Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

TRỨNG VÀ ẤP TRỨNG GIA CẦM part 6 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.33 KB, 21 trang )


104

sáng 14 h. Các tác giả đã kết luận là với số lượng ánh sáng chiếu như nhau thì chiếu sáng ngắt
đoạn hiệu quả hơn so với chiếu sáng liên tục.
Boimen và Jonse đã khẳng định lại kết luận này trong các thí nghiệm của họ khi so
sánh ảnh hưởng của sáu giờ chiếu sáng ngắt đoạn (sáu lần trong một ngày đêm, mỗi lần chiếu
sáng một giờ còn ba giờ là hoàn toàn tối) và sáu giờ chiếu sáng liên tục. Lanson và Starky
cũng đưa ra kết luận và không ngắt đoạn của chiếu sáng 14 h. Tất cả các trường hợp ngắt
đoạn theo chu kỳ hay không theo chu kỳ đều đạt kết quả tốt.
Dưới đây xin đưa ra một vài sơ đồ chiếu sáng ngắt đoạn (đối với gà). Mặc dầu có thời
gian chiếu sáng trong một ngày đêm khác nhau và sự phân chia các giai đoạn chiếu sáng và
bóng tối cũng không giống nhau nhưng theo Morris chúng đều thu được những kết quả tương
tự.
Hệ thống chiếu sáng ngắt đoạn không được áp dụng rộng rãi trong sản xuất vì nó đòi hỏi
nhiều công sức, cũng như phải thay đổi chương trình chiếu sáng. Ngoài thời gian chiếu sáng
ra, sự chiếu sáng mãnh liệt trong một thời gian ngắn cũng thu hút được chú ý. Sự chiếu sáng
này còn gọi là sự gây choáng
bằng ánh sáng. Vào ban đêm
người ta chiếu sáng bằng những
bóng đèn có công suất lớn (300 –
1500W) trong thời gian 6 đến 36
giây. Tác động gây choáng cũng
dẫn đến kết quả như chiếu sáng
14 giờ đối với sự đẻ trứng.
Phương pháp gây choáng
bằng ánh sáng được Staffe tuyên
truyền nhiều.
Chiếu sáng mạnh trong
thời gian ngắn không làm cho gà
bay khỏi dàn dậu và kiếm thức


ăn hay nước uống.
Điều này cũng là một bằng
chứng cho tác động thần kinh tiết
của tác động ánh sáng, vì trong
trường hợp này khả năng ăn hoặc
uống thêm hoàn toàn bị loại bỏ.

Khi áp dụng chiếu sáng gây choáng có điều quan trọng là phải xác định thời gian
chiếu sáng. Staffe đã chiếu sáng hai lần dài 20 giây với các bóng đèn có công suất 1500W
vào lúc 4.00 giờ và 4.45 giờ. Mathew chiếu ba lần vào 3.00 giờ và 4.00 giờ, 5.00 giờ với
bóng đèn có công suất như trên đã đạt được năng suất sản xuất cao nhất. Chiếu sáng thêm
một lần phụ nữa ở lúc sáu giờ không có kết quả gì. Những nghiên cứu khác thay đổi số lần
chiếu sáng vào ban đêm từ 3 đến 18 lần với bóng có công suất từ 60 đến 1500W, mỗi lần
chiếu từ 3 đến 35 gy. Mener và Zommefeld đã xác định rằng tăng thời gian chiếu sáng từ 3
đến 10 gy làm tăng sức sức đẻ trứng của gà. Trong thí nghiệm của Mener và Vogt đã xác
định thêm sự áp dụng chiếu sáng lần thứ tư dài từ 10 giây đến 15 phút đã nâng cao khả năng
sản xuất, kết quả này không có được khi chiếu sáng với khoảng cách một giờ. Ngoài ra khối
lượng trứng cũng tăng lên. Những sự rút ngắn bớt thời gian giữa các lần chiếu sáng không
làm tăng thêm khả năng đẻ trứng.
Các tác giả kể trên đã giải thích hiệu quả choáng ánh sáng theo tinh thần của giả
thuyết tác động ánh sáng đã nêu trên của Morrin. Họ cho rằng chiếu ánh sáng mạnh với quãng
ngắt một giờ đã được gà cảm thụ như là “một ngày”. Theo ý kiến của các tác giả này thì sự rút

105

ngắn quãng ngắt cần phải được điều chỉnh như là một ngày dài hay “sáng hơn”. Do đó quãng
ngắt 15 phút giữa các lần chiếu sáng được coi là một ngày hoàn chỉnh và là một ngày kéo dài
đầy đủ. Khối lượng quả trứng tăng lên được giải thích bằng sự tăng cường tiết hocmon FSH
gây ra do sự tăng số lượng ánh sáng vì rằng khối lượng quả trứng liên quan chặt chẽ với khối
lượng lòng đỏ.

Cũng như tất cả các phương pháp chiếu sáng được áp dụng trong mùa thu đông có
ngày ngắn, sự gây chóang bằng ánh sáng không phải là làm tăng khả năng đẻ trứng quanh
năm mà chỉ trong mùa thu đông mà thôi. Hiệu quả cao nhất của sự gây choáng bằng ánh sáng
chỉ có tác dụng trong thời gian đầu, khi mới áp dụng. Ưu điểm của phương pháp này là ở chỗ
nó không kéo dài ngày của gà, nhưng do đẻ nhiều trứng hơn nên ban ngày gà ăn nhiều thức ăn
hơn. Theo các tài liệu của nhiều tác giả thì chi phí cho tiền điện trong phương pháp này là
không đáng kể.
Nếu trong thời gian nuôi gà mà không chiếu sáng thì để kích thích sự rụng trứng trong
cuối mùa đẻ có thể áp dụng bất cứ phương pháp chiếu sáng nào. Như đã biết, gà sống trong
ngày chiếu sáng ổn định, thí dụ khi chiếu sáng 13 – 14 giờ, sẽ giảm dần khả năng đẻ trứng
theo thời gian và trở nên ít nhạy cảm với các kích thích của ánh sáng. Chiếu sáng thường
xuyên 17 giờ một ngày là điều nên tránh vì không làm cho sản lượng trứng tăng thêm mà
thường lại gây hậu quả tai hại. Hiệu quả rõ rệt của sự thường xuyên chiếu sáng lâu sẽ giảm
xuống nếu hàng tuần cứ tiếp tục chiếu sáng dài thêm. Khả năng sản xuất của gà mái đẻ cũng
được tăng cường bằng cách chiếu sáng toàn bộ ban đêm trong hai đến ba tuần lễ hay chiếu
sáng 14 giờ ban đêm thay cho chiếu 14 giờ ban ngày. Sự thay đổi định kỳ thời gian chiếu sáng
kéo dài bằng thời gian chiếu sáng ngắn hơn đã tránh được sự giảm sút khả năng sản xuất gây
ra bởi sự chiếu sáng kéo dài liên tục. Cần phải tránh một sự thay đổi mạnh mẽ ngày chiếu
sáng của gà đã bắt đầu đẻ trứng (đặc biệt là sự rút ngắn thời gian chiếu sáng). Điều này luôn
luôn gắn liền với sự giảm sức sản xuất. Mức độ giảm liên quan với các đặc điểm di truyền của
gà và mức độ chiếu sáng. Kéo dài sự chiếu sáng ở phần lớn các trường hợp làm nâng cao sức
đẻ trứng. Hơn 30 năm về trước, người ta đã biết rằng sự thay đổi ngày chiếu sáng có một ý
nghĩa quan trọng đối với sự kích thích đẻ trứng ở gà, nhưng ngày chiếu sáng thực tế trong một
thời gian nhất định ảnh hưởng rất ít đến sức sản xuất. Nhưng trong vòng 20 năm nay người ta
không chú ý một chút nào đến sự thực đó, chỉ mới gần đây vấn đề này mới lại được đưa trước
vào kế hoạch. Thời gian chiếu sáng thay đổi bằng cách chiếu sáng nhân tạo sao cho gà hậu bị,
những gà này sẽ thay thế cho đàn mái đẻ vào mùa thu được giữ trong điều kiện chiếu sáng
nhân tạo 10 giờ một ngày. Mỗi tuần lễ tăng thời gian chiếu sáng thêm 15 – 20 phút, cho đến
khi gần kết thúc thời gian đẻ, chiếu sáng hầu như là cả ngày đêm. Phương pháp tăng dần thời
gian chiếu sáng trong thời gian gà đẻ phần lớn đạt kết quả tốt. Khác với những phương pháp

đã nêu trên, phương pháp này có thể được sử dụng không những ở các tháng mùa thu và mùa
đông mà có thể trong suốt thời kỳ gà đẻ trứng.
Những người ủng hộ phương pháp này khẳng định rằng khi sử dụng có thể tính đến sự
tăng khả năng sản xuất trứng cả năm lên 3 – 5%, nhưng sự tăng lên này không phải sẽ diễn ra
một cách tự động. Có những trường hợp tăng thời gian chiếu sáng không có kết quả gì.
Nguyên nhân của điều đó là do trước đó đã chiếu sáng quá dài cho tới thời kỳ nuôi dưỡng
cuối. Khi tăng thời gian chiếu sáng, sức đẻ trứng tăng lên lúc đầu không thoả mãn như khi
chiếu sáng ngắt đoạn. Nhưng sau khi đạt tới đỉnh cao, sức đẻ trứng lại giảm xuống từ từ. Dù
sao thì chúng cũng cho số lượng trứng cả năm cao hơn. Do đó trong thực tế, điều quan trọng
là làm sao kéo dài thêm thời gian chiếu sáng trong một tuần lễ là 15 – 20 phút cho tới khi kết
thúc thời kỳ đẻ trứng, nếu không trong điều kiện chiếu sáng suốt ngày đêm sẽ làm cho gà
không cảm thụ với ánh sáng nữa, chúng trơ với các kích thích của ánh sáng và bắt đầu giảm
sức đẻ trứng. Mặt khác, kéo dài thời gian có điều chỉnh ở thời gian đầu sẽ có ảnh hưởng xấu
đến sức đẻ trứng ở nửa thời gian sau đẻ trứng. Điều này đã được chứng minh: ở gà mái được
chuyển từ thời gian chiều sáng 17 giờ một ngày trong một thời gian dài sang ngày chiều sáng

106

dài hơn 42 tuần tuổi. Sự thay đổi thời gian chiếu sáng không có ảnh hưởng tốt gì đến những
gà này. Do đó, để thực hiện được tất cả những ưu điểm của phương pháp này phải nuôi gà
hậu bị đã được chuyển lên gà mái trong điều kiện ngày chiều sáng ngắn (không quá 10
giờ), sau đó mỗi tuần tăng thêm 15 – 20 phút cho tới khi kết thúc đẻ trứng. Trong các sách
chuyên môn, phương pháp này mang tên “mùa xuân nhân tạo”, nhưng theo ý kiến chúng tôi
gọi thế không nên, vì nó không phản ánh bản chất sinh lý của tác động của ánh sáng.
Theo như trên thì không phải thời gian tuyệt đối của sự chiếu sáng mà biến động của
sự chiếu sáng đã kích thích sự đẻ trứng và hình như hậu quả của sự hoạt động nhiều hơn của
gà khi ánh sáng được chiếu dài hơn đã không làm cho gà phải chịu đựng quá mức và ngừng
đẻ trứng. Kruger và những người cộng tác đã thử áp dụng phương pháp chiếu sáng lên xuống.
Trong thời gian hai tuần lễ, thời gian chiếu sáng tăng từ 10 giờ lên 14 giờ sau đó ở hai tuần lễ
sau lại giảm xuống 10 giờ. Nhịp điệu này được giữ trong các tuần lễ tiếp sau đó. Thời gian

chiếu sáng trung bình là 12 giờ một ngày đêm để đảm bảo cho gà được nghỉ yên. Nhịp điệu
này cũng được áp dụng với thời gian chiếu sáng trung bình dài hơn. Phương pháp chiếu sáng
lên xuống này được áp dụng trong suốt thời kỳ đẻ trứng.
Có thể có khả năng sự thay đổi ngày chiếu sáng được thực hiện theo hướng ngược lại, tức là
giảm bớt thời gian chiếu sáng. Nhưng trong các thực nghiệm giảm bớt ngày chiếu sáng, thấy sức đẻ
trứng bị giảm xuống và đó cũng là một nguyên nhân loại trừ khả năng áp dụng phương pháp này.
d.Chương trình chiếu sáng
Trong mấy năm gần đây chương trình chiếu sáng đã được đưa ra với mục đích tăng sức
sản xuất trứng của gia cầm trong các điều kiện chiếu sáng được điều chỉnh. Khác với các phương
pháp chiếu sáng đã nêu ở trên, sự áp dụng các chương trình chiếu sáng không chỉ hạn chế trong
mùa thu đông mà là toàn bộ thời gian đẻ trứng. Nhưng chương trình này xác định chế độ chiếu
sáng từ ngày tuổi thứ nhất cho tới khi gà mái ngừng đẻ.
Chương trình chiếu sáng trong giai đoạn phát triển của gà mái choai được quy định
bởi ảnh hưởng của ánh sáng đến sự thành thục sinh dục và khả năng đẻ trứng tiếp sau đó.
Người ta cho rằng ảnh hưởng này rất mãnh liệt sau khi gà được mười tuần tuổi.
Theo King thì thời gian bắt đầu thành thục của gà được xác định bởi, ngoài các nhân
tố di truyền ra, trước hết là chế độ chiếu sáng (số lượng ánh sáng) trong thời gian nuôi dưỡng.
Sự chiếu sáng càng dài thì càng sớm bắt đầu thành thục và ngược lại. Các nhà nghiên cứu
người Anh Morris và Fox trái lại cho rằng không phải số lượng ánh sáng mà là sự biến động
của chiếu sáng trong thời gian nuôi là một yếu tố quyết định của thời điểm bắt đầu thành thục,
tức là sự thay đổi thời gian của ngày chiếu sáng. Bằng con đường thực nghiệm đã chứng minh
được rằng giảm ngày chiếu sáng sẽ kìm hãm sự thành thục, nếu tăng ngày chiếu sáng thì
ngược lại sẽ thúc đẩy sự thành thục. Theo tài liệu của những tác giả khác, độ dài tuyệt đối của
ngày chiếu sáng chỉ có ý nghĩa khi trong thời gian nuôi gà hậu bị ngày chiếu sáng đã dài rồi,
sự thành thục của chúng bắt đầu sớm hơn so với gà đã được nuôi trong ngày chiếu sáng ngắn
mặc dầu ở giai đoạn gà mái chúng có ngày chiếu sáng ngắn. Thí dụ gà mái được nuôi trong
ngày chiếu sáng giảm từ 22 giờ xuống 16 thành thục sớm hơn gà mái được nuôi trong ngày
chiếu sáng giảm dần từ 16 giờ xuống 9 giờ. Nếu không bởi nguyên nhân di truyền thì sự thành
thục sớm phụ thuộc vào môi trường, do đó điều kiện không thuận lợi sẽ ảnh hưởng xấu đến
thời gian bắt đầu thành thục.

Hiện nay chúng ta vẫn chưa có thể xác định được tuổi bắt đầu thành thục thích hợp
nhất, mà chỉ biết rằng tuổi gà khi đạt được 30 – 40% số lượng trứng đẻ có liên quan rõ rệt với
toàn bộ sức đẻ trứng của chúng. Mỗi tương quan này được thực hiện giữa đặc điểm chiếu
sáng trong thời gian nuôi trước đó và sức đẻ trứng. Người ta nhận thấy rằng chế độ chiếu sáng
trong thời kỳ hậu bị ảnh hưởng mạnh mẽ hơn chế độ chiếu sáng trong thời kỳ đẻ trứng. Hiện
nay có nhiều chương trình chiếu sáng có khi khác nhau khá xa nhưng lại có một hiệu quả tốt
giống nhau. Trong số đó cũng có những chương trình chưa đạt được yêu cầu đề ra. Hiện nay

107

vẫn chưa biết nên chọn chương trình nào là tốt nhất vì tất cả đều còn trong giai đoạn nghiên
cứu.
Dưới đây chúng tôi xem xét hai chương trình chiếu sáng chính khác nhau theo cách nuôi.
a) Chương trình chiếu sáng cho nhà nuôi không có cửa sổ;
b) Chương trình chiếu sáng cho nhà nuôi có cửa sổ
Cách nuôi thứ nhất có nhiều khả năng thay đổi chương trình hơn vì rằng ở đây không
có một sự hạn chế do thiên nhiên nào.
Chương trình chiếu sáng cho nhà nuôi không có cửa sổ (ánh sáng hoàn toàn nhân tạo,
không dùng ánh sáng tự nhiên).
Có thể phân biệt chương trình ngày ngắn và chương trình có thời gian chiếu sáng rút
ngắn dần. Chương trình trên có một thời gian chiếu sáng tương đối ngắn và ổn định trong thời
gian nuôi hậu bị. Sắp tới thời gian bắt đầu thành thục (hay hơi sớm hơn nữa) thời gian chiếu
sáng tăng lên dần dần. Được biết nhiều nhất là chương trình chiếu sáng của King. Chương
trình này chiếu sáng cho gà 18 tuần tuổi sáu giờ một ngày đêm. Sau 18 tuần tuổi mỗi tuần
tăng thêm thời gian chiếu sáng 15 – 20 phút, cho đến khi thời gian chiếu sáng đạt tới 17
giờ. Ngoài chương trình này còn có các chương trình khác cơ bản cũng dựa trên sự cải biến
chương trình King. Ngoài chương trình chiếu sáng của King còn có một vài chương trình
khác của các tác giả khác. Theo chương trình của Boumen và những người cộng tác, thời gian
chiếu sáng cho gà choai ở 18 tuần tuổi cũng là 6 giờ, sau đó thời gian chiếu sáng tăng lên 45
phút mỗi tuần. Trong 21 tuần tuổi đã đạt đến 9 giờ chiếu sáng một ngày. Sau đó mỗi tuần tăng

lên 20 phút. Về kết quả thì chương trình này cũng như chương trình mà King đề nghị. Nhưng
khi từ thời gian chiếu sáng 6 giờ nhảy vọt lên 14 giờ cũng được giữ thời gian chiếu sáng dài
này trong suốt thời kỳ đẻ trứng sẽ làm cho sức đẻ trứng giảm đi nhiều. Các tác giả đã kiểm tra
những ý kiến về vấn đề này và nhận thấy rằng thời gian chiếu sáng 6 h cho tới lúc bắt đầu
thành thục là không đủ. Điều này sẽ làm cho gà kiệt sức và thay lông từng phần, hạn chế sức
đẻ trứng cao.
Nhưng, như các kết quả của các nghiên cứu đã cho biết, những gà mái nhận được
nhiều ánh sáng trong thời gian bắt đầu thành thục là những gà mái đẻ kém so với chương trình
chiếu sáng của King. Từ đây có thể rút ra kết luận là khi sử dụng chương trình này ngắn trong
thời kỳ hậu bị gà mái khó chịu đựng được sự tăng thời gian chiếu sáng nhảy vọt trước lúc
thành thục.
Boumen, Morris và những người cộng tác đã thử một chương trình ngày ngắn khác
với mười giờ chiếu sáng trong thời kỳ hậu bị tăng dần 20 phút một tuần cho tới khi đạt được
17 h chiếu sáng. So với chương trình của King, chương trình này cũng không đạt được sức đẻ
trứng tốt hơn. Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả khác cũng cho phép rút ra kết luận là
thời gian chiếu sáng sáu giờ tăng dần lên mỗi tuần 15 – 20 phút cho tới khi đạt được 17 h
vào thời gian bắt đầu đẻ trứng đã đảm bảo cho sức đẻ trứng cao. Sigel và những người cộng
tác đã áp dụng sự chiếu sáng 14 h một ngày cho tới 50 tuần tuổi sau đó chỉ tăng lên rất từ từ.
Sơ đồ chiếu sáng cho nhà nuôi không có cửa sổ với thời gian chiếu sáng ổn định trong
giai đoạn hậu bị












108






Hình 7: Sơ đồ chiếu sáng từ 1-72 tuần tuổi của Sigel
1. Theo Boumen và những người cộng tác; 2. Theo Sigel; 3. Theo Morris; 4 theo King;
5. theo Boumen và những người cộng tác.
Ở Anh, người ta đặc biệt tuyên truyền sự chiếu sáng ổn định trong giai đoạn hậu bị
nuôi trong chuồng không có cửa sổ. Ngày nay chúng ta vẫn chưa có thể nói thời gian chiếu
sáng nào trong giai đoạn hậu bị là tốt nhất vì rằng ngày chiếu sáng 6, 10 và 14 giờ đều có kết
quả như nhau. Thời gian chiếu sáng 6 giờ liên tục sẽ làm cho gà thay lông khi mới bắt đầu đẻ,
nhiều gà đẻ trứng ngoài ổ đẻ. Đây là một nhược điểm của chương trình chiếu sáng. Bởi vậy
người ta chọn thời gian chiếu sáng ổn định là 8 – 10 h.
Một loại chương trình chiếu sáng khác đối với nhà nuôi không có cửa sổ là chương
trình giảm thời gian chiếu sáng.












Hình 8: Sơ đồ chiếu sáng giảm đi trong giai đoạn hậu bị
1. Theo Kingber; 2. Theo Morris và những người cộng tác; 3. Theo Sten Daun; 4. Theo
Macclar; 5. Theo Schutz và những người cộng tác.
Tất cả những chương trình đều có thời gian chiếu sáng dài lúc bắt đầu nuôi gà con, sau
đó giảm ngay trong những tuần lễ đầu tiên, ở 18 -20 tuần tuổi giảm xuống thấp nhất, sau đó
thời gian chiếu sáng lại tăng lên dần dần (15 – 20 phút) hay mạnh mẽ (hai giờ). Gà mái khó
chịu đựng một sự thay đổi nhảy vọt ở lứa tuổi này. Thời gian chiếu sáng thấp nhất (sáu giờ)
đã gây tác hại xấu như đã nêu ở trên. Vì vậy thường thường người ta không hạ thấp thời gian
chiếu sáng đến mức đó. Các nhà khoa học Anh không thích chương trình chiếu sáng này đối
với chuồng nuôi không có cửa sổ vì họ cho rằng chương trình chiếu sáng ngày ngắn luôn luôn
cho kết quả tốt hơn.
Chương trình chiếu sáng cho chuồng nuôi có cửa sổ
Chương trình chiếu sáng cho chuồng nuôi có cửa sổ lợi dụng thời gian chiếu sáng
thiên nhiên và đặc điểm của ánh sáng này.
Thời gian chiếu sáng khi gà mới một ngày tuổi rất dài, sau đó giảm xuống trong các tuần lễ
đầu, tới gần thời kỳ bắt đầu đẻ trứng thì giảm xuống thấp nhất. Từ lúc bắt đầu đẻ trứng thời
gian chiếu sáng thường thường tăng lên dần dần với những bước nhảy không lớn lắm theo
từng tuần lễ nhưng vẫn liên hệ với điều kiện chiếu sáng tự nhiên. Như vậy ở đây sự biến động
của thời gian chiếu sáng theo hướng giảm đi trong thời gian nuôi gà con và hậu bị. Nếu tăng
thời gian chiếu sáng trong giai đoạn nuôi này và trong giai đoạn đẻ trứng sẽ dẫn đến sự đẻ
sớm và giảm sức đẻ trứng trong giai đoạn đẻ trứng sau.
Trong hình vẽ dưới đây đưa ra chương trình chiếu sáng do cơ quan chọn giống của
Thuỵ Điển đề nghị áp dụng cho giai đoạn từ lúc mới nở cho tới thời kỳ đẻ trứng. Trong sơ đồ
Deleted:


109

ngày nở của gà choai được chia từng quãng 15 phút một ngày, còn của gà mái đẻ là một
tháng. Theo sơ đồ này có thể điều chỉnh chế độ chiếu sáng nhân tạo cho gà có ngày nở khác

nhau. Nên chú ý là đối với những gà nở muộn phương pháp chiếu sáng rút ngắn dần chỉ áp dụng
được đối với những ngày dài nhất trong năm (đến 21 tháng 6). Bắt đầu từ ngày này ánh sáng giảm
xuống được thực hiện qua ánh sáng tự nhiên. Trong thời gian hai tháng đẻ trứng đầu không áp
dụng chiếu sáng nhân tạo vì rằng sức đẻ trứng của gà có thể tăng lên nhanh chóng mà không cần
sự chiếu sáng đó. Chỉ sau đó mới áp dụng chiếu sáng nhân tạo theo sơ đồ.
Sau đây chúng tôi sẽ đưa ra một số sơ đồ nữa về sự chiếu sáng cho các chuồng nuôi có
cửa sổ được đề nghị bởi một trong các cơ sở giống nước ngoài. Thời gian ngày chiếu sáng, bao
gồm cả chiếu sáng nhân tạo, được biểu diễn bằng giờ, khi mang sử dụng cần phải tính toán tương
ứng với thời gian của một ngày đêm.
Pigarev đã thành công trong việc nâng cao rõ rệt sức đẻ trứng và khối lượng trứng được áp
dụng chương trình chiếu sáng theo thời gian chiếu sáng tự nhiên.

Hình 9: Sơ đồ chiếu sáng chuồng nuôi có cửa sổ trong thời gian nuôi gà con (cơ quan giống
của Thuỵ Sĩ). Giải thích trong sách


















Hình 10: Sơ đồ chiếu sáng chuồng nuôi có cửa sổ trong thời gian gà đẻ trứng
(cơ quan giống của Thuỵ Sĩ). Giải thích trong sách

Formatted: Font: 2 pt
Deleted:

Deleted: ¶

110



Chế độ tối sáng: Các nhà khoa học trường Đại học Cornell đã xác định rằng, đối với gà đẻ,
trong vòng 24 g, chiếu sáng 8 g, tắt 10 g, chiếu 2 g, rồi tắt 4 g, sẽ cho sản lượng trứng tương
tự như chiếu liên tục 24 g nhưng tiết kiệm 40 % tiền điện.
Khi nuôi gà con, có 2 loại là nuôi đúng vụ và trái vụ
Nuôi đúng vụ: gà con nở cuối mùa xuân, hè, giai đoạn nuôi gà hậu bị vào mùa thu đông, ngày
ngắn, phù hợp với nguyên tắc hạn chế ánh sáng trong giai đoạn hậu bị… không cần tác động
gì cả.
Nuôi trái vụ, gà con nở vào cuối đông, đầu xuân, giai đoạn hậu bị diễn ra vào mùa hè, ánh
sáng rất mạnh và ngày dài. Khi đó, lấy thời gian chiếu sáng ban ngày dài nhất làm chuẩn và
vào những ngày khác, chiếu thêm ban đêm cho đủ như giờ chuẩn đó, như vậy, suốt thời gian
hậu bị, chiếu sáng 12-13 g, miễn là thời gian chiếu sáng phải thật ổn định, đến cuối giai đoạn
hậu bị mới tăng thời gian chiếu sáng để kích thích gà đẻ trứng.
Nguyên tắc cần chú ý là: khi gà vào đẻ, tăng giờ chiếu sáng từ từ, mỗi ngày 30’, liên tục, đề
đặn cho đến khi đủ 16-17 h/ngày. Khi gà đẻ, không được giảm thời gian chiếu sáng dưới 16-
17 h với cường độ chiếu sáng thích hợp…
Khi tăng giờ chiếu sáng, tăng vào sáng sớm có tác dụng hơn là tăng vào buổi chiều tối.
Cường độ chiếu sáng: đối với chuồng kín, dùng ánh sáng nhân tạo hoàn toàn, 3 tuần đầu chiếu

sáng 24/24, sau 3 tuần tuổi, giảm xuống chỉ còn 8 h/ ngày, cường độ ánh sáng là 5-10 lux
hoặc 1 watt/m2; khi gà vào đẻ, tăng lên 20 - 40 lux hoặc 3-4 watt/m2, duy trì cường độ này
đến khi kết thúc nuôi gà đẻ.

2.4.6. Lớp độn chuồng
Nuôi trên lớp độn chuồng dày, lớp độn chuồng có rất nhiều tác dụng quan trọng:
1. Hút ẩm từ phân gà, bằng cách này từ 115g phân/ gà sẽ giảm xuống còn 28,75g
(115g-75% nước)
Formatted: Font: 14 pt
Deleted:

Deleted: ¶

111

2. Trộn và làm giảm mức độ đậm đặc của phân. Điều này không những giảm bớt sự
tiếp xúc trực tiếp giữa gà và phân mà còn làm giảm sự tập trung của vi khuẩn và làm giảm bớt
thức ăn của chúng (thức ăn chưa tiêu hoá trong phân gà) Nhờ vậy, nhiều vi sinh vật không
sinh sản được, một số con không sống sót được, số lượng vi sinh vật giảm đi.
3. Sự kết hợp giữa lớp độn chuồng dày và phân gà dẫn đến lên men ở mức độ thấp tạo
ra một lượng nhỏ amoniac diệt khuẩn. Quá trình phân huỷ hoá học này biến lớp độn chuồng
thành nguyên liệu tương đối vô hại với gà.
4. Chức năng khác của lớp độn chuồng là điều hoà độ ẩm và nhiệt độ của môi trường.
Lớp độn chuồng hút ẩm từ không khí khi không khí quá ẩm và giải phóng hơi nước khi không
khí quá khô. Vào những ngày lạnh gà thích thú với sự ấm áp của lớp độn chuồng và vào
những ngày nóng chúng thải bớt nhiệt cơ thể bằng cách chúng vùi mình trong lớp độn
chuồng.
Nói tóm lại, nếu chăm sóc tốt lớp độn chuồng với nguyên liệu đúng yêu cầu thì nuôi
gà trên nền hoàn toàn hay 2/3 là sàn thì vấn đề phân gà được giải quyết gần như là tuyệt vời.
Mặt khác, nếu quản lý lớp độn chuồng không tốt, nó có thể trở thành nguồn gây bệnh

nguy hiểm cho gà. Ví dụ: khi lớp độn chuồng quá quá ẩm hoặc đóng bánh lại, vi sinh vật sẽ
phát triển với tốc độ rất nhanh. Do vậy, không chỉ chân gà bị tấy lên, nứt ra và bị nhiễm khuẩn
(do phân luôn dính vào phân gà làm sưng chân, dị dạng ngón chân và viêm khớp do tụ cầu
khuẩn), mà vi sinh vật do gà nuốt vào có thể gây bệnh ỉa chảy, cầu trùng, nội ký sinh trùng và
bệnh samonellosis, điều này làm ô nhiễm lớp độ chuồng sẽ dẫn tới các bệnh khác. Nếu lớp
độn chuồng quá khô, không khí trong chuồng bụi gây viêm đường hô hấp và nhiễm khuẩn
làm cho đường hô hấp giảm sức đề kháng. Những bệnh đó là bệnh Newcastle, viêm khí quản
truyền nhiễm, AIV, viêm thanh khí quản truyền nhiễm, Reo virut, Adeno virut, bệnh Marek,
TRT, P. multccida, H. paragallinarum, chlamydia, E. coli, nấm phổi, Mycoplasma,
(MG/MS)…Hơn nữa, khi đường hô hấp bị viêm nhiễm kết hợp đáp ứng của cơ thể với vaccin
làm ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ đàn gà.
Đôi khi do không có nguyên liệu độn chuồng tốt phải dùng nguyên liệu đứng hàng thứ
hai, cần biết rõ đặc điểm của loại nguyên liệu đó để có thể sử dụng cho đúng.
Loại nguyên liệu độn chuồng hút ẩm chỉ tốt khi ẩm độ có thể được giải phóng khỏi lớp
độn trong điều kiện chuồng được thông thoáng tốt và không khí trong chuồng bị khô. Đảm
bảo giải phóng ẩm độ rất tốt, nhưng than bùn và vỏ lạc lại rất kém. Những loại đó giữ ẩm và
tạo điều kiện cho nấm mốc phát triển.
Tính chất không đóng bánh là một yêu cầu quan trọng của lớp độn chuồng. Dăm bào,
trấu, mùn cưa khô, thoáng tốt; rơm cắt ngắn và giấy cắt nhỏ rất dễ đóng bánh.
Nhiều khi, kết hợp các loại nguyên liệu cho phép bổ sung những điểm yếu của chính
các nguyên liệu đó. Ví dụ: trấu không hút ẩm nhiều nhưng lại nhẹ và chống đóng bánh trong
điều kiện bình thường. Nếu dùng trấu kết hợp với rơm cắt nhỏ thì sẽ tốt hơn khi sử dụng riêng
từng loại.
Khi lớp độn chuồng quá khô môi trường trong chuồng gà sẽ bụi. Bụi gây kích thích
đường hô hấp, do vậy gà dễ bị bệnh. Độ ẩm phù hợp cần đảm bảo trong lớp độn chuồng là 25
- 30%. Độ ẩm này cần thiết để tránh không khí trong chuồng quá khô, duy trì quá trình lên
men chậm trong lớp độn chuồng và giảm tới mức phù hợp quá trình phát triển của noãn nang
cầu trùng.
Số lượng lớn vi sinh vật trong lớp độn chuồng có thể là các loại có khả năng gây bệnh
hoặc loại không. Khi còn ở ngoài cơ thể vật chủ, chúng có thể sinh sản được hoặc không sinh

sản được. Những loại không sinh sản được ở bên ngoài cơ thể vật chủ là động vật nguyên
sinh, trứng giun, virut, mycoplasam và chlam mydia. Những loại vẫn sinh sản bên ngoài cơ
thể vật chủ là vi khuẩn và nấm. Những vi sinh vật này có thể do gà đang nuôi trong đàn thải ra
hoặc mang đến chuồng gà từ ngoài qua con người, chuột, chim hoang, quần áo, dụng cụ chăn
nuôi, thiết bị, không khí ô nhiễm, nước hoặc thức ăn…Thời gian sống sót của vi sinh vật được

112

kéo dài thêm nhờ ẩm, PH trung tính, protein, và nhiệt độ thấp nhưng bị rút ngắn lại do khô,
PH quá cao hoặc quá thấp, bề mặt sạch sẽ, nhiệt cao, làm đông lạnh, làm tan đá và tia cực tím.
Trong điều kiện thông thường thời gian sống sót trung bình của một số mầm bệnh như sau:
Sống sót nhiều ngày: Mycoplasma, Hemophilus, Sprochaete, virut bệnh viêm thanh
khí quản truyền nhiễm, virut bệnh viêm phế quản truyền nhiễm.
Sống sót hàng tuần: Pasteurella, Campylobacter, Erysipelothrix, AIV, virut bệnh
Newcatsle, virut bệnh viêm não tuỷ truyền nhiễm.
Sống sót hàng tháng: Tụ cầu khẩn, Salmonellae, E. coli, virut bệnh Gumboro, virut
bệnh Marek, virut bệnh đậu, Reo virut, Adeno virut, bào tử nấm, cầu trùng, Crypto sporidia.
Sống sót hàng năm: M. avium, trứng giun, nha bào vi khuẩn, bào tử nấm.
Như chúng ta đã thấy nhiều loại trong số vi sinh vật nói trên sống khá lâu. Do vậy, cọ
rửa sạch sẽ, sát trùng và thời gian để trống chuồng dài là cần thiết để cắt đứt vòng đời của
chúng. Lớp chuồng tốt, vệ sinh, diệt trừ côn trùng và bệnh hại, an toàn sinh học, dùng clo sát
trùng nước, vệ sinh thức ăn là cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra một môi trường sạch hơn
cho gà.
Trong điều kiện trại quản lý kém, vi sinh vật luôn đe doạ sức khoẻ đàn gà. Tuy nhiên,
nếu chăm sóc tốt lớp độn chuồng, vi sinh vật sẽ bị ức chế và môi trường chăn nuôi gà sẽ được
cải tiến, kết quả là đàn gà sẽ có sức khoẻ, tỷ lệ nuôi sống và sức sản xuất cao hơn.
Lớp độn chuồng ảnh hưởng đến trạng thái chung và sức khoẻ của gà và là một trong
những nhân tố quan trọng của môi trường. Nhờ các quá trình phân huỷ của men xảy ra trong
lớp độn chuồng, gà nhận được một nguồn bổ sung các chất có hoạt tính sinh học, chủ yếu là
vitamin B

2
, B
12
và các chất kháng sinh. Nếu chú ý tốt đến lớp độn chuồng có thể đẩy mạnh
sức đẻ trứng. Nếu giữ lớp độn chuồng được tốt thì chúng không dính bết vào nhau, người đi
vào chuồng không bị lớp độn chuồng dính vào giầy và khi lấy tay nắm lại thì không bị nát
vụn.
Rơm rạ chặt nhỏ, trấu, lá khô để nguyên hay chặt nhỏ, vỏ bào, than bùn … có thể dùng
làm lớp độn chuồng. Rơm rạ chưa chặt nhỏ không dùng làm lớp độn chuồng vì chúng hút ẩm
và đóng bánh rất nhanh. Rơm rạ đại mạch cũng không dùng làm chất độn chuồng vì có nhiều
gai cứng làm hỏng màng nhầy của gà. Than bùn hấp thụ hơi nước trong không khí gấp ba lần
so với mùn cưa và vỏ bào, hai lần nhiều hơn rơm rạ, nhưng để thoát nước lại kém hơn. Khả
năng chứa nước của than bùn tăng lên nếu giữ chúng trên trần nhà trong mùa đông, ở đó nó
được giữ lạnh.
Cần phải xem mùn cưa có bị nấm mốc không trước khi đưa vào sử dụng để tránh cho
gà khỏi bị mắc các bệnh về đường hô hấp.
Rơm rạ cắt nhỏ qua máy cắt sẽ trở thành các sợi mảnh và có khả năng hấp thụ rất tốt.
Tốt hơn cả là dùng lớp độn chuồng hỗn hợp. Có thể hỗn hợp các nguyên liệu độn chuồng kể
trên. Lớp độn chuồng gồm có 1/3 là than bùn và 1/3 là vỏ bào, 1/3 là rơm rạ cắt nhỏ. Cũng có
thể hỗn hợp các nguyên liệu sẵn có để làm lớp độn chuồng. Nhiều thành phần vỏ bào quá
trong hỗn hợp độn chuồng sẽ làm giảm các quá trình phân huỷ của lớp độn chuồng và các quá
trình sinh tổng hợp.
Trong tất cả các chuồng nuôi có thông khí tự nhiên, người ta rải lớp độn chuồng mới
vào mùa hè vì rằng trong những ngày mùa thu lạnh rất khó giữ lớp độn chuồng được khô. Độ
dầy của lớp độn chuồng phụ thuộc vào nguyên liệu được dùng và mật độ nuôi. Lớp độn
chuồng phải có thể hấp thu và biến đổi được các chất do gà thải ra mà không bị hư hỏng về
cấu trúc. Với mật độ nuôi bình thường, lớp độn chuồng dầy vào khoảng 20 -25cm. Để giữ
được khô suốt năm, nền chuồng phải được cách ly tốt với hơi ẩm của đất. Nền chuồng phải có
lớp trên cứng, làm bằng bê tông, bằng gỗ và các nguyên liệu khác. Nền chuồng làm bằng gỗ
không cần phải tráng gì thêm trên bề mặt vì lớp độn chuồng không làm hỏng được gỗ. Những

năm gần đây ở nước ngoài đã xuất hiện những chuồng nuôi ở đó người ta rải lớp độn chuồng
trên lớp đá răm dầy 30 cm ngăn cách với đất bằng một tấm nhựa nhân tạo.

113

Vôi khô không phải là chất cách ẩm tốt, nhưng cũng có thể cần vôi trong trường hợp
không giữ được lớp độn chuồng khô.
Thường gà cũng làm xốp lớp độn chuồng khi bới tìm mồi. Nếu không đủ thì phải xới
lớp độn chuồng đều đặn. Có thể dùng một cào đặc biệt chạy bằng điện. Số lần xới lớp độn
chuồng phụ thuộc vào nguyên liệu dùng làm chất độn chuồng và điều kiện tiểu khí hậu. Về
mùa đông lớp độn chuồng hấp thụ ẩm nhiều phải xới thường xuyên hơn, có khi làm hằng
ngày để cho sự bốc hơi nước được nhanh chóng. Nếu lớp độn chuồng quá ẩm, kết bánh lại với
nhau thì phải thay thế. Thêm vôi vào (0,6 – 1kg/m
2
) có thể hút ẩm nhiều nhưng không làm
cho cấu tạo của lớp độn chuồng được tốt hơn. Dùng supephosphat có hiệu quả tốt hơn
(0,5kg/m
2
) vì nó làm cho cấu tạo của lớp độn chuồng được tốt hơn.
Điều quan trọng là phải làm xốp lớp độn chuồng ở tất cả các độ sâu để làm cho sự
hoạt động sinh học được thực hiện ở tất cả các lớp. Nếu lâu không xới lớp độn chuồng thì
những vi sinh vật yếm khí sẽ phát triển cạnh tranh với sự phát triển của quần thể các vi sinh
vật háo khí. Ngoài ra lớp độn chuồng sẽ trở nên rất ẩm và mục nát. Nếu thường xuyên xới lớp
độn ở dưới sẽ làm cho chúng luôn luôn khô.
Một lần nữa, chúng tôi muốn nhắc lại rằng cấu tạo của lớp độn chuồng chịu ảnh hưởng
quyết định của tiểu khí hậu trong chuồng nuôi. Chỉ có thể giữ cho lớp độn chuồng được khô
trong mùa đông nếu có hệ thống thông khí tốt đảm bảo đẩy hơi ẩm ra ngoài chuồng nuôi.
Ở nước ta, tình trạng sử dụng lớp độn chuồng không đảm bảo diễn ra rất phổ biến.
Hầu hết các nông hộ sử dụng lớp độn chuồng mỏng từ 3-5 cm, sau đó 2-4 tuần lại thay một
lần, làm như vậy sẽ thường xuyên gây stress, nhiều bụi và ảnh hưởng rất xấu đến năng suất

của đàn gà.
2.5. Mật độ nuôi và độ lớn của đàn
Khả năng sản xuất của gà phụ thuộc vào mật độ nuôi (số lượng gà mái trên 1m
2
diện
tích chuồng nuôi). Nuôi càng dầy sức đẻ trứng của từng gà mái càng giảm xuống mặc dù số
trứng tính trên một đơn vị diện tích sản xuất của chuồng nuôi có thể tăng lên.
Tăng mật độ nuôi cũng giảm vốn đầu tư cho một cơ sở nuôi, vì vậy người ta đang cố
gắng tăng mật độ nuôi gà mái đẻ hơn nữa. Tăng mật độ nuôi cũng tạo điều kiện cho tăng năng
suất lao động.
Mật độ nuôi do nhiều yếu tố quyết định, nhưng chủ yếu là cách nuôi, trang bị kỹ thuật
của chuồng nuôi và giống gà. Ngày nay có những loại chuồng nuôi gà mái đẻ trong đó gà
được nuôi trên lớp độn chuồng và trên sàn gỗ với mật độ 12 – 14 con trên 1m
2
nền chuồng mà
sức đẻ trứng vẫn cao. Muốn được kết quả tốt như vậy chuồng nuôi phải có tiểu khí hậu điều
chỉnh được và thức ăn phải có nhiều chất có hoạt tính sinh học.
Tiêu chuẩn mật độ nuôi phụ thuộc vào cách nuôi và kỹ thuật được áp dụng.
Khi nuôi hơn bốn con trên 1m
2
với lớp độn chuồng cần phải có hệ thống thông khí tốt. Muốn
nuôi dầy hơn nữa phải có hố phân lớn (một hay vài hố phân cho 50% diện tích nền chuồng).
Nuôi mật độ dầy thì không gian để gà vận động bị hạn chế, đặc biệt là không có đủ trang bị
hay trang bị không tốt sẽ làm cho gà dễ xuất hiện trạng thái bị kích động, ảnh hưởng rất lớn
đến sức đẻ trứng. Có thể giảm nhẹ kích động này bằng cách cho gà ăn thêm các chất có hoạt
tính sinh học (vitamin và kháng sinh).
Nuôi nhiều sẽ sinh ra mổ nhau, để hạn chế điều này người ta thành lập đàn từ những
gà mái choai có mỏ bị cắt đi một phần.
Tiêu chuẩn mật độ theo các phương pháp nuôi (đầu con/1m
2

)
Nuôi chăn thả (thông khí tự nhiên): 3 – 4.
Nuôi trên lớp độn chuồng (thông khí nhân tạo): 3 – 4
Nuôi trên lớp độn chuồng (thông khí tốt): 5 – 7
Nuôi trên sàn gỗ: 5 – 7
Nuôi dầy hơn tiêu chuẩn này còn phải có đủ điều kiện thông khí và các trang bị
kỹ thuật trong chuồng nuôi.
Formatted: Level 1
Formatted: Font: 14 pt

114

Trong chuồng nuôi có mật độ dày cường độ thông khí và trang thiết bị cho một đầu
con phải tương tự như trong chuồng nuôi với mật độ thưa ánh sáng Có thế mới tránh được các
hiện tượng kích động.
Tiêu chuẩn trang bị và đồ dùng trong chuồng nuôi gà mái đẻ.
Chỗ đứng ăn.
Khi nuôi bằng thức ăn hỗn hợp đầy đủ: 12 – 15 cm cho một con với
máng ăn, máng nước
Khi nuôi bằng thức ăn hỗn hợp và hạt với máng ăn, máng nước: 9 – 12cm / con
Khi nuôi bằng thức ăn hỗn hợp trong máng tự động và thức ăn hạt: 2 – 3cm / con
Khi có máng ăn xích đẩy: 9 – 15cm/ con
Khi có máng ăn ống tự động: 25con / máng
Máng ăn uống tự động, đá sỏi và cát: 0,15cm/ con
Máng ăn uống tự động đựng vôi: 0,30cm/ con
Máng uống tự động: 2,5 cm/ con
Ổ đẻ mở cho từng con 5 con/ ổ
Ổ đẻ cơ khí hoá với trang bị chọn trứng: 5 con/ ổ
Ổ đẻ theo nhóm: 100 – 125 con/ 1m
2

nền chuồng
Những con số trên đây là mức tối thiểu. Giảm xuống hơn nữa sẽ ảnh hưởng xấu đến khả
năng sản xuất. Xếp đặt các dụng cụ trong chuồng nuôi cũng quan trọng đối với trạng thái chung của
gà và sức đẻ trứng. Thí dụ máng uống luôn luôn được đặt cách máng ăn 4cm. Gà mái đẻ không
thích ổ đẻ để quá cao. Trong trường hợp này gà hay đẻ lên lớp độn chuồng.
Độ lớn của đàn là số lượng đầu con được nuôi trong một chuồng hay một ngăn. Độ
lớn này thay đổi theo các giống gà đẻ trứng. Độ lớn của đàn nhỏ là một yếu tố kích thích khả
năng sản xuất nhưng trong nuôi thâm canh điều này không thể chấp nhận được. Xét về mặt
tâm lý của gà và công chăm sóc, độ lớn của gà trong nuôi thâm canh nên là 500 con. Với điều
kiện này ảnh hưởng về tâm lý có thể có ở gà sẽ bị loại trừ. Độ lớn tối đa không nên vượt quá
1500 – 2000 con để tiện việc theo dõi và chăm sóc đàn gà. Trong điều kiện riêng của cơ sở
nuôi độ lớn của đàn có thể lớn hơn nữa. Trong nuôi chăn thả, độ lớn của đàn gà mái đẻ do
điều kiện cụ thể của nơi chăn quyết định. Theo kinh nghiệm của các xí nghiệp nuôi gà lớn ở
nước ngoài có thể nuôi thâm canh 5000 gà mái trong một chuồng nuôi, chuồng này được ngăn
ra hai hay bốn ngăn bằng lưới thép. Điều kiện này đảm bảo cho gà đẻ nhiều và có sức khoẻ
tốt.
Độ lớn của đàn gà thịt ảnh hưởng đến khả năng sản xuất nhiều hơn. ở các giống gà hướng
thịt cảm giác theo đàn của gà biểu hiện yếu hơn và khả năng sản xuất giảm đi khi đàn gà mới có
độ 200 – 250 con. Phải luôn luôn tính đến đặc điểm này khi thành lập đàn gà thịt.

2.6.Các phương thức nuôi gà mái đẻ
Trong những năm gần đây các phương thức nuôi gà mái đẻ đã thay đổi nhiều nhờ
những khám phá mới của khoa học. Nuôi gà mái đẻ lấy trứng ăn theo lối thâm canh đã được
thay đổi theo nhiều hướng. Ngay trong việc nuôi gà giống người ta cũng áp dụng lối nuôi
thâm canh. Bất cứ một sự thay đổi nào về phương thức chăn nuôi cũng phải nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế. Để giải quyết nhiệm vụ này nghề chăn nuôi gia cầm của thế giới đã nhấn
mạnh những phương hướng sau đây:
1) Nâng cao mật độ nuôi trên 1m
2
diện tích sản xuất của nền chuồng bằng cách trang

bị kỹ thuật tương ứng cho chuồng nuôi.
2) Nâng cao sức đẻ trứng của gà mái bằng cách tạo ra tiểu khí hậu phù hợp nhất và
điều kiện môi trường được điều chỉnh.
3) Giảm chi phí về xây dựng tính trên một đầu gà bằng cách tìm ra phương thức nuôi
rẻ hơn và hiệu quả hơn trong những địa phương có điều kiện khí hậu tốt và không phải chi phí
nhiều về xây dựng.
Formatted: Level 1
Formatted: Font: 14 pt

115

Thí dụ về phương hướng đầu tiên là nuôi gà trên lớp độn chuồng dầy, trên nền sàn và
trong lồng. Khuynh hướng thứ hai là xây dựng những chuồng nuôi không có cửa sổ với các
phương thức nuôi khác nhau.
Hướng thứ ba là nuôi chăn thả gà mái đẻ theo kiểu của nước Anh và nuôi gà trong bãi
chăn có lưới quây như ở một vài nơi miền nam nước Nga. Mối quan hệ chặt chẽ giữa mật độ
nuôi và sự thông khí đã dẫn đến khuynh hướng tăng mật độ nuôi và tăng sức đẻ trứng bằng
việc xây những chuồng nuôi có khí hậu nhân tạo. Ngoài ra còn một loại chuồng nuôi kết hợp
do sự đề nghị của các tác giả người Anh, đó cũng là bằng chứng của khuynh hướng này.
Các nước Đông nam á thường không làm chuồng kín, vách cố định mà thường dùng
loại chuồng đơn giản nhưng có hệ thống phun sương mù, kết hợp với hệ thống quạt thổi để
đưa hơi nước ra khỏi chuồng.
Loại thứ hai là chuồng đơn giản có trần, rèm che kín 2 bên, đầu chuồng lắp màng xốp
ẩm, cuối chuồng lắp hệ thống quạt đẩy gió ra (chuồng hang mát).
Loại thứ ba như chuồng hang mát nhưng bỏ màng xốp ẩm, hệ thống quạt hút cực
mạnh, tốc độ gió 2,5 m/s (hang gió). Đây là loại chuồng tương đối thích hợp với điều kiện của
nước ta vì không tạo độ ẩm cao cho chuồng nuôi, chi phí thấp, hiệu quả cao.
Ở nước ta, chăn nuôi gà đồi hay thả vườn rất phát triển nhưng chủ yếu là nuôi gà thịt
thương phẩm và gà nội. Việc nuôi gà đẻ trứng giống theo phương thức chăn thả cũng đã được
tiếm hành tại một số trang trại. Cần lưu ý là chăn thả với điều kiện thông thoáng tự nhiên là

một xu thế của thế giới. Hãng Sasso của Pháp hiện nay chủ yếu nuôi theo phương thức này.
Tuy nhiên, chăn nuôi gà đẻ trứng thương phẩm vẫn được tiến hành chủ yếu theo phương thức
nuôi nhốt với 2 loại chuồng chính: thông thoáng tự nhiên và chuồng kín, theo kiểu “chuồng
hang mát” với hệ thống tạo hơi nước và quạt đẩy. Con đường để giải quyết tất cả những vấn
đề trong từng trường hợp cụ thể rất khác nhau và bị hạn chế bởi các điều kiện thiên nhiên và
điều kiện kinh tế. Vì vậy không nên sao chép một cách máy móc những phương thức nuôi của
nước ngoài, bởi vì không phải bao giờ sự nổi tiếng cũng phù hợp với tất cả các nước và khu
vực. Kinh nghiệm đau sót của nhiều công trình xây dựng trong nước và nước ngoài đã là
những dẫn chứng cho điều đó.

2.7. Hướng dẫn nuôi gà giống cụ thể
Qui trình áp dụng trong tất cả các cơ sở chăn nuôi gà giống, dòng theo phương pháp
công nghiệp.

2.7.1. Chuẩn bị các điều kiện để chăn nuôi
1. Phải chuẩn bị đầy đủ chuồng nuôi, rèm che, kho đựng thức ăn, bể chứa nước, thuốc
thú y, các phương tiện sưởi ấm, làm mát, thức ăn nước uống cho số lượng gà giống định nuôi.
2. Các chuồng nuôi, nhà kho được ghi số thứ tự riêng.
3. Chuồng nuôi, hệ thống cống rãnh, khu vực kho chứa thức ăn, dụng cụ chăn nuôi,
dăm bào phải được vệ sinh sát trùng triệt để theo quy định thú y.
4. Cổng ra vào trại chăn nuôi, cửa sổ các ô chuồng , nhà kho thức ăn phải có hố sát
trùng.
5. Cây xanh, cỏ dại cách chuồng 10-15 mét phải được phát quang. Các động vật cư trú
chuyền dịch bệnh cho gà như chuột, cáo, chồn, côn trùng, chim tự nhiên phải tiêu diệt.
6. Chuồng nuôi, nhà kho sau khi sát trùng phải để khô mới cho dăm bào và thức ăn
vào, dăm bào phải phơi khô không bị nấm mốc, thức ăn tươi (có mùi thơm của các nguyên
liệu chế biến).
7. Quây gà, đèn sưởi, thức ăn, nước uống phải có sẵn trong chuồng trước khi đưa gà
về. Mỗi dãy chuồng có sổ ghi chép tình hình chăn nuôi, thú y của gà theo biểu qui định.
8. Phải có đủ ổ đẻ, sào đậu cho gà đẻ theo qui cách đã định.

9. Có phòng mổ khám, chuẩn đoán bệnh và nhà thiêu xác hoặc hố tự hoại.
Formatted: Level 1
Formatted: Font: 16 pt
Formatted: Font: 16 pt
Formatted: Font: 16 pt

116

10. Các loại thuốc độc, tiệt trùng… không để gần kho chứa thức ăn, kho đựng dụng cụ
chăn nuôi, bể nước uống của gà và chuồng nuôi.
11. Chuồng nuôi, nhà kho sau khi được vệ sinh, sát trùng phải được niêm phong cho
đến khi đưa gà vào nuôi.

2.7.2. Kỹ thuật chọn giống
2.7.2.1. Chọn gà con một ngày tuổi
1. Gà con giống phải được chọn kỹ lúc 1 ngày tuổi, gà dòng thuần phải đeo số cánh và
ghi vào lý lịch theo bố mẹ, dòng, giống.
2. Gà con 1 ngày tuổi được chọn lọc theo những quy định sau:
- Khối lượng sơ sinh dòng thuần không dưới 36g (cân 10% số gà nở ra để xác định
khối lượng cơ thể bình quân 1 ngày tuổi).
- Ngoại hình phải đạt những yêu cầu sau: gà con khoẻ mạnh, tinh nhanh, thân hình cân
đối, mắt tròn sáng, chân to, mập, ấm, hồng hào, đứng vững, ngón chân không vẹo, lông khô
đều, bông và sạch, màu sắc lông và chân đúng với màu sắc chuẩn của lông và chân từng dòng,
giống; cánh áp sát và thân, bụng thon và mềm, rốn khô và kín; phản xạ nhanh nhẹn.

2.7.2.2. Chọn lọc gà con giai đoạn 42 hoặc 49 ngày tuổi (tuỳ theo từng dòng, giống)
1. Phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để chọn lọc được nhanh và tốt như quây gà, cân
kỹ thuật, thước đo, sổ sách, biểu mẫu cần thiết và nhân lực.
2. Phương pháp tiến hành chọn lọc
- Thời điểm chọn lọc: chọn vào lúc thời điểm mát, mùa hè sáng từ 5-10 giời, chiều từ

16-21 giờ.
- Cân 10 - 15% số gà của từng ô để xác định khoảng chọn lọc, sau đó cân khối lượng
từng cá thể trong ô, loại các cá thể có khối lượng ngoài khoảng chọn lọc (được xác định cụ
thể theo từng dòng, giống).
- Loại những cá thể có khuyết tật (khèo chân, vẹo mỏ, xã cánh, vẹo lườn, vẹo đuôi…)
- Mỗi cá thể được chọn đối với giống gốc phải đeo số chân trùng với số đeo cánh lúc 1
ngày tuổi.
- Những gà đã được chọn lọc phải được ghi số vào sổ để theo dõi.

2.7.2.3. Chọn gà 140 ngày tuổi
1. Các bước tiến hành cũng tương tự như giai đoạn 42 hoặc 49 ngày tuổi. Chọn các cá
thể có khối lượng phù hợp với yêu cầu chất lượng của từng dòng, từng giống, đàn gà được
chọn lọc phải được đưa ngay lên khu gà đẻ.
2. Các tiêu chuẩn chọn lọc:
- Khối lượng sống, chọn các cá thể có khối lượng sống trong khoảng chọn lọc đã được
xác định theo từng dòng giống.
- Ngoại hình:
+ Đầu cân đối
+ Mào và tích đỏ tươi, phát triển tốt, láng bóng
+ Mắt tròn, sáng, tinh nhanh
+ Mỏ bình thường, mỏ trên và dưới khớp nhau
+ Lưng rộng, dài và thẳng
+ Thân thẳng, cân đối, chắc khoẻ
+ Lông đều, bóng mượt, màu sắc đặc trưng từng dòng, giống, xương chậu ở gà mái
phát triển rộng.
Những gà không đạt tiêu chuẩn ngoại hình trên thì phải loại thải.

2.7.2.4. Chọn ghép gia đình sau 258 ngày tuổi

117


1. Chọn ghép gia đình chỉ áp dụng sau khi gà được theo dõi sức đẻ trứng và khối
lượng trứng cá thể từ tuần tuổi 23-24 đến 37-38 tuần tuổi. Gà được chọn phải có đầy đủ các số
liệu theo các chỉ tiêu sau:
- Khối lượng cơ thể sống 42 hoặc 49 ngày tuổi, 140 ngày tuổi.
- Sống lượng trứng đẻ từ 23-37 tuần tuổi
- Khối lượng trứng ở các tuần 36-37 ( mỗi gà mái có ít nhất 7 quả trứng).
- Tình trạng sức khoẻ của từng cá thể.
Các chỉ tiêu trên được đưa vào xác định giá trị giống theo yêu cầu chọn lọc, mỗi đàn
gà giống có phương pháp riêng.
2. Sau khi gà mái và gà trống được chọn ghép vào gia đình, lấy các cá thể được xếp từ
cao đến thấp, gà trống chỉ giữ lại 4-5% so với 1 ngày tuổi, tương tự gà mái chọn khoảng 25-
30%. Mỗi gia đình được ghép với tỷ lệ 1 trống với 10-12 và có 1 -2 trống dự trữ cùng huyết
thống ( kỹ thuật ghép gia đình có hướng riêng).
3. Mỗi dòng phải đảm bảo tối thiểu có từ 25 gia đình trở lên.
2.7.3. Kỹ thuật chăn nuôi gà giống
2.7.3.1. Kỹ thuật chăn nuôi gà con từ 0 – 21 ngày tuổi

1. Trước khi đưa gà con vào chuồng nuôi, phải thực hiện những vịêc sau đây:
- Rèm che được đóng kín
- Quây gà, thức ăn, nước uống có sẵn trong chuồng theo qui cách, tiêu chuẩn quy định
… chụp sưởi được bật sẵn.
- Dăm bào đã được sát trùng và rải dày 10-15cm làm đệm chuồng.
2. Gà con được đưa về phải chuyển ngay vào chuồng và phân đều chúng ở dưới chụp
sưởi.
3. Phải có giấy chứng nhận sức khoẻ của gà con ở nơi giao nhận (trạm ấp).
4. Trong mỗi ô chuồng chỉ nuôi gà cùng một lứa tuổi và cùng một loại gà.
5. Khi thả gà con vào quây phải thực hiện tuần tự những việc sau:
- Kiểm tra lại những số lượng con sống và những con chết.
Loại ngay những con chết và những con yếu không đủ tiêu chuẩn ra khỏi chuồng.

Báo cáo ngay chất lượng đàn gà giống đã nhận cho nơi giao giống.
6. Mật độ nuôi phải theo quy định sau:
Tuần tuổi
Hè thu
(bình quân con/m
2
)
Thu đông
(Bình quân con/m
2
)
0 - 3 – 7 Không quá 10 con Không quá 10 con

7. Sau khi gà thả vào quây, chú ý quan sát luyện tập, tập ăn và uống cho những gà
chưa biết ăn ở khay và uống ở máng.
8. Thường xuyên theo dõi nhiệt độ trong quây và trong chuồng nuôi để điều chỉnh độ
cao của chụp sưởi cho phù hợp, chụp sưởi treo giữa quây.
- Nếu đàn gà tập trung lại thành đám dưới chụp sưởi là hiện tượng thiếu nhiệt, phải hạ
thấp hoặc bổ xung thêm chụp sưởi.
Đàn gà tản mạn xa chụp sưởi, thể hiện nhiệt độ trong quây, trong chuồng cao quá, cần
phải nâng lên hoặc tắt bớt chụp sưởi.
Đàn gà phân bố đều trong quây, trong chuồng là gà đủ nhịêt độ, giữ nguyên độ cao và
lượng chụp sưởi.
- Yêu cầu nhiệt độ dưới chụp sưởi như sau:

Tuần tuổi Nhiệt độ
0 – 1 Khoảng 33 – 35
0
C
1 – 2 Khoảng 30

0
C
2 – 3 Khoảng 28
0
C
Formatted: Font: 4 pt

118


9. Quây gà cao 45 cm, đường kính của quây 3 cm có thể nuôi 300 gà con một ngày
tuổi/quây. Quây được sát trùng trước khi thả gà vào. Mùa đông, sang tuần thứ hai mở rộng
quây, đến tuần thứ 3 bỏ quây. Mùa hè ở tuần thứ 2 bỏ quây.Thời gian bỏ quây sớm hay muộn
ở tuần thứ hai phụ thuộc vào sức khoẻ của đàn gà và nhiệt độ trong chuồng nuôi.
10. Trước khi tháo quây, phải dồn dăm bào ở bốn góc tường để tránh gà tập trung ở
các góc tường gây chết do đè nhau.
11. Từ tuần đầu đến giữa tuần thứ hai dùng khay ăn có kích thước 70 x 60 (cm), từ
cuối tuần thứ hai trở đi thay dần khay ăn bằng máy ăn P50. Mật độ máng ăn qui định như sau:
Loại máng Số gà /1máng
Khay ăn (70x60cm) 75
Máng ăn tròn P50 50
12. Thức ăn được đổ vào máng ăn 3-4 lần trong một ngày, dộ dày 0,5 – 1cm, sàng
thức ăn trong khay 3 – 4 lần trong ngày để loại bỏ chất độn chuồng và phân lẫn.
13. Thức ăn phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn về số lượng, chất lượng cho từng lứa tuổi gà.
14. Gà ở tuần tuổi đầu dùng máng uống nhỏ 1lít/máng, tuần thứ hai dùng máng uống
dài, 1, 56mét. Máng uống galon đặt xen kẽ với máng ăn. Nước uống phải trong, sạch. Hàng
ngày thay nước trong máng ăn. Mỗi ngày thay nước trong máng bằng nước mới 6 lần Máng
uống được rửa hàng ngày theo quy trình thú y. Mật độ máng uống được sử dụng như sau.
Loại máng uống Cm/con Con/máng
Máng tròn (3, 8 lít) 1.7 50

Máng dài (1,56m) 2,3 140
15. Chiếu sáng nhân tạo vào ban đêm và những ngày tối trời vời cường độ 5 – 10
Lux hoặc 2-4 W/m
2
nền chuồng.
16. Độ ẩm trong chuồng tốt nhất là 65 – 70% và độ thông khí với tốc độ gió 0,2 –
0,3m/giây.
17. Trong hai tuần đầu gièm che phải đóng kín cả ngày, đêm để tránh gió lùa, từ tuấn
thứ ba trở đi chỉ đóng rèm phía có gió và mở rèm phía không có gío, việc đóng mở rèm còn
phụ thuộc vào thời tiết và sức khoẻ của đàn gà.
18. Loại bỏ dăm bào bị ướt, rắc vôi bột và thay dần dăm bào mới, thường xuyên theo
dõi đàn gà, loại thải ngay những khi gà chết, ốm yếu và bị khuyết tật như xã cánh, mù mắt,
vẹo mỏ, khèo chân….
Cắt mỏ gà là động tác kỹ thuật không thể thiếu khi nuôi gà đẻ trứng nhằm ngăn chặn hiện
tượng mổ cắn nhau khi trời nóng, chuồng chật… ngoài ra, còn có tác dụng giảm rơi vãi thức
ăn 5 %
Kỹ thuật cắt:
Cắt mỏ 2 lần, vào lúc 1 tuần và 2 tháng tuổi là tốt nhất.
Trước và sau khi cắt mỏ 2-3 ngày, nên cho uống vitamin K, C với liều 3-5 g/l nước. Sau khi
cắt xong, bổ sung thêm kháng sinh: tetracyclin 1g/l nước trong 4-6 ngày.
Cắt mỏ gà bằng dụng cụ chuyên dùng, với gà 1 tuần tuổi, đưa cả mỏ trên và dưới qua lỗ để cắt
đồng thời, bằng nhau, cách lỗ mũi gà không dưới 2 mm. Gà 2 tháng, cắt mỏ trên ở vị trí cách
lỗ mũi không dưới 6 mm, mỏ dưới để dài hơn mỏ trên 3 mm. Cả 2 vết cắt đều vuông góc với
trục mỏ. Cũng có thể xác định vị trí cắt mỏ trên nằm giữa lỗ mũi và chóp mỏ. Sau khi cắt mỏ,
cho gà ăn tự do trong 1 tuần, máng đổ đầy thưc ăn hơn để mỏ không chạm vào thành máng.

2.7.3.2. Kỹ thuật chăn nuôi gà con giai đoạn 4 – 8 tuần tuổi
1. Kể từ tuần thứ tư trở đi, rèm che mở hoàn toàn, trừ thời tiết xấu như trời giông,
bão, mưa to, quá lạnh và đàn gà bị bệnh đường hô hấp….
2. Mât độ máng uống theo tiêu chuẩn sau .

Loại máng uống Cm/gà Con/máng

119

Máng dài tự động Không quá 1,27 Không quá 200
Máng dài thủ công Không quá 2,75 Không quá 112
Máng uống dài phải có thanh trượt (thanh quay cạnh khế) hoặc dùng chụp bằng song
sắt
Φ
6 đặt trên rãnh thoát nước để ngăn gà đậu trên máng.
3. Mật độ máng ăn cho gà theo tiêu chuẩn sau.
Loại máng ăn cho gà theo tiêu chuẩn sau:
Loại máng ăn Cm/gà Con/máng.
Máng tròn P50 2,7 30
Lượng thức ăn được đổ vào bằng 2/3 chiều cao của đĩa máng, đổ và lắc thức ăn 3 – 4
lần trong ngày. Vệ sinh máng ăn theo quy trình thú y.
4. Phải đảm vào đủ số lượng và chất lượng theo đúng tiêu chuẩn
5. Sang tuần thứ 5 trở đi bổ sung thêm sỏi đã được sát trùng (sỏi có kích thước 2 – 3
mm) với lượng 4g/1gà/ngày)
6. Thời gian chiếu sáng nhân tạo tăng hoặc giảm theo mùa vụ nuôi.

2.7.3.3. Kỹ thuật nuôi dưỡng gà hậu bị từ 43 hoặc 50 ngày đến 140 ngày tuổi.
1. Rèm che được sử dụng như ở giai đoạn gà con ừ 4 – 6 tuần tuổi.
2. Mật độ máng uống cho gà trong giai đoạn này đảm bảo như sau:
Loại máng uống cm/gà Con/máng.
Máng dài tự động 1,27 245
Máng dài tự động Không quá 1,27 Không quá 245
Máng dài tự động Không quá 2,85 Không quá 110
Máng uống được vệ sinh hàng ngày theo quy trình thú y.
4. Mật độ máng ăn của gà được đảm bảo theo tiêu chuẩn như sau.

Loại máng ăn Cm/gà con/máng.
Máng tròn P50 Không quá 3,4 Không quá 25
Thường xuyên bổ xung máng ăn để lúc nào gà cũng có đủ chỗ để ăn cùng lúc. Đặt
máng ăn cao bằng lưng gà, lượng thức ăn trong máng không quá 2/3 chiều cao máng, cho gà
ăn 1 – 2 lần /ngày. Sử dụng thức ăn hậu bị, khẩu phần áp dụng theo tiêu chuẩn.
5. Giai đoạn gà hậu bị cho ăn hạn chế theo trương trình cho từng dòng, giống cụ thể.
6. Hàng tuần bổ xung sỏi một lần với liều lượng 7gam/gà, kích thước của hạt 4 – 5
mm, sỏi được sát trùng trước khi bổ xung.
7. Áp dụng hoàn toàn ánh sáng tự nhiên, nếu dùng ánh sáng nhân tạo thì chiếu sáng
với mức 2 – 4 W /m
2
, không dùng loại bóng đèn 100W trở lên.
8. Hàng ngày nhặt lông trong chuồng và bãi chăn thả.
9. Không để gà ở ô này lẫn sang ô khác, phải theo dõi hàng ngày số chân và số cánh,
nếu rơi phải nhặt ngay và ghi vào biểu theo dõi.
Xác định độ đồng đều:
Độ đồng đều có vai trò rất quan trọng trong nuôi dưỡng gà hậu bị. Độ đồng đều càng cao thì
gà sẽ đẻ càng tốt và ngược lại. Hàng tháng phải xác định độ đồng đều. Cách làm:
1- Bắt ngẫu nhiên một nhóm gà với số lượng 1-5 % số gà trong đàn (tuỳ quy mô đàn
lớn hay nhỏ) và cân cả lô này trong 1 lần cân.
2-Chia khối lượng trên cho số đầu gà trong mẫu cân đó để tìm khối lượng bình quân.
Tạm gọi đây là khối lượng trung bình (PTB).
Khoảng khối lượng [(PTB – 5%) đến (PTB + 5%)] được gọi là khoảng đồng đều
(khoảng đồng đều cũng có thể là PTB ± 10 % )
3-Cân lần lượt từng con trong toàn đàn và ghi lại khối lượng từng con. Những gà có
khối lượng nằm trong khoảng đồng đều được coi là đạt khối lượng chuẩn.
4-Tính tỷ lệ toàn đàn: nếu toàn đàn có trên 80 % cá thể có khối lượng nằm trong
khoảng đồng đều là tốt, chế độ chăn nuôi đạt yêu cầu.
Formatted: Condensed by 0.3 pt


120

5-Chia đàn gà làm 3 nhóm: to, trung bình và nhỏ , cho ăn như nhau, sau một thời gian
các nhóm gà sẽ có khối lượng trở về khối lượng trung bình.
Cũng cần so sánh khối lượng trung bình nói trên với khối lượng chuẩn của hãnh cung
cấp để cho gà ăn thích hợp. Cần hết sức tránh để đàn gà có khối lượng cao hơn khối lượng
chuẩn và trong mọi trường hợp, không được để đàn gà sút cân, nghĩa là, trong mọi trường
hợp, đàn gà phải có tăng trọng dương (>0)

2.7.3.4. Gà hậu bị được chuyển lên trại gà đẻ lúc 126 – 140 ngày tuổi
1. Gà hậu bị được chuyển lên trại gà đẻ lú 126 – 140 ngày tuổi (18 – 20 tuần tuổi1) gà
mái được chuyển lên trước, gà trống chuyển lên sau.
2. Chuyển gà vào lúc thời tiết mát mẻ, trứơc khi chuyển không cho gà ăn, không
chuyển gà khi bị bệnh.
3. Khi bắt chuyển, thao tác phải nhẹ nhàng, dùng quây để bắt gà, số gà trong quây
không nhiều để tránh đè lên nhau gây chết.
4. Lồng nhốt phải có nắp đậy.
Số lượng gà trong lồng theo quy định sau
Loại gà Diện tích lồng (m
2
/con)
Gà trống 0,096
Gà mái 0,076
Gà sau khi cho vào lồng, phải chuyển ngay đến khu gà đẻ.
5. Các xe, lồng để vận chuyển phải sát trùng, lồng được đặt trên xe phải buộc chắc
chắn, không xếp quá số lồng. Quy trình vận chuyển: đi tốc độ trung bình và đỗ xuống cạnh
chuồng gà đẻ.
6. Thức ăn gà đẻ được áp dụng lúc gà ở 149 ngày tuổi. Thức ăn gà đẻ được cho ăn
theo tỷ lệ đẻ của đàn gà hướng dẫn tỷ lệ đẻ cho đến đạt đỉnh cao.
7. Thức ăn luôn có trong máng và đạt 2/3 chiều cao của máng, và lắc đảo 2 - 3 lần

trong ngày, máng ăn hàng ngày được lau chùi sạch. Mật độ máng ăn P50: 7,9cm/gà;
17gà/máng. Cứ 100 gà đẻ cho một máng bổ sung sỏi.
8. Máng uống đặt trên thoát nước, mặt trên phủ lưới thưa, hoặc khung tre hay sắt hoặc
dùng chụp bằng song sắt
Φ
6 để tránh gà lội vào máng. Khoảng cách giữa hai máng là 3 mét.
Tiêu chuẩn mật độ máng như sau:
Loại máng uống cm/gà Con/máng
Máng dài Không quá 4,6 Không quá 70
Máng tròn tự động Không quá 3.7 Không quá 50
9. Gà sinh sản được chia thành từng ô, mỗi ô 350 con, mật độ nuôi từ 2,5 – 3,0con/m
2

10. Sào đậu đựơc dặt cao hơn nền chuồng 40cm, dàn sào được đặt ở góc chuồng có
xây thành ngăn, tiêu chuẩn sào đậu 20cm/gà, dàn sào đậu được vệ sinh sát trùng theo quy
trình thú y.
11. Ổ đẻ được đặt cạnh tường chuồng với độ cao thích hợp ( 30-35cm) ổ được dải dăm
bào và sát trùng. Mật độ không quá 5 gà /1 ngăn ổ, ổ đẻ có cửa sập tự động để kiểm tra sức
đẻ trứng cá thể.
12. Khi gà để phải kiểm ta tối thiểu 4 lần /ngày, trứng được ghi rõ tên dòng, số mái, số
ô chuồng và ngày đẻ rồi ghi vào biểu Theo dõi kiểm tra trứng. Loại thải kịp thời những gà có
tính ấp bóng, gà trống quá béo, lười đạp mái.
13. Phải đảm bảo thời gian chiếu sáng từ 14 – 16 giờ. Cường độ chiếu sáng từ 5 – 10
lux, khoảng cách bóng đèn 3m/1 bóng đối với công suất 25 – 60W tuỳ theo mùa vụ để điều
chỉnh hợp lý.
14. Chuồng nuôi để thông thoáng, chỉ đóng kín khi thời tiết xấu, mưa, gió bão, ẩm độ
tốt nhất là 65 – 70%; tốc độ gió 0,6 – 0,8m/giây.
15. Chất độn chuồng phải giữ khô, sạch thường xuyên
Formatted: Font: 11 pt


121

16. Mỗi ô chuồng nuôi phải có sổ sách ghi chép theo dõi đàn gà hàng ngày theo biểu
mẫu quy định.
17. Phải thực hiện đầy đủ những công việc hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng và hàng
quý như sau:
- Công việc hàng ngày.
+ Thay chất sát trùng ở các hố hoặc khay sát trùng trước cửa chuồng nuôi.
+ Quan sát đàn gà, nhặt trứng trên nền, trong sào đậu, nhặt xác chết cho vào thùng có
nắp kín và giao cho cán bộ thú y xử lý.
+ Lau máng ăn và đổ thức ăn vào máng theo quy định.
+ Rửa, sát trùng máng uống và đổ nước sạch vào máng, hót dăm bào bị ướt ở nền
chuồng, rắc vôi bột, sau đó đổ răm bào mới, quét dọn đường đi xung quanh chuồng.
+ Báo cáo tình hình diễn biến đàn gà cho các cán bộ kỹ thuật, thú y biết khi có bbát
thướng sảy ra.
+ Quét dọn sạch kho đựng thức ăn ở mỗi chuồng.
+ Rửa sạch, phơi dụng cụ chăn nuôi vừa dùng, sau đó cho vào kho.
+ Ghi chép đầy đủ những số liệu chăn nuôi theo yêu cầu của biểu mẫu.
+ Trước khi ra về hoặc giao ca, phải kiểm tra lại lượng thức ăn, nước uống, trang thiết
bị chăn nuôi, tình trạng đàn gà để bàn giao cho ca sau.
- Công việc hàng tuần.
+ Quét mạng nhện ở lướt thép.
+ Lau chùi ổ đẻ.
+ Cạo phân, phun thuốc sát trùng vào sào đậu.
+ Rửa và sát trùng máng ăn.
+ Quét bụi và phun thuốc sát trùng hoặc quét nước vôi trong nhà kho của từng kho,
từng dãy chuồng và hiên của chuồng gà.
+ Quét dọn, dãy cỏ khu vực cách chuồng 3 mét
+ Thay dăm bào vào ổ đẻ 1 – 2 lần
+ Cọ rửa bể nước của từng chuồng.

- Công việc hàng tháng.
+ Phát quang cỏ dại xung quanh chuồng.
+ Cọ rửa bể nước phụ.
- Công việc hàng quý.
+ Cọ rửa, sát trùng đài nước hoặc bể chứa của trại.
18. Cứ hai tuần cân khối lượng gà một lần, cân 10% số lượng gà của từng lô, cân
khối lượng trứng vào tuần tuổi 36 – 37 theo qui trình chọn lọc giống.

2.7.4. Vệ sinh phòng bệnh
1. Mỗi cơ sở phải có vành đai cách ly bao gồm.
- Vành đai trắng có bán kính 500 – 1000 mét. Trong khu vực này không chăn nuôi gia
cầm khác ngoài số gia cầm nuôi trong trại.
- Vành đai an toàn có bán kính 3 – 5km. Gia cầm trong khu vực này đựơc tiêm phòng
chống Newcastle theo định kỳ.
2. Hàng rào vây quanh phải kín, người và gia súc không được vào trong vực rào.
3. Cổng ra vào phải được đóng kín, có hố sát trùng bằng dung dịch crêzin 3%
+ Hố sát trùng cho xe vận chuyển
+ Hố sát trùng cho người qua lại.
4. Trước lúc vào làm việc phải tắm và thay quần áo, dày dép nhúng vào khay sát trùng
và rửa tay bàng dung dịch desinfectol 0,2% hoặc foormol 1%.
+ Trước các nhà gà và các ô chuồng gà phải có hố sát trùng bằng dung dịch crêzin 3%.

122

+ Sát trùng vào sào đậu, ổ đẻ, chất dộn chuồng một tuần 1 lần, luân phiên bằng thuốc
Dipterex và foormol 2%/
5. Quét nước vôi nồng độ 20% lên trường lửng và bệ hố thoát nước máng uống 1 tuần
1 lân.
6. Quần áo bảo hộ lao động được giặt sạch vào xông trước khi sử dụng bằng foormol
35 cm và thuốc tím 17,5g cho 1m

3
không khí của buồng xông sát trùng.
7. Đặt mồi diệt chuột hàng quý theo hướng dẫn của thú y.
8. Nước uống phải sạch trong, được sát trùng bằng clo với nồng độ 0,1- 0,15 mg/lít, số
vi khuẩn không quá 100.000 con /1ml, chỉ số E.coli không quá 30 cm /ml.
9. Máng uống phải được sát trùng hàng ngày bằng foormol 1%.
10. Hàng tháng cọ rửa và sát trùng bể nước phụ bằng foormol 1%, lấy mẫu nước để
kiểm tra vi khuẩn.
11. Hàng quý cọ rửa và sát trùng bể nước chính bằng desinfectol 0,2% hay foormol
1%, lấy mẫu nước để kiểm tra vi khuẩn.
12. Thức ăn của gà phải sạch, tươi không bị vón cục.
13. Hai tuần một lần, diệt ngoại ký sinh trùng bằng Dipterex 0,6% phun vào tường,
nền và các lối đi vào cửa cho kho thức ăn.
14. Sát trùng máng ăn một tuần một lần bằng foorml 1%.
15. Khi nghi ngờ gà bị ngộ độc thức ăn thì phải đình chỉ ngay việc sử dụng lô thức ăn
đó và báo cáo cho cán bộ thú y biết để có biện pháp xử lý kịp thời.
16. Loại thải ngay những gà ốm yếu và gà nghi bị bệnh.
17. Gà giống xuất khỏi chuồng phải có giấy chứng nhận sức khoẻ và lịch dùng thuốc.
18. Gà chết và bị bệnh hàng ngày phải được mổ khám ngay để xác định bệnh kịp thời

2.8. Công tác thú y

Bảng 33. Lịch tiêm phòng cho đàn gà đẻ trứng
Ngày tuổi Thuốc và vacxin Cách dùng
Trạm ấp Marec-HVT-FC chủng 126 Tiêm cơ
1 - 3
Phòng bệnh hô hấp:Farmasin 1g/1l H
2
0+vitamin bổ
xung

Uống
7
vacxin đậu C
lasota lần 1
Chủng cánh
Nhỏ mắt, mũi, miệng
7 - 10
Phòng bệnh t.hoá: Nitrofurazolidon 125 g/1tấn hay
cloramfenicol 0,5 g/1lít nứơc
Trộn vào TĂ, nước uống

10 vacxin gumboro CT hoặc D78 vào lúc 14 ngày Theo chỉ dẫn
21 Lasota lần 2 nt
25 Vacxin Gumboro - CT nt
27 - 28 Parmasin 1g/ 1lít nước Uống
35 Vacxin cúm gà Tiêm
35 – 39
Thức ăn tăng sức đề kháng
Tetracilin 200g
Nitrofurazonlidon 150g/1 tấn thức ăn
Vitamin bổ sung
Kiểm tra HI
Kiểm tra bạch lỵ - CRD

Trộn vào thức ăn
50
Tiêm Newcastle hệ I
Kiểm tra hàm lượng kháng thể HI
Tiêm dưới da
70 Vacxin cúm gà Tiêm

80 - 81 Farmasin 1g/1lít nước Pha trong nước
Formatted: Level 1
Formatted: Font: 16 pt
Formatted: Font: 16 pt

123

112
Farmasin 1g/1lít nước
Chủng đậu lần II
Kiểm tra ký sinh trùng
- Nếu có KST thì dùng:
Piperazin 4500 gam
Bromosalíibamid 900g/tấn
- Nhắc lại phương thức tẩy này
Nếu kiểm tra thấy KST - cứ sau 25 ngày.
- Kiểm tra bạch lỵ - CRD

112 - 140
Tiêm vacxin vô hoạt
Gumboro
Tiêm dưới da
138 - 142
- Thức ăn tăng sức đề kháng
Tetracicline 250
Nitrofurazolidon 200g/1tấn
Vitamin bổ sung
- Tiêm Newcastle hệ I



Trộn vào thức ăn


Một số công tác đảm bảo an toàn sinh học (bio-security)
Tổ chức Thú y thế giới đã quy định, để đảm bảo an toàn sinh học, cần phải làm tốt một
số công việc sau:
Phương châm:
“Nghi ngờ tất cả”
Nên phải “đề phòng tất cả”
Thiết kế chuồng trại: xa dân cư ít nhất 300m, nhất là các trại khác. Trại phải có 1
cổng, có barie, tường hoặc rào xung quanh. Có hố sát trùng ở cổng trong đó thường xuyên có
thuốc sát trùng hay vôi bột.
•Tuyệt đối không nuôi lẫn gà với các động vật khác: gà ri thả vườn, chó, mèo, chim bồ
câu…
Thường xuyên, định kỳ 3 tháng một lần đánh bả chuột, phun thuốc diệt dán, côn trùng,
muỗi
Khi mua đàn gia cầm mới
Chỉ mua từ cơ sở giống có danh tiếng và có trách nhiệm.
Có hợp đồng mua bán có xác nhận nhận là đàn giống sạch bệnh, đã được tiêm phòng
đầy đủ
Đàn gia cầm mua đã được tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin phòng các bệnh phổ
biến nhất.
Cách ly tốt
•Dụng cụ chuyên chở con giống và sản phẩm: xe chỉ được đi 1 chiều, sau đó phải
phun thuốc khử trùng triệt để, cho cả xe và dụng cụ trên xe.
•Không được đưa các dụng cụ, vật dụng và thiết bị từ bên ngoài vào trại
•Nhân lực: công nhân không được đi chợ, thăm người nhà trong quá trình làm việc,
nhất là không được tiếp xúc với các trang trại chăn nuôi khác
•Không tiếp xúc với bên ngoài
Không tiếp khách và công nhân của trại khác.

Chỉ cho khách vào trại khi cần thiết, khách không được có mặt tại trại khác trong vòng
24h. Trước khi vào trại phải được tắm vô trùng cưỡng bức toàn thân.
•Nguồn nước, thức ăn chăn nuôi, không khí phải sạch và đảm bảo vô trùng.
•Cùng loại hình chăn nuôi: Chỉ nuôi 1 loại gia cầm; Áp dụng cùng lứa, cùng vào –
cùng ra cho từng dãy chuồng để có thời gian vô trùng, diệt mầm bệnh lây lan. Sau mỗi lứa,
cần có thời gian trống chuồng ít nhất 7 ngày để tẩy uế, vệ sinh toàn hệ thống và khu vực
•Quản lý về chất độn chuồng: ủ trước khi bán hay bón ruộng.

124

Sau mỗi lần xuất chuồng, vệ sinh và tẩy trùng toàn bộ chuồng nuôi.
Giám sát về thú y
•Kiểm tra tại chuồng: 2 lần/ngày, nhất là vào ban đêm (khi không gian yên tĩnh, dễ
phát hiện các triệu chứng ho, hen của đàn gà )
Cần chú ý: khi thấy tỷ lệ chết >1% mỗi ngày hoặc giảm đột ngột lượng thức ăn >20% là
gà đã có biểu hiện bất thường, cần khám ngay để đối phó kịp thời.
•Nơi có nguy cơ cao phải có mái che vào ban đêm
•Cho ăn và cho uống trong chuồng, tránh để chim hoang, chuột ăn thức ăn thừa,
truyền bệnh.
Đánh giá Chi phí/Lợi ích: Nghiên cứu ở Ý cho biết, các trại gà giò giống hướng thịt có tỷ lệ
chi phí/lợi ích: 1/49
Kết luận: phòng bệnh là biện pháp ít tốn kém hơn điều trị và hiệu quả cao nhất




Formatted: Level 1

×