. Cách giảm thức ăn
chậm hơn giảm tỷ lệ đẻ gọi là “cho ăn đuổi” (giảm ăn chậm hơn giảm đẻ).
Nguyên tắc cần giữ là: không được giảm khẩu phần trước đỉnh cao và tăng khẩu phần sau
đỉnh cao của tỷ lệ đẻ. Cũng có thể không giảm khối lượng thức ăn nhưng giảm nồng độ
protein và ME trong khẩu phần sau khi đã đạt đỉnh cao.
Cần chú ý khi trời nóng, gà sẽ ăn ít đi, thiếu dinh dưỡng, khi đó cần phải bổ sung thêm năng
lượng bằng cách bổ sung chất béo vào thức ăn cho gà, tốt nhất là dầu thực vật, bổ sung chất
béo có tác dụng làm tăng khối lượng trứng, nhất là axit linoleic. Trong quy trình nuôi gà Hy-
line Brown, hãng cung cấp hướng dẫn bổ sung chất béo (%) như sau:
30
0
C 30-35
0
C >35

0
C
Hậu bị 0 2 3
Trước đỉnh cao 1 2 3
Sau đỉnh cao 0 1 2
Cần chú ý, khi nhiệt độ môi trường cao quá thì không nên tăng nồng độ chất dinh dưỡng lên
nữa vì rất nguy hiểm. Theo tác giả Piter D.Lewis, khi nhiệt độ môi trường tăng cao, gà sẽ tăng
tần số hô hấp, cần phải tăng nồng độ protein và năng lượng để bù đắp, nhưng khi nhiệt độ
tăng đến trên 27
0
C thì không cần tăng nữa vì khi đó gà không toả được nhiệt nên không bị
mất năng lượng, mặt khác gà bị rối loạn TĐC, thở nhiều, uống nước nhiều, ăn ít… nên không
những không cần tăng mà phải giảm để đảm bảo sức khoẻ cho gà.
Ngoài ra, cần cung cấp cho gà đẻ 3,8-4,2 g Ca/con/ ngày, đặc biệt là bổ sung thêm vitamin,
nhất là vitamin C với liều 150 – 3000 ppm tuỳ thời tiết.
Khi chuyển giai đoạn nuôi, cần chuyển thức ăn cũ sang thức ăn mới, cần chuyển từ từ
như sau:
Ngày 1-2: 1 phần thức ăn cũ + 3 phần thức ăn mới
Ngày 3-4: 2 phần thức ăn cũ + 2 phần thức ăn mới
Ngày 5-6: 3 phần thức ăn cũ + 1 phần thức ăn mới
Ngày 7: thức ăn mới hoàn toàn.
Hàng tháng, cần Xác định độ đồng đều:
Độ đồng đều có vai trò rất quan trọng trong nuôi dưỡng gà hậu bị. Độ đồng đều càng cao
thì gà sẽ đẻ càng tốt và ngược lại. Cách làm:
1- Bắt ngẫu nhiên một nhóm gà với số lượng 1-5 % số gà trong đàn (tuỳ quy mô đàn
lớn hay nhỏ) và cân cả lô này trong 1 lần cân.
2- Chia khối lượng trên cho số đầu gà trong mẫu cân đó để tìm khối lượng bình quân.
Tạm gọi đây là khối lượng trung bình (P TB).
Formatted Table
Formatted: Indent: First line: 1.27

cm

86

Khoảng khối lượng [(P TB – 5%) đến (P TB + 5%)] được gọi là khoảng đồng đều
(khoảng đồng đều cũng có thể là P TB ± 10 % )
3- Cân lần lượt từng con trong toàn đàn và ghi lại khối lượng từng con. Những gà có
khối lượng nằm trong khoảng đồng đều được coi là đạt khối lượng chuẩn.
4- Tính tỷ lệ toàn đàn: nếu toàn đàn có trên 80 % cá thể có khối lượng nằm trong
khoảng đồng đều là tốt, chế độ chăn nuôi đạt yêu cầu.
5- Dựa vào khối lượng vừa cân, chia đàn gà làm 3 nhóm: to, trung bình và nhỏ, cho ăn
như nhau (không được khác nhau giữa 3 lô về lượng thức ăn bình quân trên mỗi đầu gà), sau
một thời gian các nhóm gà sẽ có khối lượng trở về khối lượng trung bình.
Cũng cần so sánh khối lượng trung bình nói trên với khối lượng chuẩn của hãng cung
cấp để cho gà ăn thích hợp. Cần hết sức tránh để đàn gà có khối lượng cao hơn khối lượng
chuẩn và trong mọi trường hợp, không được để đàn gà sút cân, nghĩa là, trong mọi trường
hợp, đàn gà phải có tăng trọng dương (>0)
C.Tính nhu cầu nước uống cho gia cầm
Nhu cầu nước uống phụ thuộc vào tuổi, chức năng sản xuất, lượng thức ăn tiêu thụ của
gia cầm và nhiệt độ của môi trường.
Qua nghiên cứu đã xác định được
Đối với gà đẻ ở nhiệt độ môi trường 18
o
C cần tỷ lệ nước trên thức ăn là 3/1, nếu nhiệt
độ môi trường tăng lên 1
o
C, lượng nước tiêu thụ tăng lên 2%
Ví dụ: Một đàn gà mái đẻ 1000 con, gà ăn 150 g thức ăn/ngày/gà. Nhiệt độ môi trường 35
o
C.

Tính lượng nước cần cho đàn gà 1 ngày.
Giải: + Lượng thức ăn đàn gà mái tiêu thụ 1 ngày là
0,150 kg × 1000 gà = 150 kg
+ Lượng nước đàn gà cần 1 ngày ở nhiệt độ chuẩn (18
o
C) là
150 kg × 3 = 450 lít
+ Nhiệt độ môi trường tăng lên là : 34 - 18 = 16
o
C
+ Tỷ lệ nước tăng lên so với chuẩn là : 16
o
C × 2% = 32%
+ Lượng nước yêu cầu tăng lên so với chuẩn là:
450 lít × 32% = 143 kg = 143 lít
+ Tổng lượng nước cấp cho đàn gà/1 ngày là:
450 + 143 = 593 lít
Các ví dụ trên chỉ mang tính tham khảo. Trong thực tế cần nắm vững nguyên tắc: cho gà uống
đủ nước sạch, nước “mềm” (đã qua lọc và kiểm nghiệm), không làm ướt chuồng, máng uống
phải đúng kỹ thuật, được cọ rửa thường xuyên 2 lần/ ngày.
d.Cách xác định và pha trộn thuốc bổ, thuốc phòng chữa bệnh vào thức ăn, nước uống
cho gia cầm.
Pha trộn thuốc vào nước uống, thức ăn cho gia cầm
- Xác định tổng khối lượng đàn gà (thí dụ: ước 1 con gà nặng 800 g × đàn gà 500 con
= 400000 g = 400 kg).
- Biết liều thuốc dùng cho 1 đơn vị khối lượng gà, cho 1 đơn vị nước cần pha như:
1 g thuốc cho bao nhiêu thức ăn, cho bao nhiêu lít nước, cho bao nhiêu con Sau đó tính
lượng thuốc dùng cho cả đàn trong 1 ngày hay cả 1 kỳ.
- Sau khi xác định được tổng lượng thuốc, lượng nước uống, lượng thức ăn tiêu thụ, ta
tiến hành pha theo 2 bước:

+ Pha dung dịch mẹ: (hoặc hỗn hợp mẹ) đổ cả lượng thuốc dùng vào vài lít nước hoặc
vài kg thức ăn quấy hoặc trộn đều trong vòng 5 - 10 phút.
+ Pha thành dung dịch hoặc hỗn hợp con cho uống hoặc cho ăn: đổ toàn bộ dung dịch
hỗn hợp mẹ vào toàn bộ nước uống trong buổi sáng hoặc vào lượng thức ăn cả ngày, rồi cho
gà uống hoặc ăn.
Chú ý: Cho gà uống hết nước hoặc ăn hết thức ăn mới đủ liều thuốc. Tránh để nước
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 14 pt
Deleted:

Deleted: III
Deleted: 1.

87

hoặc thức ăn đã trộn nước qua ngày.
Các ví dụ
Ví dụ 1: Hãy tính lượng A - T 104 trong 3 ngày (hỗn hợp vitamin ADE của hãng
Bayer) bổ sung vào 100 kg thức ăn cho 1000 gà con/ngày theo tỷ lệ thuốc/ thức
ăn 0,2%.
Giải: Lượng thuốc cần dùng 1 ngày là : 100 × 0,2% = 0,2 kg/ngày
Lượng thuốc cần trong 3 ngày là : 0,2 × 3 = 0,6 kg
Cách trộn vào thức ăn:
- Trộn hỗn hợp mẹ: lấy 5 kg thức ăn tãi mỏng, rắc đều 0,2 kg thuốc lên mặt thức ăn
trộn đều trong 5 phút ta được hỗn hợp mẹ.
- Trộn dung dịch con: số thức ăn còn lại 95 kg cũng được tãi mỏng với độ dày 10 - 15
cm (tuỳ lượng thức ăn nhiều hay ít mà tãi dày hay mỏng) rải hỗn hợp mẹ lên mặt thức ăn, trộn
đều từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới và ngược lại trong vòng 10 - 15 phút (nếu trên 100
kg thì trên 15 phút). Sau đó đóng vào bao để cho gà ăn trong ngày. Nếu trộn thức ăn kháng
sinh dạng bột cũng thực hiện như vậy.

Ví dụ 2: Đàn gà đẻ bị ỉa chảy lúc thời tiết nóng, cần uống nước có chất điện giải A-T110
trong 3 ngày. Biết rằng gà uống bình quân 0,4 lít nước/ngày. Liều lượng pha 1
gam A-T110 cho 2 lít nước, đàn gà gồm 250 con. Tính lượng thuốc A-T110
cần trong 3 ngày.
Giải: - Tính lượng nước uống trong 3 ngày:
250 × 0,4 × 3 ngày = 300 lít
- Tính lượng thuốc A - T 110 trong 3 ngày:
2 × 300 lít × 1 g = 600 g hay 0,6 kg
- Tính lượng thuốc A - T 110 trong 1 ngày
0,6 kg : 3 = 0,2 kg/ngày.
- Pha dung dịch mẹ: lấy 10 lít nước uống trong số 100 lít/ngày, bỏ 0,2kg thuốc vào và
quấy đều cho tan (3 - 5 phút) ta có 10 lít dung dịch mẹ.
- Pha dung dịch con uống: ước tính buổi sáng (uống hơn buổi chiều) khoảng 60 lít ta
lấy 60 lít dung dịch mẹ hoà với 60 lít nước uống trong 5 phút, cho gà uống hết, sau đó hoà số
nước và số thuốc còn lại cho uống tiếp.

2.4. Những yếu tố quan trọng nhất của môi trường tiểu khí hậu chuồng
nuôi gà đẻ

2.4.1.Không khí
Những thí nghiệm trước đây với cách nuôi thâm canh gà mái đẻ đã sơ bộ chứng minh
được tầm quan trọng của việc cung cấp một số lượng đầy đủ không khí sạch đối với sức khoẻ
và khả năng sản xuất của gà. Không nghi ngờ gì nữa, sự thông khí chuồng nuôi ảnh hưởng
đến trạng thái chung và khả năng sản xuất của gà, ngày nay vấn đề này có một ý nghĩa quan
trọng ngang với chất lượng thức ăn hay chất lượng của đàn giống để sản xuất trứng.
Sự thông khí là đẩy không khí từ chuồng nuôi ra ngoài, thay thế bằng không khí mới.
Nhiệm vụ của sự thông khí là đảm bảo cung cấp oxi cho gà, đẩy khí độc tạo ra trong chuồng
ra ngoài cùng với hơi nước mà không làm giảm độ nhiệt của chuồng nuôi xuống dưới giới hạn
cho phép. Tầm quan trọng hàng đầu là đẩy hơi nước ra ngoài vì rằng cần nhiều không khí để
làm việc này hơn là thay đổi không khí để thở. Do đó không nên tách riêng hai vấn đề này ra

với nhau. Tính toán cho sự thông khí dựa trên cơ sở cân bằng nhiệt. Sự cân bằng nhiệt cần
phải tính toán cho từng chuồng nuôi, phụ thuộc vào điều kiện khí hậu của địa phương, nguyên
liệu xây dựng được sử dụng, mật độ nuôi và các yếu tố khác. Từ đó tính ra được một khối
lượng không khí thay thế cần thiết để đẩy hơi nước sinh ra trong chuồng bao gồm tất cả các
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Level 1
Formatted: Font: 7 pt, English
(U.S.)
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: English (U.S.)
Deleted:

Deleted:
2.
Deleted:

Deleted: ¶

88

yếu tố của môi trường không khí bên ngoài. Nhiều thí nghiệm đã chứng minh rằng, trang bị
thông khí làm theo sự tính toán ấy là chưa đủ.
Mặc dù tính toán thông khí theo số lượng hơi nước trong chuồng nuôi đã là một bước
đầu tiên quan trọng trong việc giải quyết để thành lập tiểu khí hậu thuận lợi cho gà, nhưng
cho đến nay việc thành lập tiểu khí hậu chưa tính đến các ảnh hưởng khác, mà những ảnh
hưởng này nhiều khi lại rất sâu sắc. Như Junila và những người cộng tác trong các nghiên
cứu của mình đã giải quyết vấn đề này trên một khía cạnh hoàn toàn khác, họ đã chứng minh
vai trò quan trọng của cường độ thay đổi khí và sự chuyển động của không khí chuồng nuôi
trong sự truyền một số bệnh nhất định. Các tác giả thấy rằng khi tốc độ thay đổi khí thấp (0,9

m
3
/giờ trên một đầu gà) thường phát triển mạnh mẽ các bệnh đường hô hấp và bệnh New
Castle qua sự nhiễm bệnh nhân tạo. Khi có cường độ thông khí cao (5,1 m
3
/giờ trên một đầu
gà) những bệnh này phát triển rất hạn chế. Từ đó các tác giả đưa ra một kết luận có tính chất
giả thiết là nếu giảm sự trao đổi khí sẽ kích thích sự phát triển của quần thể vi khuẩn luôn
luôn có mặt trong không khí chuồng nuôi, đặc biệt là các bệnh đường hô hấp. Do đó trong các
chuồng nuôi hiện đại nuôi gà với mật độ lớn, cường độ thay đổi khí của không khí có một tầm
quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng mạnh đến sức khoẻ của gà.
Nên chú ý tới những số liệu trong bảng 30 về cường độ trao đổi khí trong các chuồng
nuôi hiện đại. Số liệu của Esmei thu được trên cơ sở tính toán sự thông khí theo độ bão hoà
của hơi nước được nêu lên trong bảng để tiện việc so sánh. Tất cả các số liệu khác đều vượt
quá số liệu trên và coi như có thể sử dụng trong thực tế được.

Bảng 30. Sự thay đổi khí trong chuồng nuôi gà
Theo các tác giả khác nhau

Sự thay đổi khí m
3
/giờ
Tác giả
Tối thiểu Tối đa
Ghi chú
Esmei, 1962
0,9 trên một đầu
con
5,1 trên một đầu con Khối lượng tối thiểu là đủ
để đẩy hơi nước ra ngoài,

khối lượng tối đa để đẩy
hơi nóng tự do ra ngoài;
hơi nóng do đốt đèn.
Braunt - 4,5 trên 1 kg khối lượng
Skinner và ctv - 3,8 trên 1 kg khối lượng
Wolton
3,4 trên một đầu
con
9,2 trên một đầu con Thông khí thêm trong
những ngày nóng nhờ hệ
thống quạt
Pero
2,4 trên 1 kg
khối lượng
6 trên 1 kg khối lượng
Moreng - 13,6 trên một đầu con
Braun
5 trên một đầu
con
12 trên một đầu con Thông khí thêm trong
những ngày nóng qua cửa
số
Kastello
1,8 – 2,7 trên 1
kg khối lượng
4,5 – 6,7 trên 1 kg khối
lượng


Trị số tối thiểu thường ở mùa đông, trị số tối đa ở mùa hè. Mặc dầu những con số nêu

trên thu được trong những vùng khí hậu khác nhau, nhưng cũng không chênh lệch nhau nhiều.
Những số liệu của Pero, Braunt và Kastello dùng tốt cho điều kiện khí hậu của châu Âu.
Ở phần lớn các nước Tây Âu khi xây dựng chuồng nuôi gà người ta chủ yếu chú ý đến
sự thay đổi khí. Điều này đặc biệt quan trọng đối với sự thông khí trong mùa hè của các

89

chuồng không có cửa sổ, vì rằng ở đây công suất của thiết bị thông khí không đủ sẽ không thể
giải quyết được bằng sự thông khí qua cửa sổ trong những ngày mùa hè.
Liên quan chặt chẽ với cường độ thay đổi khí còn có sự chuyển động và tốc độ quay
vòng của không khí trong chuồng nuôi. Sự chuyển động của không khí cần thiết để đẩy hơi
nóng được tạo ra do sự trao đổi chất và để làm khô chất độn chuồng. Ngoài ra sự chuyển động
của không khí còn làm giảm bớt mật độ của vi sinh vật trong chuồng nuôi. Ý nghĩa thực tiễn
của hiện tượng này cho tới nay vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Tốc độ chuyển động của không khí trong chuồng nuôi gà mái đẻ không nhất thiết là
phải quá cao vì rằng nó sẽ làm cho gà bị lạnh đột ngột trong khi hệ thống điều tiết của gà
không thể bù đắp ngay lại được. Tốc độ vận chuyển của không khí về mùa đông không được
quá 0,3 – 0,4m/s. Về mùa hè có thể cao hơn nhiều (3m/s).
Không khí tự nhiên sạch và khô có thành phần như sau (tính theo % thể tích): nitơ
78,03; oxi 21; khí CO
2
0,03 và acgon 0,94. Ngoài ra, không khí còn chứa một số lượng nhỏ
các khí neon, heli, kripton, xenon và hidro cũng như vô cùng ít khí ozon, hidroperoxit,
amoniac, axit nito và axit nitric… Do ảnh hưởng của các quá trình trao đổi chất trong cơ thể
động vật và sự phân huỷ của phân trong các hố phân hay lớp đệm chuồng mà tỷ lệ của các khí
kể trên có thể thay đổi nhiều, nuôi càng chật thì sự biến động ấy càng lớn.
Khí ozon và hidroperoxit thường không gặp trong chuồng do sự không ổn định của
chúng. Nitơ và các khí trơ không có liên quan gì đến cơ thể sống. Nhưng nhờ sự có mặt của
chúng mà người ta xác định được nồng độ oxi trong không khí thuận lợi nhất cho sự thở. Oxi,
khí cacbonic, amoniac, H

2
O là những yếu tố quan trọng nhất trong chuồng nuôi gà và chúng
cũng là những thành phần khí cơ bản của không khí. Ngoài ra trong không khí còn chứa bụi.
Oxi cần thiết cho cơ thể để thực hiện các quá trình đốt cháy chất dinh dưỡng và hô
hấp. Không khí thở ra của động vật chỉ còn gần 16,4% oxi. Hơn 4,5% oxi đã được kết hợp với
hemoglobin của máu. Sự thiếu hụt oxi thường thấy ở trong các chuồng nuôi có mật độ dầy và
thông khí kém, ảnh hưởng xấu đến sự điều tiết nhiệt và các quá trình trao đổi chất của gia
cầm. Trong điều kiện nhiệt độ thấp, sự thiếu hụt oxi hạn chế sự co của các mạch máu bên
ngoài, làm giảm khả năng phản ứng của da đối với tác động lạnh và làm cho cơ thể mất nhiệt.
Do đó không cung cấp đầy đủ oxi qua không khí sẽ làm tăng ảnh hưởng có hại của nhiệt độ
thấp. Sự thiết hụt oxi trong khi độ nhiệt cao gây nguy hiểm cho hệ tim mạch vì nó làm giảm
khả năng điều tiết của cơ thể. Cung cấp đầy đủ oxi qua hệ thống thông khí có tác dụng tốt đối
với sức đẻ trứng, hệ số sử dụng thức ăn và tình trạng chung của cơ thể.
Gà mái nặng 2,5 – 3kg trong lúc yên tĩnh tiêu thụ, theo Romein và CTV, 12 l oxi trên một
kilôgam khối lượng cơ thể, gà mái nặng 4 kg tiêu thụ 10 l. Khi vận động và thức ăn vừa phải thì
lượng oxi tiêu thụ có thể tăng gấp đôi.
Khí cacbonic sinh ra trong quá trình thở và quá trình phân huỷ của vi sinh vật. Trong
không khí thở ra chứa gần 4% khí cacbonic. Trong các chuồng nuôi có mật độ cao, thông khí
kém không khí bị bão hoà khí cacbonic, có thể vượt quá tiêu chuẩn. Khí cacbonic, được thải
ra cùng với không khí nóng, do tỷ trọng của khí cacbonic cao hơn của không khí, khí này bay
lên trên và tụ tập nhiều ở trần nhà. Khí này không độc nhưng có nồng độ cao sẽ ảnh hưởng
xấu đến sự trao đổi chất, tình trạng chung của cơ thể, khả năng sản xuất và sức chống đỡ đối
với bệnh tật. Trong các khí nghiệm của Helbak và cộng sự, trong 24 giờ gà mái đẻ được nuôi
trong chuồng nuôi có nồng độc cacbonic là 5%. Gà ngạt thở, trông rất ủ rũ. Gà không còn
đứng vững được nữa, nhưng sau đó đưa về chuồng nuôi có thành phần không khí bình thường
thì chúng lại nhanh chóng hồi phục lại như thường. Gà thải phân nhiều, kém ăn, nhưng uống
nước nhiều, pH của máu giảm xuống. Độ nhiệt môi trường và sự đòi hỏi về thức ăn làm tăng
mức độ bài tiết ra khí cacbonic của gà. Sơ bộ có thể tính được là một gà mái đẻ thải ra khoảng
1,4l khí cacbonic trên một kilôgam cơ thể. Hàm lượng khí cacbonic không thể là tiêu chuẩn
để xét chất lượng không khí trong chuồng nuôi vì thiếu sự tương quan với các thành phần

khác và các yếu tố của tiểu khí hậu. Theo Blanunt hàm lượng khí cacbonic trong không khí
Formatted: Vietnamese

90

chuồng nuôi trong điều kiện thông khí tốt không được quá 0,07 – 0,I%; theo ý kiến của Pero
và Kastello, một số tác giả khác nhau cũng đồng ý với họ, thì con số này là 0,2%.
Khi tính sự thông khí, cần phải chú ý đến sự thải khí cacbonic ra ngoài vì rằng để đưa khí
cacbonic ra ngoài cần ít không khí hơn là việc đẩy hơi nước tạo ra do sự thở của gà ra khỏi chuồng
nuôi. Do đó trong không khí khô thì hàm lượng của khí cacbonic không lớn.
Amoniac được tạo ra do sự phân huỷ của vi sinh vật đối với ure chứa trong phân và
các chất chứa nitơ khác. Hàm lượng amoniac trong không khí chuồng nuôi phụ thuộc vào số
lượng phân tích trong lớp độn chuồng, do đó phụ thuộc vào mật độ nuôi, độ ẩm, nhiệt độ của
không khí của lớp độn chuồng, tốc độ bay hơi và, ở một mức độ nhỏ hơn, là nguyên liệu và
độ xốp của lớp độn chuồng. Khi độ nhiệt dưới 0
0
C và độ ẩm dưới 20%. Otta và những người
cộng tác không thấy có amoniac. Khi độ nhiệt cao hơn 0
0
C và độ ẩm là 70% đã thấy có
amoniac. Nó có thể sinh ra khi nhiệt độ là dương và độ ẩm của lớp độn chuồng cao hơn 22%.
Nếu dùng mùn cưa để làm lớp độn chuồng thì amoniac bắt đầu được sinh ra ở độ ẩm của
không khí thấp hơn. Amoniac tiếp tục sinh ra đến khi độ ẩm của lớp độn chuồng chưa đạt đến
63%. Các tác giả này cho rằng trong nồng độ của amoniac là 75% gà ngửa cổ lên, nhưng nếu
nồng độ là 40% thì không thấy hiện tượng đó. Nồng độ thấp nhất của amoniac mà con người
cảm giác được là 10 – 15%, nồng độ là 25 – 35% gây ra bỏng màng nhầy và chảy nước mắt.
Như Longhaus và những người công tác cho biết gà có thể chịu đựng được nồng độ amoniac
40%, trong thời gian dài mà không bị độc hại. Nồng độ amoniac cao nhất cho phép trong
chuồng còn có nhiều ý kiến khác nhau. Longhaus tính được là 40%. Kastello cho rằng giới
hạn đó là 25%. Theo Lanovsky nồng độ amoniac trong chuồng nuôi không được quá 10%.

Amoniac và H
2
S trước hết làm hỏng màng nhầy của đường hô hấp, làm giảm sức
chống đỡ của gà đối với các tác nhân gây bệnh. H
2
S là một khí rất độc, có mùi rất khó ngửi,
được sinh ra với các khí khác trong các quá trình mục rữa. Ở nồng độ rất thấp nó cũng gây
độc. Chưa có số liệu chính xác về nồng độ cho phép của H
2
S trong không khí chuồng nuôi.
Ngoài các khí trên, không khí trong chuồng nuôi còn luôn luôn chứa bụi là những
phần tử sống (vi sinh vật) và không sống (có nguồn gốc hữu cơ hay vô cơ). Do sự có mặt của
bụi nên rất khó kiểm tra tiểu khí hậu một cách có hiệu quả, tất cả những thực nghiệm theo
hướng này cho đến nay thực tế chưa đạt được những kết quả mong muốn.
Bụi không phải là một thành phần đồng nhất của không khí mà bao gồm những phần
tử có kích thước khác nhau. Những phần tử to và nặng nhanh chóng rơi xuống, những phần tử
nhẹ hơn bay lơ lửng trong không khí một thời gian dài. Koon và những người cộng tác đã
phân biệt được hai loại phần tử trong buồng khí hậu có cấu tạo đặc biệt. Một loại phần tử bao
gồm những cấu tạo phẳng, hình vảy và hình khung, đó là những mảnh tế bào biểu bì và các
phần tử của thức ăn. Loại thứ hai có dạng trụ dài, đó là các mảnh lông. Cả hai loại này đều
tích điện và do đó tạo thành những đám bụi riêng biệt có kích thước khác nhau. Nuôi trên lớp
độn chuồng, bụi được tạo ra chủ yếu là do các mảnh vụn của lớp độn chuồng đó.
Quy luật tạo thành bụi trong chuồng nuôi rất phức tạp và đến nay vẫn chưa được giải
thích đầy đủ. Trong chăn nuôi lồng và chăn nuôi trên lớp độn chuồng, sự tạo thành bụi khác
nhau về nguyên tắc. Trong trường hợp đầu sự tạo thành bụi chủ yếu là do độ nhiệt trong
chuồng nuôi. Bụi được tạo thành nhiều nhất khi độ nhiệt giữa 15 và 2I
0
C. Trong độ nhiệt
thấp, ở giới hạn I0
0

C hay thấp hơn, sự tạo thành bụi bị hạn chế do những nguyên nhân chưa rõ
rệt. Nuôi trên lớp độn chuồng sự tạo thành bụi gắn liền với độ ẩm của không khí. Độ ẩm của
không khí và hàm lượng hơi nước trong lớp độn chuồng có liên quan chặt chẽ với nhau. Độ
ẩm của không khí thấp sẽ làm cho bụi sinh ra nhiều. Trong độ ẩm là 70% Grub và những
người cộng tác thấy bụi ở mức trung bình. Otta và những cộng tác đã xác định được độ ẩm
của lớp độn chuồng là 36 – 40% khi độ ẩm của không khí là 75% và ở độ nhiệt trung bình,
hơn nữa trong điều kiện này hầu như bụi không được sinh ra. Trái lại, khi độ nhiệt cao (32
0
C)
và độ ẩm của không khí là 55 – 70% thì trong chuồng nuôi rất nhiều bụi vì độ ẩm của lớp độn
chuồng chỉ có 21 – 25%. Sự tạo thành bụi khi nuôi trên lớp độn chuồng còn phụ thuộc vào
Formatted: Vietnamese

91

nguyên liệu được dùng làm độn chuồng, vào thời gian sử dụng lớp độn chuồng và vào sự hoạt
động của gà. Lớp độn chuồng càng cũ càng tạo ra nhiều bụi vì gà làm gãy vụn chúng cùng với
thời gian. Mặt khác trong lớp độn này tích luỹ nhiều mảnh vụn thức ăn, phân gà và cả biểu bì
của da. Grub và những người cộng tác đã xác định được rằng mỗi gà mái nuôi trong lồng một
ngày tạo ra 54g bụi. Trong điều kiện nuôi trên lớp độn, con số này có thể cao hơn 4 – 12 lần
tuỳ thuộc vào loại và vào thời hạn sử dụng lớp độn chuồng. Sự xác định về mặt số lượng
không thu được những kết quả mong muốn (do các phần tử của bụi có số lượng không giống
nhau) vì vậy đó chỉ là những con số có tính chất tham khảo.
Tác dụng gây hại của bụi đối với cơ thể gà một mặt được biểu hiện ở chỗ chúng là
những vật mang nhiều sinh vật gây bệnh, mặt khác chúng chui vào các đường hô hấp, phá
hoại cơ học và hoá học lớp màng nhầy. Cuối cùng chúng làm giảm sức chống đỡ của cơ thể
gà đối với các bệnh hay lây.

2.4.2. Nhiệt độ
Trong tất cả các yếu tố của tiểu khí hậu, nhiệt độ là yếu tố quan trọng nhất. Làm giống

như vùng độ nhiệt thích hợp của y tế, Schultz và Pekert đưa vào chăn nuôi một khái niệm về
vùng nhiệt độ của khả năng sản xuất. Trong vùng nhiệt độ này động vật tiêu tốn ít thức ăn
nhất mà khả năng sản xuất lại cao nhất. Ở gà trưởng thành vùng nhiệt độ này nằm trong giới
hạn từ 10 đến 20
0
C.
Otta cho rằng nhiệt độ thích hợp nhất cho sự đẻ trứng là giữa 10 và 18
0
C, Longhaus
và những người cộng tác thì cho rằng nhiệt độ đó là 13
0
C. Haues và những người cộng tác
cho biết, nhiệt độ 13 – 15
0
C là thuận lợi nhất cho hệ số sử dụng thức ăn. Nhiệt độ thấp hơn
nữa sẽ làm cho sự sản xuất trứng phải trả một giá đắt hơn vì thức ăn để sản xuất ra một quả
trứng nhiều hơn. Romein và Lokhorst trong những thí nghiệm gần đây về mối quan hệ giữa
nhiệt độ với trao đổi khí, yêu cầu về thức ăn và nước, nhiệt độ cơ thể và mất nhiệt do sự bay
hơi đã cho rằng cần phải giữ nhiệt độ trong chuồng nuôi gà mái ở 20
0
C hay cao hơn. Nhưng
giữ được nhiệt độ này trong mùa đông cho đến nay còn là một loạt vấn đề chưa được giải
quyết đầy đủ. Từ những kết quả của những nghiên cứu đáng tin tưởng liên quan đến chế độ
trong chuồng nuôi có thể rút ra những kết luận thực tiễn dưới đây: vùng nhiệt độ trong giới
hạn 22 – 25
0
C là thuận lợi. Còn 0
0
– 5
0

C và 25- 30
0
C là nguy hiểm, dưới 0
0
và cao hơn 30
0
C
là rất nguy hiểm.
Ảnh hưởng của các yếu tố tiểu khí hậu đến cơ thể gia súc phụ thuộc vào khả năng điều
tiết nhiệt của chúng. Khả năng này là tất cả các quá trình liên quan với sự trao đổi và thoát
nhiệt để giữ cho cơ thể có một nhiệt độ không đổi. Khả năng điều tiết nhiệt đã phát triển hoàn
toàn ngay từ khi gà còn nhỏ và có liên quan nhiều với cơ chế điều tiết nhiệt bằng hoá học và
lý học. Trong cơ chế đầu sự tăng hay giảm cường độ trao đổi các chất trung gian sẽ làm tăng
hay giảm sự sản sinh ra nhiệt. Nhiệt độ và độ ẩm của không khí, thành phần thức ăn ảnh
hưởng rất nhiều đến các quá trình này. Khi nhiệt độ thấp hơn 20
0
C sự sản sinh ra nhiệt của
động vật tăng lên, 20 – 30% nhiệt lượng tạo ra được thải ra ngoài qua sự bốc hơi. Sự đòi hỏi
về thức ăn cũng tăng lên, nhu cầu về nước cũng tăng theo.
Khi nhiệt độ cao hơn 20
0
C, sự sản sinh ra nhiệt của cơ thể không thay đổi, cùng với sự
tăng nhiệt độ của chuồng nuôi sẽ xảy ra sự điều tiết lý học, biểu hiện ở sự thoát nhiệt bằng
cách bốc hơi. Ở nhiệt độ 27
0
C sự thoát nhiệt bị hạn chế mạnh, và khi ở nhiệt độ 32
0
C sự thoát
nhiệt hoàn toàn ngừng lại. Trong trường hợp này theo Wilson và những người cộng tác nhiệt
độ bề mặt cơ thể bằng nhiệt độ môi trường bên ngoài không khí. Phần lớn sự thoát nhiệt xảy

ra ở những phần không có lông của da.
Da của gà không có tuyến mồ hôi. Do đó trong môi trường nóng, sự thoát nhiệt hầu
như gắn liền với sự thải hơi nước qua đường hô hấp. Sự thoát nhiệt sinh lý chủ yếu phụ thuộc
vào nhiệt độ của môi trường, sự chuyển động của không khí, và áp lực của hơi nước trong
Formatted: Vietnamese
Formatted: Font: 14 pt, Vietnamese
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Vietnamese
Deleted:


92

không khí. Độ ẩm của không khí hít vào cao làm hạn chế sự bốc hơi của chim và do đó hạn
chế sự thoát nhiệt của chúng.
Bởi vậy trong thời tiết nóng mà không khí không chuyển động, nhiệt độ cơ thể sẽ
nhanh chóng đạt tới mức nguy hiểm hơn là ở những ngày nóng nhưng khô, và điều này có thể
làm cho gà bị chết choáng do nóng.
Khả năng chống đỡ lại không khí nóng tuỳ thuộc vào từng giống. Gà Leghorn có thể
chịu đựng được dễ dàng hơn so với gà nặng cân. Điều này được giải thích là do khác nhau về
mặt di truyền của khả năng hoạt động của gà, đó có thể là một những dạng thuần hoá về mặt
di truyền đối với nhiệt độ cao. Bề mặt và khối lượng cơ thể là những thông số vật lý quan
trọng về mặt này.
Khi nhiệt độ tăng lên gà bắt đầu xoã cánh, mở những bộ phận không có lông của da để
làm tăng sự thoát nhiệt. Nhịp thở tăng lên và lông dựng lên để làm tăng quá trình bốc hơi và
đó là con đường duy nhất để thực hiện sự thoát nhiệt. Trong những ngày nóng, cung cấp nước
mát đầy đủ là rất quan trọng để tránh cho gà khỏi bị chết vì choáng nóng. Khi bị choáng nóng
gà mất hơn 20% nước theo không khí thở ra. Wilson và những người khác đã chứng minh, ở
nhiệt độ 18
0

C gà mái yêu cầu về nước gấp hai lần thức ăn, còn ở 35
0
C gấp 4,7 lần. Ở nhiệt độ
trên 20
0
C, yêu cầu về nước đã không còn song song với thức ăn nữa và chỉ phụ thuộc vào
nhiệt độ của môi trường. Yêu cầu về nước tăng lên là để làm mát cơ thể. Khi nhiệt độ môi
trường tăng lên, cơ thể bắt đầu điều tiết bằng cách giảm thấp cường độ trao đổi chất và yêu
cầu về thức ăn, như vậy giảm sự sản sinh ra nhiệt. Khi nhiệt độ của chuồng nuôi lên đến 28 –
32
0
C, sự sản sinh ra nhiệt đạt tới mức cao. Nhiệt độ 32
0
C nên được coi là nhiệt độ tới hạn:
tăng cao hơn nữa sẽ gây ra hiện tượng quá nhiệt, càng nguy hiểm nếu độ ẩm của không khí
càng cao (Romein và Lokhorst). Sự khác nhau giữa nhiệt độ bình thường và nhiệt độ gây chết
của cơ thể gà rất không rõ rệt. Phụ thuộc vào các giống gà, thời gian trong năm và ngày đêm,
nhiệt độ gây chết của gà thay đổi giữa 40,3 - 43
0
C. Nhiệt độ gây chết phụ thuộc vào các giống
gà, vào giới tính, thời gian trong năm và sự thuần hoá trước đó, có thể thay đổi giữa 45 và
47
0
C. Khi nhiệt độ không khí trong chuồng nuôi là 24
0
C, yêu cầu về thức ăn giảm xuống,
khối lượng cơ thể gà giảm dần dần. Khối lượng của quả trứng giảm xuống nhiều sau 24 giờ
thay đổi nhiệt độ 21
0
lên 27

0
C trong khi khối lượng của cơ thể có thể giảm xuống ở nhiệt độ
trên 18
0
C. Khối lượng quả trứng giảm xuống nhiều ở nhiệt độ cao hơn 29
0
C. Cùng với sự
giảm khối lượng quả trứng do nhiệt độ, vỏ trứng cũng trở nên mỏng hơn. Nguyên nhân của
hiện tượng này còn chưa được rõ. Không nên giải thích là gà ăn ít thức ăn cũng tức là ăn ít
canxi vì gà trong nhiệt độ cao lại tăng cường hấp thụ canxi. Tăng số lượng canxi trong thức ăn
(4%) trong trường hợp này rõ ràng là có lợi vì trong thời gian hình thành vỏ trứng, hàm lượng
canxi trong cơ thể tăng lên, điều này có thể làm cho sự hấp thụ canxi được dễ dàng trong thời
kỳ mà cơ thể đang bị nguy ngập nhất (Meller).
Lượng thức ăn ăn vào giảm xuống và sự phá hoại mạnh mẽ trạng thái chung của cơ
thể đã làm giảm sức sản xuất và phụ thuộc một cách trực tiếp vào sự tăng nhiệt độ trong
chuồng nuôi. Khi nhiệt độ ở 29
0
C, sức sản xuất giảm xuống nhiều, nhưng sự giảm đó có sự
khác nhau giữa các cá thể, các giống và xuất xứ của gà.
Biểu hiện của sự giảm sút này phụ thuộc vào tốc độ thay đổi nhiệt độ và thời gian kéo
dài của tác động. Nhiệt độ tăng nhanh ảnh hưởng đến sức đẻ trứng, chất lượng trứng và yêu
cầu về thức ăn còn nguy hại hơn nhiệt độ tăng từ từ. Đặc biệt nguy hại là tăng nhiệt độ kéo dài
và lặp đi lặp lại trong khoảng vài ngày. Tăng nhiệt độ từ 39
0
C đến 32
0
C trong năm giờ mỗi
ngày, điều này đã được làm với thí nghiệm của Meller và kkết quả là, nhiệt độ cao không ảnh
hưởng đến sức đẻ trứng nếu thời gian có nhiệt độ cao được thay thế định kỳ với thời gian có
nhiệt độ thấp hơn.

Nhiệt độ tăng lên từ 35 đến 45
0
C làm cho gà chết nhiều. Số lượng gà chết vì choáng
nóng phụ thuộc vào mức độ tăng và thời gian kéo dài của tác động nhiệt độ cao. Theo tài liệu
của Wilson, gà mái đẻ Leghorn có thể chịu đựng được nhiệt độ 40
0
C hơn sáu giờ. Trong
Formatted: Vietnamese

93

những tài liệu cũ (Loe và người cộng tác) đã cho biết gà mái đẻ không chịu được nhiệt độ
43,3
0
C. Tất nhiên con số này không thể coi là tuyệt đối. Khả năng gà có thể chịu đựng được
nóng đặc biệt phụ thuộc vào nhiệt độ mà chúng đã sống trước khi có nhiệt độ cao. Gà đã thích
ứng với nhiệt độ cao có thể chịu đựng được sự thay đổi mãnh liệt của nhiệt độ tốt hơn gà đã
quen sống ở nhiệt độ thấp, và chúng cũng chết ít hơn so với bọn sau. Có thể huấn luyện gà
quen với nhiệt độ cao hơn (tức là làm tăng sự ổn định của chúng đối với nóng) nếu hằng ngày
tăng thêm bốn độ cho tới khi đạt tới 37
0
C (Hatchinson và Saiks). Đó là kinh nghiệm tốt để các
trang trại tập chống nóng cho gà trước khi vào mùa hè, nóng nhất trong năm nhằm nâng cao
sức chống nóng của gà. Nhiệt độ của cơ thể gà trong ba, bốn ngày trong giới hạn khả năng
sinh lý có thể thích ứng được với sự thay đổi nhiệt độ của môi trường. Muốn làm thay đổi
nhịp thở cần phải từ tám đến mười ngày. Gà mái chưa đẻ chịu đựng được nóng tốt hơn gà mái
đẻ, gà trống chịu đựng tốt hơn gà mái. Nhiệt độ cao cũng làm cho hoạt động của tim bị yếu đi,
giảm độ nhớt của máu, giảm hàm lượng muối clo, tăng độ pH, tăng khả năng kết hợp giữa
máu và khí cacbonic. Ngoài ra còn thấy số lượng hồng cầu giảm xuống, giảm khối lượng
tuyến giáp trạng, và yêu cầu về oxi của cơ thể. Khả năng đông máu cũng giảm xuống.


2.4.3.Chăm sóc sức khoẻ gia cầm trong điều kiện khí hậu nóng ẩm
Stress do nóng/ ẩm gây nên. Sự điều hoà thân nhiệt của gà giới hạn trong phạm vi
thở, bốc hơi nước, đối lưu, bức xạ nhiệt, dẫn nhiệt, đẻ trứng và bài tiết. Vì gà không có tuyến
mồ hôi nên cách toả nhiệt hiệu quả nhất là bốc hơi nước bằng cách há mỏ để thở. Gà bắt đầu
há mỏ để thở khi cơ thể không thể làm giảm thân nhiệt bằng cách xoè cánh, uống thêm nước,
vùi mình trong lớp độn chuồng ẩm mát và dồn máu từ cơ quan nội tạng ra mạch máu ngoại vi.
Bằng cách há mỏ đẻ thở, tần số thở tăng từ nhiệt độ bình thường trên 20 lần/phút tới vài trăm
lần/phút, thải ra một lượng lớn khí CO
2
, như vậy giảm H
2
CO
3
và dấn đến kiềm hoá máu.
Những biến đổi này làm thay đổi nhu cầu chất điện phân của cơ thể, độ pH của chất lỏng
trong cơ thể và áp suất thẩm thấu. Tóm lại, trong điều kiện đó gà không thể thực hiện các
chức năng của cơ thể một cách bình thường. Gà cũng uống thêm một lượng nước thừa đối với
cơ thể và thải thức ăn ăn vào khi chưa được tiêu hoá và hấp thu hết. Gà bị thiếu dinh dưỡng,
sụt cân, sức đề kháng giảm và thường bị nhiễm khuẩn. Bảng dưới đây cho thấy ảnh hưởng
của nóng và ẩm đối với gà:

Điều kiện nóng và ẩm gây nên:

Giảm
Lượng thức ăn tiêu thụ
Chất lượng thức ăn
Tốc độ tăng trọng
Hiệu quả sử dụng thức ăn
Khối lượng Trứng

Sản lượng trứng
Chất lượng vỏ trứng
Tỷ lệ trứng có phôi
Tỷ lệ ấp nở
Chất lượng thân thịt
Sức đề kháng bệnh
Tỷ lệ nuôi sống
Đáp ứng miễn dịch
Hàm lượng kháng thể
Hạn sử dụng vaccin
Tăng
Mổ cắn
Vi Khuẩn sinh sản
Sản sinh mycoxin
Nhu cầu về diện tích chuồng
Nhu cầu về không khí sạch
Nhu cầu về thông thoáng
Chi phí làm mát
Bệnh tật
Nhu cầu công nhân
Lớp độn chuồng ẩm ướt
Trứng bẩn
Viêm đường ruột
Thiếu hụt dinh dưỡng
Quần thể động vật gây hại
Mất nước

Formatted: Vietnamese
Formatted: Vietnamese
Formatted: Vietnamese

Formatted: Font: 14 pt, Vietnamese
Formatted: Font: 14 pt
Deleted:


94

Phần lớn các vùng có khí hậu nóng nằm trong khu vực các nước đang phát triển, các điều
kiện của khu vực càng làm giảm hiệu quả sản xuất gia cầm. Các điều kiện đó là:
- Điều kiện vận chuyển kém
- Thiếu phòng thí nghiệm và dịch vụ chẩn đoán
- Không có sẵn thuốc thú y, vaccin và thiết bị hoặc giá đắt
- Thiếu dây truyền thiết bị lạnh tốt để vận chuyển và bảo quản vaccin
- Chất lượng vaccin địa phương là vấn đề còn nghi vấn
- Không đủ chuồng nuôi, thiết bị làm lạnh và thông thoáng
- Mật độ nuôi cao.
- Cách ly kém
- Tiêu chuẩn chăn nuôi chưa cao
- Nhiều chuột, côn trùng, chim hoang và các động vật khác
- Công nhân không được đào tạo, trả lương quá thấp
- S. pullroum, S typhoid, MG và MS lưu hành
- Thường xảy ra việc vaccin không có tác dụng
- Chất lượng và nguồn thức ăn kém
- Thiếu năng lượng
- An toàn sinh học kém hoặc không có
- Mật độ dân số cao và dân chúng đi lại nhiều
Do vậy, không có gì đáng ngạc nhiên rằng nhiều bệnh xảy ra và khó khống chế.
Những bệnh thịnh hành nhất ở các nước Nam Châu á được trình bày ở bảng sau đây, mức độ
nổi trội thay đổi theo từng khu vực.
Các bệnh thịnh hành ở vùng Nam Á

1. Bệnh Newcatsle
2. Bệnh Gumboro
3. Bệnh Marek
4. Bệnh Cầu trùng
5. Mycoplasma ( MG, MS)
6. CRD
7. Aspergillosis
8. Ngộ độc độc tố nấm
9 Bệnh Coryza
10. Bệnh đậu gà
11. Leucocytozoonosis
12. Nội ký sinh trùng
13. Thiếu dinh dưỡng
14. Hội chứng giảm đẻ
15. Colibacillosis
16. Tích nước xoang bụng (ascites)
17. Phản ứng với vaccin
18. Viêm rốn
19. Sưng bàn chân
20. Bệnh tụ cầu khuẩn
Cần phải làm gì để giảm stress nóng và ẩm?
Cách tốt nhất tránh stress là đề phòng xảy ra stress. Để làm điều đó người ta phải chọn
địa điểm trại và thiết kế trại với mục tiêu giảm nóng và ẩm. Trước hết, vị trí của trại, hướng
và sự thông thoáng của chuồng phải được thiết kế sao cho càng thuận tiện cho gà càng tốt.
Trần cách nhiệt, phun sương, thông thoáng kiểu đường hầm hoặc làm mát bằng hơi nước - các
phương pháp này phải được sử dụng triệt để bất cứ khi nào cũng có thể tạo cho gà một tiểu
môi trường thích hợp để đạt năng xuất cao.

95


Ngoài việc cải thiện tiểu môi trường, người ta có thể giảm hơn nữa ảnh hưởng bất lợi
của khí hậu bằng các cách sau đây:

1. Cung cấp nhiều nước uống sạch mát, tốt hơn là dùng máng uống có núm.
2. Cho gà ăn trước bình minh, khi trời còn tối và tương đối mát.
3. Thức ăn phải tươi và giàu vitamin, chất khoáng và thuốc diệt nấm (như 100% axit
formic hoặc 0 - 0,15% axit propionic) và chất chống ôxy hoá (như Ethoxyquin 125 ppm).
4. Bổ sung 4 - 18 kg natri bicarbonate vào 1 tấn thức ăn
5. Cung cấp 150 - 6000 phần triệu vitanim C vào nước uống
6. Lặp lại nhiều lần việc gà hậu bị tiếp xúc với nóng ở mức nhất đinh trong thời gian
trước để gà làm quen với khí hậu nóng
7. Trước và trong thời gian dự đoán có thể xảy ra stress do nóng, cần cung cấp cho gà
các chất điện phân và vitamin qua nước uống, bao gồm: KCl, NH
4
Cl, NaHCO
3
, vitamin C và
các vitamin khác.
8. Đủ số lượng máng ăn, máng uống và diện tích cho gà đi lại và hoạt động.
Với tất cả những biện pháp đề phòng nói trên có thể giảm được stress do nóng và ẩm đối với gà,
kết quả là dễ duy trì sức tốt cho đàn gà trong những khu vực nóng ẩm.

2.4.4. Chăm sóc gà trong điều kiện thời tiết lạnh.
Nhiệt độ môi trường giảm xuống làm tăng sự thoát nhiệt của động vật, sự thoát nhiệt này
còn tăng theo sự chuyển động của không khí. Gà điều tiết bằng cách tăng cường hoạt động của
tuyến giáp trạng và cường độ trao đổi chất. Thí dụ giảm nhiệt độ trong chuồng nuôi từ 32 xuống 5
0
C
làm cho gà lông bình thường (đầy đủ) tăng cường trao đổi khí lên 50%. Số lượng tuyệt đối của thức
ăn tiêu thụ và số lượng thức ăn tiêu thụ trên một đơn vị sản phẩm tăng lên khi nhiệt độ giảm xuống,

nuôi gà ở 5
0
C số lượng thức ăn tiêu thụ sẽ tăng 13% so với gà nuôi ở 13
0
C.
Nhiệt độ giảm xuống ảnh hưởng không có lợi tới tình trạng chung của gà và khả năng
sản xuất của chúng. Trong nhiệt độ 7
0
C gà trở nên đờ đẫn và thường cụm vào nhau thành từng
nhóm. Để giảm sự thoát nhiệt qua phần da không có lông, gà xoã cánh và rúc đầu vào cánh.
Ảnh hưởng của nhiệt độ thấp đến sức đẻ trứng không được nghiên cứu tỷ mỉ như ảnh
hưởng của nóng. Heis cho rằng 4
0
C là nhiệt độ tới hạn, giảm thấp hơn nữa sẽ làm cho khả
năng sản xuất bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiệt độ giảm xuống luôn luôn làm giảm khả năng
sản xuất, điều này càng thể hiện rõ khi nhiệt độ càng thấp. Nhiệt độ dưới -10
0
C gây choáng
lạnh đối với gà.
Mức giảm sức sản xuất cũng phụ thuộc vào các đặc tính di truyền vì rằng sức chống
đỡ của gà đối với tác động của nhiệt độ thấp rất khác nhau. Vì vậy sự giảm sức sản xuất để
phản ứng lại sự thay đổi mãnh liệt của nhiệt độ có thể kéo dài từ một đến ba tuần lễ. Điều này
còn phụ thuộc vào thời gian của tác động và tần số biến động. Tác động của nhiệt độ thấp
trong thời gian vài ngày gây ra những choáng lạnh liên tục. Giảm nhiệt độ mãnh liệt và kéo
dài nguy hiểm hơn là giảm từ từ và trong thời gian ngắn. Vì có nhiều bộ phận của cơ thể
không có lông nên gà Leghorn chịu đựng nhiệt độ thấp kém hơn các giống gà nặng cân và
nặng cân trung bình. Nhiệt độ thấp không ảnh hưởng đến khối lượng trứng. Trong chăn nuôi
chăn thả trứng gà có thể đạt được kích thước lớn nhất trong mùa lạnh. Nếu gà không bị mắc
bệnh khi nhiệt độ thấp thì khối lượng của chúng cũng không bị giảm xuống. Trái lại nhiệt độ
thấp lại làm tăng khối lượng của gà. Khi nhiệt độ là 9

0
C khối lượng của gà đã bắt đầu tăng
lên.
Gà chịu đựng khí hậu lạnh tương đối tốt. Nhiệt độ – 1
0
C hay dưới hơn nữa thì mào
trên và mào dưới bị tái. Có thể chống lại hiện tượng này bằng cách bôi vazơlin hay các loại
mỡ bôi khác vào chỗ này. Trong điều kiện thiên nhiên thường nhiệt độ thấp lại đi với độ ẩm
của không khí thấp. Trong điều kiện chăn nuôi thâm canh nếu không thông khí đầy đủ thì
Formatted: Portuguese (Brazil),
Condensed by 0.2 pt
Formatted: Font: 14 pt, Portuguese
(Brazil)
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Portuguese (Brazil),
Condensed by 0.3 pt
Formatted: Portuguese (Brazil)
Deleted:


96

không thể nào thực hiện được điều kiện môi trường tốt. Lạnh đi đôi với độ ẩm cao rất nguy
hiểm. Vì vậy trong khi hạ nhiệt độ và độ ẩm cao gà hay bị ốm và tỷ lệ chết tăng cao.
Để tránh được ảnh hưởng của nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đến khả năng sản xuất
của gà, trong thời gian một năm cần phải làm nhiều thí nghiệm để nghiên cứu tác động của
nhiệt độ cố định đối với gà. Trong mỗi giai đoạn đẻ trứng gà được nuôi trong điều kiện được
khống chế ở một nhiệt độ và độ ẩm nhất định, sự chiếu sáng cũng được kiểm tra. ở đây ánh
sáng chỉ có vai trò phụ.
Sống trong điều kiện này khả năng sản xuất của gà mái thường cao hơn những gà nuôi

trong điều kiện bình thường. Có thể giải thích điều này là do không có ảnh hưởng xấu của sự
thay đổi mạnh mẽ của nhiệt độ và nhiệt độ này nằm trong vùng nhiệt độ của khả năng sản
xuất của gà mái.
Nhiệt độ thường xuyên cao trong giới hạn 26,7 – 37,8
0
C có tác dụng xấu cũng như
nhiệt độ cao trong môt thời gian ngắn. Khả năng sản xuất tăng cao trước hết không phải do sự
ổn định của nhiệt độ và độ ẩm của không khí mà là do tác động ổn định của tiểu khí hậu thuận
lợi. Điều này được biểu biện không những ở khả năng đẻ trứng tăng cao mà còn ở khả năng
sử dụng thức ăn tốt hơn và chất lượng của trứng tốt hơn. Tỷ lệ chết của gà trong thời kỳ này
cũng thấp.
Trong một thí nghiệm dài hạn kéo dài hơn sáu năm gà được nuôi trong những điều
kiện tiểu khí hậu ổn định, Grinvud đã xác định được rằng sức đẻ trứng chỉ giảm dần trong ba
năm đầu. Khác với những gà của nhóm đối chứng được nuôi trong điều kiện thông thường, gà
thí nghiệm không ngừng đẻ trong mùa đông và trong thời gian thay lông do đó khả năng sản
xuất tăng lên nhiều. Tỷ lệ nở của những trứng của nhóm thí nghiệm giảm đi từ năm này qua
năm khác. Trong thời gian từ ba đến sáu năm, tất cả gà của nhóm này chết hết trong khi đó gà
của nhóm đối chứng chết có 11%. Grinvud giải thích điều này là do tác động của hocmon gây
ra bởi hoạt động sinh dục không còn theo chu kỳ nữa trong điều kiện tiểu khí hậu ổn định.

Trong những thí nghiệm khác được tiến hành với mục đích thực tế hơn, thấy rằng điều
kiện tiểu khí hậu ổn định thường không nâng cao rõ rệt khả năng sản xuất. Có thể giải thích
điều này là do điều kiện tiểu khí hậu trong nhóm đối chứng không phải là quá xấu đến mức
ảnh hưởng đến sức sản xuất. Rõ ràng là không nên chờ đợi sự tăng khả năng sản xuất bằng
cách tạo ra tiểu khí hậu ổn định khi điều kiện khí hậu tự nhiên hay cấu trúc chuồng nuôi cho
phép giữ được một nhiệt độ thuận lợi không sai lệch so với giới hạn được công nhận. Trái lại,
nếu sự sai lệch về nhiệt độ là quá lớn theo mùa thì cần thiết phải tạo ra tiểu khí hậu ổn định.
Nuôi gà trong những điều kiện như vậy chỉ có ý nghĩa khi nhiệt độ và độ ẩm tương đối
của không khí nằm trong giới hạn vùng độ nhiệt của khả năng sản xuất. Tạo ra tiểu khí hậu ổn
định đòi hỏi chi phí nhiều tiền và kỹ thuật, do đó cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt kinh tế

trước khi giải quyết vấn đề này.
Trong các chuồng nuôi có nhiệt độ được điều khiển và thông khí tốt cũng thu được
nhiều trứng như trong điều kiện có tiểu khí hậu ổn định. Do chi phí ít tốn kém hơn nên trong
thực tế người ta thích những chuồng nuôi có tiểu khí hậu được điều tiết.
Ở đây tiểu khí hậu ổn định được thay thế bằng các điều kiện được điều tiết, điều này
được thực hiện bằng cách thay đổi không khí bên trong và bên ngoài có nhiệt độ và độ ẩm
khác nhau. Sự thay đổi độ nhiệt trong điều kiện này vẫn nằm trong giới hạn của vùng nhiệt độ
của khả năng sản xuất. Những thông số đặt ra có thể được đảm bảo bằng cấu trúc của chuồng
nuôi và những trang thiết bị kỹ thuật. Cũng có ý kiến cho rằng sự thay đổi nhiệt độ trong giới
hạn cho phép lại kích thích khả năng sản xuất.
Khả năng giữ nước của không khí phụ thuộc vào nhiệt độ. Nhiệt độ càng cao không
khí càng hút ẩm và trái lại. Trong một nhiệt độ cố định, số lượng hơi nước tối đa được hấp thụ
chính là độ ẩm tối đa của không khí, con số này được biểu diễn bằng g/m
3
trong áp lực
760mm thuỷ ngân. Lượng hơi nước có trong không khí ở một thời điểm nhất định được biểu

97

diễn bằng g/m
3
gọi là độ ẩm tuyệt đối. Thường người ta dùng độ ẩm tương đối, đó là phần
trăm của độ ẩm tối đa.
Không khí trong chuồng thường xuyên bão hoà hơi nước do gà thở nước ra, nước bốc
hơi từ phân, từ bề mặt của trang bị cung cấp nước, nước rơi vãi và hơi ẩm từ ngoài vào do
thông khí. Gà mái nặng 2 kg, khi tỷ lệ đẻ là 65%, mỗi ngày thở ra khoảng 100g hơi nước. Có
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự thải hơi nước, đặc biệt là nhiệt độ của không khí, sự đẻ trứng,
thành phần thức ăn, cấu tạo của máng uống v.v… Do đó, muốn đẩy lượng hơi nước thừa ra
bên ngoài cần phải có hệ thống thông khí. Trong điều kiện nhiệt độ thấp, điều này khó thực
hiện vì ở nhiệt độ thấp gà ăn nhiều hơn do đó cũng phải uống nhiều, nước sẽ ra theo phân rất

nhiều.
Chưa có những nghiên cứu kỹ về ảnh hưởng của độ ẩm khác nhau đến các chỉ tiêu sản
xuất của gà. Rõ ràng là trong điều kiện nhiệt độ bình thường, độ ẩm của không khí tốt nhất
trong chuồng nuôi là 56- 70%, về mùa đông không quá 80%. Độ ẩm của không khí cao không
những ảnh hưởng đến sự cân bằng nhiệt mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng sản xuất
của gà. Người ta đã chứng minh có một mối liên quan chặt chẽ giữa nhiệt độ và độ ẩm của
không khí trong sự điều tiết nhiệt của gà.
Do độ ẩm của không khí cao, sự bốc hơi của màng nhầy đường hô hấp bị giảm sút.
Kết hợp với nhiệt độ cao sẽ làm cho sự thoát nhiệt bị hạn chế, làm tăng mối nguy hiểm của sự
choáng nóng. Kết hợp với nhiệt độ thấp điều này trước hết làm tăng sự nhậy cảm của gà đối
với nhân tố gây bệnh, đặc biệt là những bệnh của đường hô hấp. Độ ẩm cao tạo điều kiện
thuận lợi cho sự sống của tất cả các loại vi khuẩn thường gặp trong chuồng nuôi và số lượng
của chúng có thể lên tới giới hạn nguy hiểm. Khi độ ẩm của không khí cao hơn 75% trong
thời tiết lạnh, hơi nước sẽ tập trung trong lớp độn chuồng và chuồng sẽ trở nên ướt át, bẩn
thỉu. Sự chăm sóc gà sẽ gặp khó khăn, mất nhiều công lao động để rửa các dụng cụ và rửa
trứng, các bệnh hay lây sẽ càng nguy hiểm.
Độ ẩm thấp có hại cho gà vì bụi sinh ra nhiều, làm hỏng màng nhầy. Không khí khô
làm khô da, gây ra bệnh ngứa, đó là một trong những nguyên nhân mổ nhau và ăn lông.
Độ ẩm thấp, sự bốc hơi từ đường hô hấp tăng lên làm cơ thể dễ bị lạnh.

2.4.5. Ánh sáng
Như đã biết gà rất nhạy cảm với ánh sáng và sự chiếu sáng tia sáng có thể nhìn thấy
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của chúng. Trước đây người ta đã thấy có ảnh hưởng
kích thích của sự chiếu sáng nhân tạo lên sức đẻ trứng trong các tháng mùa đông. Hiện tượng
này một mặt được giải thích là do tác động của bản thân ánh sáng, mặt khác là do kéo dài thời
gian chiếu sáng sẽ làm tăng sự đòi hỏi về thức ăn. Sau này người ta đã chứng minh rằng sức
đẻ trứng tăng lên không phải là do kéo dài thời gian mà là do tác động của bản thân ánh sáng.
Một vấn đề đã được chứng minh là hiện tượng rụng trứng phụ thuộc vào sự chiếu
sáng. Bằng cách kéo dài thời gian chiếu sáng, Warten và Scotl đã đạt kết quả làm cho gà mái
thí nghiệm đẻ trứng vào bất kỳ thời gian nào trong ngày đêm, trong khi ấy thông thường gà

mái chỉ đẻ có ánh sáng ban ngày. Nếu nhốt gà mái suốt ngày trong bóng tối, còn ban đêm thì
chiếu sáng thì gà chỉ đẻ trứng về ban đêm.
Ánh sáng không những chỉ ảnh hưởng đến thời gian rụng trứng, mà còn ảnh hưởng
đến sự thành thục và hoạt tính chung của các cơ quan tạo trứng. Theo Rowan (1936) thì chiếu
sáng nhân tạo để kéo dài ngày đã được sử dụng ở Tây Ban Nha hơn 100 năm nay. Năm 1889,
chính trại gà Woldorf của ông ở Buffalo – bang Niu Ooc đã ứng dụng chiếu sáng đầu tiên để
nâng cao năng suất trứng trong mùa đông.
Các nghiên cứu khoa học về vấn đề này cũng mới bắt đầu cách đây không lâu. Tuy
nhiên, để làm sáng tỏ toàn bộ trạng thái tác động của ánh sáng đối với các cơ quan tạo trứng
không phải là điều đơn giản. Vì hình như có hai quá trình cũng diễn biến đồng thời trong cơ
thể. Một mặt nhờ chiếu sáng nhân tạo mà ngày ăn được kéo dài, gà mái ăn được nhiều thức ăn
Formatted: Font: 14 pt, Portuguese
(Brazil)
Formatted: Font: 14 pt
Deleted:


98

hơn và khi bắt đầu tối mới ngừng ăn. Ngày ngắn thì sử dụng thức ăn ít hơn, điều ấy làm cho
việc hấp thu các chất dinh dưỡng để tạo ra tế bào trứng ít hơn, kết quả là năng suất trứng
giảm. Mặt khác, ánh sáng có ảnh hưởng đến hoạt động các tuyến sinh dục nhưng không qua
con đường hấp thu dinh dưỡng, mà có thể theo con đường hocmon, thông qua tuyến yên.
Rowan đã nghiên cứu vấn đề này không chỉ ở gà mái mà còn ở các loài chim khác. Biến động
có nhịp điệu trong sự phát triển các tuyến sinh dục ở chim rừng cao hơn ở gia cầm. Trong
một thời gian dài người ta đã cho rằng, có sự khác nhau này là do thay đổi độ nhiệt. Rowan
bác bỏ giả thuyết ấy. Ở nhiệt độ - 46,7
0
mùa đông, đã kích thích có kết quả sự phát triển các
tuyến sinh dục loại chim xám (Junco hyemalis). Trong thí nghiệm này ông dùng điện chiếu

sáng cho chim và lúc cuối ngày đông ngắn ngủi (ở vĩ độ 54
0
), mỗi lần kéo dài thêm 5 ph. Sau
hai tháng, cả chim trống lẫn chim mái đều đạt đến trạng thái sẵn sàng giao phối. Rút ngắn ánh
sáng ban ngày sẽ làm cho các tuyến sinh dục thoái triển. Các tuyến sinh dục bị teo, bằng cách
ấy khi kéo dài ánh sáng nhân tạo ban ngày thì cơ quan sinh dục bắt đầu phát triển trở lại. Ảnh
hưởng của chiếu sáng nhân tạo làm xuất hiện động dục đã được chứng minh trong những thí
nghiệm ở động vật có vú.
Byerly và Knox dùng các thí nghiệm chứng minh rằng, thời gian bắt đầu thành thục
sinh dục ở gà mái tơ vào lúc đẻ quả trứng đầu tiên, phần lớn tuỳ thuộc vào ngày dài hay ngắn.
Mái tơ nở ra sau ngày 18 tháng tư bắt đầu đẻ trứng chậm hơn những mái nở vào quãng 21
tháng ba độ ba tuần, vì ở những gà đẻ muộn phần lớn thời gian sinh trưởng nằm vào thời gian
ngày ngắn trong năm.
Khi đẻ quả trứng đầu tiên mà thời gian ngày dài chênh lệch nhau 1 giờ thì sẽ dẫn đến
chênh lệch về thời gian bắt đầu thành thục sinh dục từ 5 đến 15 ngày.
Dựa vào các dẫn liệu trên, Hutt xác định rằng mùa xuân sản lượng trứng tăng lên trước
hết là do ảnh hưởng kích thích của ngày ánh sáng kéo dài. Cần quy một phần ảnh hưởng nhất
định vào trạng thái độ nhiệt tăng cao gắn liền với ngày kéo dài nhưng tất nhiên so với ánh
sáng thì ảnh hưởng này ít hơn. Wytem phát hiện rằng, sự tăng giảm theo mùa vụ của năng
suất trứng ở vùng xích đạo là thấp nhất. Vĩ độ địa lý càng tăng thì sự lên xuống này càng tăng,
vì ở đây mức chênh lệch giữa ngày dài và ngày ngắn rất cao. Tại tất cả các vĩ độ, năng suất
trứng của gà mái đạt mức cao nhất vào khoảng thời gian từ hai đến ba tháng trước lúc có ngày
dài nhất. Điều ấy buộc phải giả thiết rằng, ngày kéo dài chỉ có ý nghĩa khi mà thời gian chiếu
sáng chưa đạt tới mức cần thiết để kích thích được các tuyến sinh dục. Có thể thừa nhận là
dùng chiếu sáng nhân tạo để kéo dài ánh sáng ban ngày đến mức 13 – 14 giờ là có kết quả
nhất. Nhiều người nuôi gà đã áp dụng biện pháp này vào thực tiễn có hiệu quả.
Người ta cho rằng, ánh sáng tác động vào mắt qua thần kinh thị giác tác động vào
tuyến yên làm tăng cường việc hình thành hocmon ở đấy và bằng cách ấy kích thích hoạt
động các tuyến sinh dục. Một vấn đề đặt ra đối với nhà nuôi gia cầm thực hành là làm cách
nào để sử dụng tốt nhất tác động ấy của ánh sáng vào mục đích kinh tế.

Người ta không thừa nhận giả thiết của Rowan cho rằng, tác động kích thích đối với
tuyến sinh dục là do các tia sáng trông thấy được của ánh sáng.
Platt dùng ánh sáng đỏ yếu của bóng đèn đỏ 15W đã làm tăng được năng suất trứng
mùa đông. Điều đáng chú ý là ánh sáng ấy yếu đến nỗi gà mái không bay ra khỏi sào đậu và
không mổ thức ăn như vẫn thường xảy ra khi có ánh sáng chói. Điều ấy một lần nữa nói lên
tác động độc lập của ánh sáng đối với việc sử dụng thức ăn.
Thí nghiệm của Kennard và Chamberlain, chứng minh rằng, kéo dài chiếu sáng
chuồng gà (suốt đêm) có thể nâng cao năng suất gà mái vào các tháng mùa đông. Chiếu sáng
thường xuyên làm chậm sự thay lông sớm trong thu đông. Cũng bằng phương pháp ấy có thể
điều chỉnh năng suất trứng vào các tháng mùa đông và mùa hè ở mức độ nhất định. Về sau
người ta đã thấy là chiếu sáng thường xuyên có thể buộc những mái nở muộn hoặc gà mái
phát triển chậm vẫn đẻ được, Bartsch nhận thấy rằng, chiếu sáng bổ sung là phương tiện nâng
cao tính phàm ăn và đồng thời là phương tiện hoàn hảo buộc gà mái đẻ vào mùa đông. Ông

99

cho rằng, chiếu sáng nhân tạo suốt đêm có thể làm cho những mái ngừng đẻ sớm phải tiếp tục
đẻ nhiều. Trên cơ sở những thí nghiệm, Bartsch đi đến kết luận rằng chiếu sáng bổ sung cho
các gà mái làm giống sẽ không gây tác hại đối với tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở của trứng. Ông
cũng chỉ rõ lợi ích kinh tế trong việc nâng cao sản lượng trứng trong mùa đông và nhờ đó mà
cơ sở sẽ có nhiều gà con hơn. Ebbell cũng đi đến kết luận rằng, chiếu sáng bổ sung cho gà
mái làm giống từ bốn giờ sáng cho đến lúc bình minh nhằm mục đích nâng cao số lượng
trứng giống và số gà con vào mùa đông cũng không gây tác hại gì đến các chỉ tiêu ấp trứng.
Chiếu sáng định kỳ mỗi đêm ba lần trong 14 đêm kết hợp với chiếu sáng bổ sung từ
lúc năm giờ sáng trở đi thường rất có hiệu quả, trong một thời gian ngắn sẽ nâng cao năng
suất đã bị gián đoạn ở một mức độ nhất định hoặc bị giản sút do các điều kiện bất lợi trong
mùa đông gây nên. Trái với phương pháp chiếu sáng suốt đêm trong mùa đông, phương pháp
chiếu sáng kết hợp này cũng không gây tác hại đến việc ấp trứng. Trong một thí nghiệm khác
đối với các nhóm gà mái khác nhau, Ebbell nhận thấy năng suất gà mái đạt cao nhất nếu dùng
ánh sáng kích thích từ hai giờ sáng trở đi, chứ không phải chiếu sáng suốt đêm. Weinmiller và

Mantel trong các thí nghiệm chiếu sáng suốt đêm đã xác nhận rằng, trong điều kiện ấy, thời
gian thay lông bị rút ngắn nhiều, năng suất các tháng mùa đông không những không giảm sút
mà tổng số trứng từ tháng mười đến tháng năm còn tăng lên, kết quả ấp trứng thì bị giảm sút.
Mỗi mái trong đàn giống có chiếu sáng nhân tạo suốt đêm cho 12,2 gà con, còn không chiếu
sáng cho 21,1 con.
Qua mười năm nghiên cứu ảnh hưởng chiếu sáng nhân tạo đối với sản lượng trứng,
Penquite và Thompson đã đi đến những kết luận: khi chiếu sáng suốt đêm thì sản lượng trứng
cả năm của mái tơ lẫn mái già đều không tăng; số trứng đẻ trong tháng mười và tháng chạp
tăng lên; những gà mái nuôi trong điều kiện chiếu sáng nhân tạo trong tháng ba, tháng tư và
tháng năm đẻ ít trứng hơn những gà mái nuôi trong điều kiện bình thường; mái đẻ năm trước
phản ứng đối với chiếu sáng nhân tạo mạnh hơn mái tơ trong tháng mười và mười một; chiếu
sáng nhân tạo vào mùa hè – từ tháng bảy đến tháng chín – chưa hẳn đã hợp lý. Các tác giả
không phát hiện thấy tác động có hại đối với tỷ lệ nở và sức sống gà con.
Sau năm năm nghiên cứu tỉ mỉ ảnh hưởng của ánh sáng với tỷ lệ thụ tinh của gà mái,
Hays đi đến kết luận là chiếu sáng suốt đêm trong 30 hôm có tác dụng tốt đối với những gà
mái đã khá trưởng thành. Tỷ lệ thụ tinh có thể giảm sút do chiếu sáng ban đêm kéo dài hơn.
Chiếu sáng nhân tạo có ảnh hưởng đối với tỷ lệ thụ tinh của gà mái thuộc mọi lứa tuổi nói
chung là không đáng tin. Khi cho gà trống đã sử dụng hơn một năm phối với gà mái được
chiếu từ 80 đến 60 ngày trong năm, tác giả nhận thấy có một trường hợp tỷ lệ thụ thai bị giảm,
ở một trường hợp khác lại thấy tăng lên và có các chỉ tiêu ấp trứng cao.
Vì vậy, vấn đề tác động chiếu sáng kéo dài đối với tỷ lệ thụ tinh của gà mái vẫn còn là
vấn đề đang tranh luận. Do đó quy định chế độ ánh sáng cho gà giống cần phải thận trọng khi
sử dụng các gà trống lớn tuổi và phải kiểm tra tỉ mỉ tỷ lệ thụ thai.
Jall đề nghị dùng chiếu sáng nhân tạo để nâng ngày hoạt động gà mái lên 14 giờ trong
mùa thu và đầu mùa đông, khi giá trứng cao hơn lúc thường. Tác giả khẳng định rằng, có thể
làm cho gà mái 12 tháng tuổi đạt năng suất cao bằng cách cho ăn tốt và chiếu sáng nhân tạo
bổ sung vào buổi sáng trong vòng hai tuần lễ vào giữa mùa hè. Skoglund và Thomhave
nghiên cứu kết quả thực tế của chiếu sáng nhân tạo làm cho ngày của gà mái kéo dài đến 13 –
14 giờ đã xác nhận rằng, sản lượng trứng cả năm của những gà mái này trong năm đẻ trứng
đều cao hơn những gà mái không được chiếu sáng nhân tạo 15 quả; ngoài ra trong mùa thu,

mùa đông và mùa hè chúng cho nhiều trứng hơn và mùa xuân thì cho ít trứng hơn các gà mái
không được chiếu sáng. Khối lượng trứng của nhóm gà mái đầu cao hơn 1,7% và đến cuối vụ
đẻ không bị giảm sút như những gà mái nuôi trong điều kiện bình thường. Chi phí để chiếu
sáng có thể nhờ năng suất cao hơn và khối lượng trứng nặng hơn mà hoàn toàn được bù lại, vì
vậy biện pháp này tỏ ra có hiệu quả kinh tế.

100

Thomhave thông báo rằng, những gà mái tơ được chiếu sáng nhân tạo trong thời gian
nuôi dưỡng thành thục sinh dục muộn hơn nhưng trong 164 ngày đầu đẻ nhiều trứng hơn
những gà mái đối chứng. Platt so sánh các gà mái tơ nở vào tháng giêng, một nhóm nuôi trong
điều kiện ánh sáng thông thường ban ngày, một nhóm chiếu sáng nhân tạo thêm mỗi ngày tám
giờ, nhận thấy khi đạt bảy tháng tuổi thì gà mái nhóm sau đẻ ít hơn gà mái nhóm trước nhưng
nếu tăng thời gian chiếu sáng lên đến 14 giờ thì lập tức sản lượng trứng nhóm sau tăng cao và
vượt hơn nhóm đối chứng, ngay cả trong trường hợp chế độ chiếu sáng kéo dài quá 14 giờ.
Erasmus tiến hành thí nghiệm ở Nam Phi xác nhận rằng, khi chiếu sáng nhân tạo thì
sản lượng toàn năm không tăng nhưng số trứng đẻ trong mùa đông lại tăng lên, điều ấy có ý
nghĩa kinh tế lớn. Chiếu sáng bổ sung không ảnh hưởng gì đến thể trọng, nhu cầu thức ăn và
tỷ lệ chết.
Staffe chứng minh rằng, dùng ánh sáng chói phát ra từng thời gian ngắn cũng có thể
nâng cao sản lượng trứng trong mùa đông. Tác giả đã đạt kết quả nâng cao năng suất trứng
bằng cách dùng đèn 1500W chiếu 20 giây trong hai lần.
Naitoll chiếu sáng chói trong 20gy bằng đèn 40,60 và 100W cũng gây được năng suất
cao. Wilson và Abplanalp qua những thí nghiệm chiếu sáng ngắt quãng trong các thời gian
kéo dài khác nhau đã xác nhận rằng, chiếu sáng theo phương pháp này có hiệu quả hơn chiếu
sáng liên tục (trong điều kiện là thời gian chiếu sáng kéo dài ở cả hai trường hợp đều giống
nhau). Năng suất đạt được bằng chiếu sáng ngắt quãng không tỷ lệ với thời gian chiếu sáng.
Các quá trình sinh lý phát sinh trong điều kiện này chưa được nghiên cứu đúng mức để có thể
để lên thành quy luật.
Qua những điều trích dẫn trên, rõ ràng yếu tố ánh sáng đối với người nuôi gia cầm là

một trong những phương tiện quan trọng nhất để tác động lên năng suất trứng. Mục đích tác
động là làm tăng năng suất trứng vào giai đoạn mà do đặc điểm sinh học gà mái đẻ trứng ít.
Cho đến nay vẫn chưa có ý kiến thống nhất về ảnh hưởng của ánh sáng đối với năng suất cả
năm. Để giải quyết vấn đề phương pháp và khoảng thời gian chiếu sáng nhân tạo chiếu vào
lúc nào thì có lợi nhất cần phải dựa vào sự kiểm tra kinh tế. Bằng cách sử dụng chiếu sáng
nhân tạo khéo léo, tác động sớm hay muộn vào một nhóm gà mái này hay một nhóm khác,
kéo dài hay rút ngắn thời gian chiếu sáng, người nuôi gia cầm có thể điều khiển năng suất
trứng theo mức độ khá cao. Cũng cần nói nên rằng, dùng chiếu sáng nhân tạo có thể làm cho
gà mái nở sớm và cũng cũng khôi phục được năng suất trứng đối với các gà mái đang thay
lông hay đã ngừng đẻ. Đứng về quan điểm kinh tế mà nói, cùng với việc nuôi dưỡng, điều
chỉnh thời gian gà nở, tái sản xuất đàn, việc chiếu sáng nhân tạo là một biện pháp có giá trị
trong tay người nuôi gà có kinh nghiệm để điều khiển năng suất trứng trong đàn. Cần hết sức
thận trọng trong khi sử dụng chiếu sáng nhằm nâng cao tỷ lệ thụ tinh, vì vấn đề này vẫn chưa
được làm sáng tỏ hoàn toàn.
Farner đã giải thích tác động của ánh sáng đến cơ thể gà bằng một cơ thể sinh lý học.
Theo ý kiến của ông, võng mạc và não bộ đều nhạy cảm với những kích thích của ánh sáng.
Từ võng mạc kích thích của ánh sáng được truyền theo dây thần kinh đi qua chéo thị giác nằm
ngay dưới tuyến yên. Ngoài ra sự dẫn truyền còn được thực hiện bằng một con đường dài
hơn, qua trung tâm thị giác của não bộ và tâm trạng của con vật.
Trong cả hai trường hợp, thành phần da cam - đỏ của quang phổ có tác động mạnh
nhất mặc dầu vỏ não tiếp nhận kích thích của các phần có thể nhìn thấy được của quang phổ.
Hypothalamus là phần trung gian để chuyển các kích thích của ánh sáng vì hoạt động của thuỳ
trước tuyến yên được chi phối bởi các tế bào thần kinh tiết. Phá hoại phần này của não bộ sẽ
gây ra sự teo tuyến sinh dục và các bộ phận thần kinh tiết là phần chuyển các kích thích vào
thuỳ trên của tuyến yên.
Có hai lý thuyết về cơ chế dẫn truyền kích thích của ánh sáng: một là cơ chế thể thần
kinh và hai là cơ thế thần kinh – thể dịch. Cơ chế thứ hai này ngày nay được coi như là đáng
tin tưởng hơn. Điều này được chứng minh như sau: nếu bằng thực nghiệm cắt đứt con đường

101


qua hệ thống mạch máu cửa của thuỳ trước tuyến yên sẽ tìm thấy trong Hypothalamus những
chất mà người ta giả thiết là những chất dẫn truyền kích thích. Sự phát triển của buồng trứng
và dịch hoàn sẽ bị kìm hãm và con vật sẽ không phản ứng với các kích thích của ánh sáng
nữa. Tuyến yên là trung tâm dẫn truyền, nó điều tiết sự hoạt động của tuyến sinh dục bằng
cách tiết ra kích dục tố.
Morris đã đưa ra một giả thiết rất thú vị về ảnh hưởng của ánh sáng đối với gà. Ông
xuất phát từ chỗ ông cho rằng tác động của ánh sáng đến sự đẻ trứng liên quan với sự rụng
trứng và sự chín các bao noãn. Theo ông thì đặc điểm của tác động này gồm có hai mặt: một
mặt nó quyết định thời gian đẻ trứng, mặt khác nó quyết định mức độ của khả năng đẻ trứng.
Thời gian đẻ trứng phụ thuộc vào sự tiết hocmon kích thích sự hình thành thể vàng
(LH), hocmon này được tạo ra ở tuyến yên và gây ra sự rụng trứng. Quả trứng được đẻ ra sau
sự rụng trứng gần một ngày đêm. Để tiết ra hocmon này cần phải có một thời gian nghỉ dài,
điều này được quan sát thấy trong điều kiện tự nhiên với sự thay thế giữa ánh sáng ngày và
đêm. Hoạt động của gà về ban ngày đã kìm hãm sự tiết ra hocmon đó. Còn bản thân ánh sáng
thì không kìm hãm sự rụng trứng. Sự không ngủ của gà và ánh sáng đã hạn chế thời gian bắt
đầu rụng trứng, điều này chỉ thể hiện về ban ngày. Người ta giả thiết rằng ánh sáng hoàng
hôn, được coi như mở màn của thời kỳ nghỉ dài, có một tầm quan trọng rất lớn đối với việc
tiết hocmon kích thích sự hình thành thể vàng. Do đó tác động của ánh sáng đã có ảnh hưởng
quyết định đến sự tiết của hocmon này. Gà đã thích nghi với nhịp độ thay đổi của ánh sáng và
bóng tối, thể hiện ở chỗ thay đổi lượng tiết hocmon kích thích sự hình thành thể vàng, mặc
dầu điều này chỉ được phản ánh lên sự đẻ trứng diễn ra sau đó một thời gian. Theo Lanson và
Starky muốn thay đổi thời gian đẻ trứng thì ít nhất phải kéo dài thêm 2
1/2
giờ trong bóng tối.
Theo ý kiến của các tác giả này thì nửa giờ chiếu sáng không gây ra một tác dụng nào. Nếu
chiếu sáng cả ngày gà sẽ đẻ trứng vào bất cứ thời gian nào trong ngày, nhưng thường thấy là
vào buổi chiều và sau trưa.
Chế độ chiếu sáng làm tăng sức đẻ trứng có lẽ đã thúc đẩy sự tiết ra hocmon kích thích
sự phát triển của bao noãn (FSH), hocmon này đẩy nhanh tốc độ phát triển của buồng trứng

và tạo thành thể vàng. Cả hai quá trình này (sự tiết ra hocmon LH liên quan với sự rụng trứng
và thời gian đẻ trứng và sự tiết ra hocmon FSH liên quan tới sự chín các bao noãn và sức đẻ
trứng) phụ thuộc lẫn nhau. Giả thuyết của Morris về ảnh hưởng của ánh sáng đến sự tiết ra
hocmon FSH được diễn giải như sau: mở đèn chiếu sáng không làm cho sự tiết hocmon này
tăng lên và tắt đèn cũng không làm cho sự tiết hocmon đó giảm xuống. Có lẽ đúng hơn là
trong hypothalamus của gà mái đẻ, thời gian chiếu sáng đã được ghi lại trong một máy phân
tích vô cùng chính xác. Các thông tin được tích luỹ đã được sử dụng để điều chỉnh sự tiết
hocmon. Chỉ có lượng ánh sáng lớn trong một ngày đêm mới “ghi nhớ”: vì rằng các thời gian
tối xen kẽ ngắn nên đã không được ghi nhận đầy đủ, và do đó sự chiếu sáng định kỳ được ghi
lại như một quá trình liên tục. Do đó trong điều kiện tự nhiên chỉ có hoàng hôn và bình minh
mới được đo và ghi nhớ, còn những thông tin được tích luỹ trong hypothalamus trong thời
gian một ngày chỉ là cơ sở để thành lập và dẫn truyền các bản hướng dẫn tới tuyến yên. Hiện
nay chưa có các dẫn liệu chính xác hơn về cơ chế tác động của chương trình chiếu sáng này.
Mặc dầu ánh sáng tác động một cách trực tiếp đến tuyến yên nhưng sức đẻ trứng thay
đổi không đột ngột mà phải sau một vài ngày, đôi khi hàng tuần, thậm chí hàng tháng.
a.Cường độ chiếu sáng
Yêu cầu về cường độ chiếu sáng của gà mái đẻ là không cao. Nikolas và những người
cộng tác đã cho biết, trong giới hạn chiếu sáng từ 5,4 đến 409 lux khả năng đẻ trứng của gà là
như nhau. Ostrander và những người cộng tác cho rằng với cường độ ánh sáng 10,8 lux là đủ
để gà mái đẻ cao nhất. Theo tài liệu của Pigarev, cường độ chiếu sáng từ 10 đến 100 lux hay
cao hơn, sức đẻ trứng của gà trong các xí nghiệp gà quốc doanh ở Liên Xô cũ đều như nhau.
Landaw cho rằng trong điều kiện chiếu sáng tự nhiên, ánh sáng ban ngày cần từ 10 đến 30
lux. Cường độ chiếu sáng này cũng nên giữ cho gà nuôi lồng, nơi đó là khoảng không gian

102

giữa các lồng nuôi. Eits đã có những quan sát thú vị về hành vi của gà trong điều kiện ánh
sáng tự nhiên. Ông nhận thấy rằng gà bắt đầu bay lên giá đậu nửa giờ trước lúc hoàng hôn
(khi mặt trời còn ở 6
0

so với đường chân trời) và về buổi sáng chúng bay xuống đất nửa giờ
trước khi mặt trời mọc. Cường độ chiếu sáng trong chuồng nuôi lúc ban chiều là 16 lux, lúc
buổi sáng thì yếu hơn 0,03 lux. Do đó những thông số thời gian đã được xác định để theo dõi
sự hoạt động của gà trong chuồng nuôi. Cũng có thể nhiều thông số này không trùng với phản
ứng của gà đối với ánh sáng. Nhưng thời gian bắt đầu sáng và tối có thể được gà nhận biết để
xác định “ngày làm việc” của chúng. Đối với sự chiếu sáng nhân tạo, nên dùng cường độ ánh
sáng là 20 lux (Viện nghiên cứu gia cầm toàn Liên bang Nga quy định, cường độ ánh sáng đo
được ngang máng ăn của gà nằm trong khoảng 10 lux < A< 70 lux). Trong điều kiện chiếu
sáng tự nhiên thì diện tích cửa sổ có lắp kính phải bằng 1/15 – 1/20 diện tích nền chuồng.
Cần chú ý rằng gà không nhất thiết phải cần ánh sáng để rụng trứng và đẻ trứng.
Wilson và những người cộng tác đã nuôi gà mái trưởng thành ở bóng tối hoàn toàn trong thời
gian năm tuần lễ. Một vài con ngừng đẻ, những con khác bắt đầu đẻ trứng trong bóng tối tuy
rằng trước thí nghiệm những gà này chưa đẻ. King đã nuôi gà con trong bóng tối và sau đó
nuôi gà mái đẻ trong bóng tối suốt thời gian đẻ trứng. Chúng đã đạt tỷ lệ đẻ là 70% nhưng nói
chung đẻ được ít trứng hơn gà được nuôi trong ánh sáng.

b.Màu sắc của ánh sáng
Màu sắc của ánh sáng, gây bởi sự phân bố năng lượng khác nhau trong các giới hạn
quang phổ, đối với khả năng sản xuất của gà chỉ có một ý nghĩa thứ yếu. Nhưng người ta đã
thấy rằng màu đỏ có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn. Màu đỏ, vàng, xanh lục, xanh lam, da cam và
trắng, thường được dùng để chiếu sáng cho gà choai và gà mái đẻ, làm cho sinh dục chín sớm
hơn so với nhóm đối chứng và ảnh hưởng tốt đến khả năng đẻ trứng. Nhưng khi so sánh với
ánh sáng của đèn nóng thì không thấy có sự sai khác nào về sức sản xuất.

Bảng 31. Màu sắc ánh sáng ảnh hưởng đến một số tính trạng của gia cầm như sau
Màu sắc ánh sáng
Tính trạng
Đỏ cam Vàng
Xanh
lục

Xanh
sẫm
Cải thiện sinh trưởng x x
Giảm hiệu quả sử dụng thức ăn x x
Rút ngắn tuổi thành thục sinh dục x x
Tăng tuổi thành thục sinh dục x x x
Mở to mắt x
Giảm kích động thần kinh x
Giảm mổ cắn nhau x x
Giảm sản lượng trứng x
Tăng kích thước trứng x
Cải thiện khả năng thụ tinh của gà trống x x
Giảm khả năng thụ tinh của gà trống x
Karlson và những người cộng tác đã nghiên cứu ảnh hưởng của màu sắc ánh sáng đến
sự sinh tinh của gà trống 20 tuần tuổi và có nhận xét rằng tác động kích thích mạnh nhất là
ánh sáng trắng lạnh, đỏ và xanh lam. Ánh sáng màu da cam và màu xanh lục cũng như của
các bóng đèn nóng chỉ có tác động không đáng kể so với nhóm đối chứng được chiếu sáng.
Nhưng tất cả màu sắc nhận biết được của ánh sáng đều có ảnh hưởng kích thích sự sinh tinh.
Hơn nữa, màu sắc của ánh sáng còn có một vai trò nhất định đối với hành vi của gà. Ánh
sáng màu xanh tối tác động đối với gà như là hoàn toàn đen tối. Điều này được dùng trong thực tế
để bắt gà khi tiêm phòng, cắt mỏ, chia đàn… nhằm làm giảm stress cho đàn gà.
Formatted: Font: 6 pt
Formatted: Font: 6 pt
Formatted: Condensed by 0.2 pt

103

Nói chung ánh sáng nóng làm cho gà cảm thấy lo âu. Ánh sáng đỏ làm hạn chế sự phát
triển các tật xấu như mổ nhau và ăn lông. Ở đâu có nguy cơ của sự mổ nhau nên sơn màu đỏ
lên kính hoặc dùng đèn màu đỏ.

c.Thời gian chiếu sáng
Đối với thực tiễn chăn nuôi gà, thời gian chiếu sáng và ảnh hưởng của nó đối với khả
năng sản xuất của gà nhận được sự thu hút đặc biệt. Rất nhiều nghiên cứu làm về vấn đề này
đã được tiến hành ở nhiều nước trên thế giới. Kết quả của những nghiên cứu đó cho phép rút
ra một loạt kết luận có tính chất thực tiễn.

Bảng 32. Ảnh hưởng của việc xử lý ánh sáng đến tuổi thành thục, năng suất trứng và tỷ
lệ chết của gà mái

Quản lý ánh sáng
Giai đoạn ST Giai đoạn đẻ
Tuổi
đẻ
10%
Tuổi
đẻ
50%
Tỷ lệ
chết
(%)
Sản lượng
trứng khi
47 TT
Giảm đều từ 22 -16g Tăng đều từ 16-22 g

156 172 3.3 225
Giảm đều từ 22 -9g Tăng đều từ 9-22 g 172 186 3.3 220
Giảm đều từ 16 - 9g Tăng đều từ 9-16 g 171 191 3.8 220
Giảm đều từ 16 - 9g Tăng đột ngột 9-16 163 176 5.0 230
Bắt đầu ổn định 16 g,

sau đó, đột ngột giảm
còn 9 g mỗi ngày
Tăng đột ngột 9-16 165 176 4.6 227
Đều đặn 16 g Đều đặn 16 g 156 171 5.0 224
Nguồn: Schutze, J.V.W.E Matson, and J. McGinnis, 1963. Poultry sci.42,150-156

Ngày nay, khắp mọi nơi đều kéo dài ngày chiếu sáng tới 13 – 14 giờ. Ngày chiếu sáng
13 giờ đã khiến cho sự thu hoạch trứng lên cao nhất ở những đàn gà cao sản. Ngày chiếu sáng
ngắn đã hạn chế khả năng sản xuất của gà, ngày chiếu sáng dài hơn phần lớn là có ảnh hưởng
tốt đối với khả năng sản xuất. Tất cả những tài liệu này thu được trên gà nở vào mùa xuân,
được nuôi trong sự chiếu sáng tự nhiên tới khi bắt đầu thành thục. Chỉ khi bắt đầu đẻ trứng
mới chiếu sáng 13 – 14 h. Sự kéo dài chiếu sáng này trùng hợp với thời gian chiếu sáng kéo
dài vào mùa xuân, là mùa mà gà đạt tới khả năng sản xuất cao nhất.
Cho đến thời gian gần đây, chiếu sáng 13 – 14 h được coi là giới hạn đảm bảo cho gà mái đẻ
được nhiều trứng nhất. Ngày nay, lý thuyết này đang bị phê phán nhiều vì nó không phù hợp
với phản ứng sinh lý của gà đối với ánh sáng. Theo sự nghiên cứu của Morris và những người
công tác thì ảnh hưởng của sự chiếu sáng 13 – 14 giờ lên sức đẻ trứng của gà chỉ có hiệu quả
trong thời gian chuyển tiếp từ gà mái tơ bắt đầu đẻ nuôi trong điều kiện ánh sáng tự nhiên
sang điều kiện chiếu sáng nhân tạo dài hơn hay ngắn hơn. Các tác giả cũng quan sát những gà
mái đẻ trứng đã được tăng lên. Nếu chuyển từ ngày chiếu sáng dài sang ngày ngắn thì kết quả
sẽ ngược lại.
Cũng có thể thu được kết quả tốt khi chiếu sáng liên tục trong 14 giờ hay hơn nữa
hoặc áp dụng sự chiếu sáng thay đổi, thí dụ ngày chiếu sáng 8 giờ (từ 7,30 đến 15,30
0
) với
những ngắt quãng giữa chừng, lúc 11,30 và 13,30, lúc này gà sống hoàn toàn trong bóng tối.
Kéo dài ngày chiếu sáng đến 11 giờ mỗi ngày (từ 7,00 – 18,00) với thời gian ngắt quãng trên
hai giờ cùng vào thời gian như trên sẽ không làm tăng sức đẻ trứng. Wilson và những người
cộng tác đã so sánh những sự khác nhau giữa ngày chiếu sáng 24 h và ngày chiếu sáng 14 h.
Họ chia ngày thiên văn ra sáu thời kỳ, mỗi thời kỳ bốn ngày. Họ lại chiếu sáng cho các nhóm

gà khác nhau theo thời gian là 90, 60, 15 và 5 phút cho mỗi giai đoạn, còn một nhóm chỉ được
chiếu 1 phút, như vậy cả ngày nhóm này chỉ được chiếu sáng có 6 phút. Trong những nhóm
có thời gian chiếu sáng ngắt đoạn cũng thu được kết quả tương tự như ở các nhóm được chiếu

×