Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

CHƯƠNG 3 PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.25 KB, 54 trang )

CHƯƠNG 3
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH

3.1 TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG
Luật hợp đồng ở Việt nam hiện nay nằm rải rác trong nhiều văn bản có giá trị pháp lý
cao thấp khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung trong 3 văn bản pháp luật sau: i) Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế 1989 (nội dung của văn bản này tuy đã từng bước quay trở lại với tự do
khế ước song vẫn chứa đựng nhiều dấu ấn nặng nề của cơ chế cũ), ii) Bộ luật dân sự 1995,
iii) Luật thương mại 2005. Theo thuyết về luật chung và luật riêng, có thể xem các quy định
chung về hợp đồng được quy định từ điều 394 đến 420 BLDS là luật chung cho tất cả các
loại hợp đồng, Dựa trên các quy định chung đó, BLDS và các văn bản pháp luật khác quy
định riêng cho các hợp đồng chuyên biệt. Và khi áp dụng luật, thì các quy định riêng sẽ
được ưu tiên áp dụng trước, nếu thiếu các quy định đó, thì áp dụng các quy định chung được
ghi nhận trong BLDS. Với một cách tiếp cận như vậy, phần viết dưới đây giới thiệu những
nguyên lý chung của pháp luật hợp đồng.
3.1.1 Khái niệm hợp đồng
Chúng ta định nghĩa: hợp đồng là sự thoả thuận giữa hai hay nhiều người nhằm mục
đích tạo lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ. Một định nghĩa đơn giản và đầy đủ: một hợp đồng
là một thoả thuận có tính ràng buộc và hiệu lực pháp lý.
Trước nhất hợp đồng là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí của con người làm
phát sinh các hệ quả pháp lý. Hợp đồng là loại hành vi pháp lý cơ bản và thông dụng nhất.
Hợp đồng là một hành vi pháp lý, hơn thế nữa đó là một hành vi pháp lý đặc biệt: sự thoả
thuận giữa các đương sự. Sự thoả hiệp giữa các ý chí, sự ưng thuận giữa các bên là yếu tố
quan trọng nhất của hợp đồng. Cơ sở của hợp đồng là sự thống nhất của các ý chí tự do
nhưng ý chí này phải phù hợp với ý chí của nhà nước, phù hợp với pháp luật. Nói cách khác
ý chí của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong hợp đồng, nhưng ý chí đó không tuyệt đối vì
không thể trái với lợi ích chung của xã hội và trong những trường hợp đặc biệt ý chí đó phải
nhường bước cho lợi ích chung.
Khi sự thống nhất của các ý chí là thực chất và không trái pháp luật thì nó sẽ làm
phát sinh các nghĩa vụ. Nghĩa vụ này ràng buộc các bên như luật pháp. Nói cách khác hiệu
lực của hợp đồng là tạo lập, biến đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ. Một hợp đồng được thành


lập hợp pháp có giá trị ràng buộc đối với các bên. Bản thân hợp đồng không phải là luật
pháp, nhưng hợp đồng được thành lập theo luật pháp thì nó sẽ phát sinh hiệu lực pháp lý
giữa các đương sự. Đây là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng được cả thế giới
thừa nhận.
3.1.2 Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 41


 Điều kiện về mục đích của thoả thuận: Mục đích của bản thoả thuận có hợp pháp
không?
- Thoả thuận làm những việc bất hợp pháp không được công nhận có hiệu lực theo bất kỳ hệ
thống pháp luật nào. Nói một cách khác nếu mục đích của thoả thuận đi ngược lại với luật
pháp thì thoả thuận đó không có hiệu lực pháp lý.
 Điều kiện về sự tự nguyện: Các bên đã thực sự đồng ý?
- Sự thoả thuận là một điều kiện cốt yếu của hợp đồng, nhưng sự thoả thuận ấy phải hữu
hiệu, tức là không bị khiếm khuyết, nếu không thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực. Đó là hệ
quả tất yếu của nguyên tắc tự do ý chí. Hầu hết các hệ thống pháp luật đều dự liệu ba khiếm
khuyết của sự thoả thuận là nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ.
+ Nhầm lẫn: là tình trạng một hoặc các bên chủ thể đã đánh giá sai (hình dung sai) về
thực tại khách quan.
+ Lừa dối: là việc một bên có những thủ đoạn gian dối đối với bên kia, dẫn đến việc
bên đó tham gia giao kết hợp đồng. Lừa dối ngăn cản sự thống nhất ý chí, bởi vậy, một
thoả thuận dựa trên cơ sở lừa dối thì không có hiệu lực.
+ Đe doạ: là hành vi trái pháp luật của một bên hoặc người thứ ba tác động vào ý chí
của bên kia làm cho người đó lo sợ sắp phải chịu thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng của
mình hoặc người thân và miễn cưỡng giao kết hợp đồng.
 Điều kiện về chủ thể: Cả hai bên có đủ năng lực để giao kết hợp đồng không?
- Câu hỏi này đưa chúng ta đến một điều kiện để thoả thuận có hiệu lực đó là điều kiện về
chủ thể: các bên trong hợp đồng phải có đủ năng lực, thẩm quyền để giao kết hợp đồng.
+ Đối với cá nhân: pháp luật của các nước đều quy định: việc giao kết với người chưa

thành niên thì không có hiệu lực. Tương tự như vậy, một người tâm thần, mất trí
không thể giao kết một hợp đồng có hiệu lực, hay như ở một số nước, người say rượu,
nghiện ma tuý không thể giao kết hợp đồng.
+ Đối với pháp nhân. Chúng ta có hai trường hợp:
(i) Trường hợp 1: thoả thuận không có hiệu lực do pháp nhân xác lập không phù
hợp với mục đích hoạt động của pháp nhân.
(ii) Trường hợp 2: Thoả thuận vô hiệu do người đại diện của pháp nhân không có
đủ thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền.
 Điều kiện về hình thức của thoả thuận: Thoả thuận có được thể hiện dưới hình thức
luật định không?
- Hình thức của hợp đồng cũng được xác định là một trong các điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng. Khi hợp đồng không tuân thủ các quy định về hình thức (không thể hiện bằng văn
bản, không được công chứng nhà nước chứng nhận, không được chứng thực, đăng ký hoặc
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 42


cho phép) trong thực tế sẽ rơi vào một tình trạng lưỡng cực: hoặc có thể trở thành có hiệu
lực nếu lỗi hình thức được sửa chữa, hoặc sẽ vô hiệu nếu lỗi hình thức không được sửa chữa
(điều 139 BLDS).
Hợp đồng vô hiệu
- Một hợp đồng vô hiệu là một hợp đồng không tồn tại theo luật, không có giá trị pháp lý,
không có giá trị bắt buộc thực hiện, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với các bên
tham gia hợp đồng từ thời điểm xác lập do có vi phạm pháp luật hoặc không thể hiện ý chí
đích thực của các bên giao kết.
- Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.
(1) Hợp đồng bị huỷ bỏ
(2) Sự huỷ bỏ có hiệu lực hồi tố: Đối với trường hợp hợp đồng chưa được thực hiện thì
các bên không được thi hành. Đối với trường hợp hợp đồng đã được thực hiện thì: i)
các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; ii) bên có lỗi gây hiệt hại phải bồi
thường.

(3) Trong một số trường hợp nhất định, tài sản hoa lợi bị tịch thu sung công quỹ.
(4) Việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu không thể làm thiệt hại tới
quyền lợi của người thứ ba ngay tình
3.1.3 Giao kết hợp đồng
- Giao kết hợp đồng được hiểu như là một thời điểm mà tại thời điểm đó sự thống nhất ý chí
của các bên đã diễn ra. Giao kết hợp đồng được diễn ra như sau: một bên đưa ra một văn kiện
chào hàng gọi là bên chào hàng, bên kia chấp nhận văn kiện chào hàng gọi là bên được chào hàng.
Chỉ khi nào hai bên đã thoả thuận thì hợp đồng mới được thành lập và có hiệu lực từ thời điểm giao
kết. Người ta nói đến sự kiện này bằng một sơ đồ sau










Hình 3.1. Quá trình giao kết hợp đồng

Chào hàng
Chấp nhận chào hàng
Bên chào hàng Bên được chào hàng
+



Sự thành lập hợp đồng


Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 43


3.1.3.1 Sự chào hàng (sự đề nghị)
- Định nghĩa: sự chào hàng là một sự đề nghị giao kết hợp đồng do bên chào hàng đưa ra
cho bên được chào hàng. Việc chào hàng có thể do người bán (chào bán) hoặc người mua
tiến hành (chào mua).
- Sự chào hàng cần phải rõ ràng, chính xác.
- Chào hàng phải được chuyển đến cho một hay nhiều người xác định.
- Thời gian hiệu lực của chào hàng. Mỗi sự chào hàng đều phải có thời gian hiệu lực của
nó. Đối với người chào hàng thời gian đó là thời gian bị ràng buộc, nghĩa là nếu trong
khoảng thời gian này mà người được chào hàng chấp nhận thì người chào hàng phải tuân
theo các điều kiện đã được quy định trong văn kiện chào hàng. Đối với người được chào
hàng, thời gian này là thời gian để chấp nhận hay không. Cách xác định thời gian hiệu lực
của chào hàng.
+ Căn cứ vào thông lệ thương mại quốc tế, có mấy quy tắc sau (các nguyên tắc trên đã
được tập quán thương mại, công ước quốc tế về mua bán hàng hoá thừa nhận) : i) Nếu
người chào hàng đã quy định một thời gian cụ thể trong chào hàng thì thời gian này
chính là thời hiệu của chào hàng. ii) Nếu người chào hàng chưa quy định về thời gian
cụ thể thì nó sẽ có hiệu lực trong thời gian hợp lý, không thể được quyết định một cách
thuần lý mà phải căn cứ vào các yếu tố cụ thể chính yếu sau: a) đặc điểm của thoả
thuận; b) đặc điểm của thương phẩm; c) thông lệ ngành nghề; d) phương thức truyền
đạt của sự chào hàng
+ Luật thương mại Việt nam (khoản 1 điều 53): Trong trường hợp thời hạn chấp nhận
chào hàng không được xác định, thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng là 30
ngày, kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng.
- Người chào hàng có thể thay đổi, rút lại chào hàng nếu: i) chào hàng nêu rõ điều kiện
được thay đổi, ii) người được chào hàng chưa nhận được chào hàng.
- Sự mất hiệu lực của chào hàng: chào hàng không còn hiệu lực trong các trường hợp sau:
+ Quá hạn: nếu người được chào hàng chưa chấp nhận trong khoảng thời hiệu thì sau

khi hết hạn thời hiệu đó, sự chào hàng ấy hết hiệu lực.
+ Người chào hàng chết hoặc bị giải thể trước khi chào hàng được chấp nhận.
+ Từ chối: nếu người được chào hàng bày tỏ sự từ chối thì việc chào hàng này sẽ
không còn hiệu lực nữa, và người chào hàng không bị ràng buộc gì.
+ Sự chào hàng ngược: Chào hàng ngược là công việc của người được chào thêm bớt
các điều kiện do người chào hàng đưa ra: giá hàng, phương thức thanh toán, thời hạn
thanh toán và các điều kiện giao dịch khác. Nếu người chào hàng không chấp nhận
chào hàng ngược và không muốn tiếp tục cuộc đàm phán, việc chào hàng ấy coi như
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 44


không còn hiệu lực ngay từ khi người chào hàng nhận được chào hàng ngược, cho dù
thời hiệu vẫn còn. Nếu chào hàng ngược được người chào chấp nhận (sự chấp nhận
này được coi là một sự chào giá mới) qua một xác nhận chính thức thì hợp đồng vẫn
có thể được thành lập một cách có hiệu lực.
3.1.3.2 Sự chấp nhận
- Định nghĩa: chấp nhận chào hàng có thể làm phát được tiến hành thông qua lời nói, văn
bản hoặc hành vi cụ thể của người được chào hàng nhằm thông báo cho bên chào hàng về
việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng.
- Sự chấp nhận buộc phải là vô điều kiện. Chấp nhận là sự đồng ý với việc chào hàng, trên
tinh thần không có điều kiện "dự phòng", nghĩa là sự chấp nhận đó được coi là phải hoàn
toàn nhất trí với nội dung của sự chào hàng. Ngược lại, sự chấp nhận bao gồm những điều
kiện không giống với điều kiện của chào hàng hoặc có thêm một số điều kiện mới thì đây là
sự chấp nhận có điều kiện (sự chào hàng ngược). Về nguyên tắc, sự chấp nhận có điều kiên
này sẽ làm cho việc chào hàng mất hiệu lực, bên chào hàng có quyền từ chối.
- Sự chấp nhận chào hàng phải được chuyển đến tay người chào hàng thì hợp đồng mới
được coi là đã xác lập.
- Sự chấp nhận phải thực hiện khi thời hiệu của sự chào hàng vẫn còn.
3.1.4 Nội dung của hợp đồng
3.1.4.1 Những gì thuộc về hợp đồng

Một hợp đồng có thể bao gồm:
- Nội dung của thoả thuận.
- Một số phụ lục: là một phần của hợp đồng nhưng được tách riêng khỏi các điều khoản
về quyền và nghĩa vụ của các bên. Phụ lục thường được gắn vào hợp đồng với một cách
diễn đạt tương tự như sau: “Tổng đài điện thoại phải qua một chương trình kiểm tra nêu
trong phụ lục D của hợp đồng. Khi chương trình kiểm tra được hoàn thành tốt, các bên sẽ
lập giấy Chứng nhận có chữ ký của hai bên. Mẫu giấy chứng nhận nằm trong phụ lục E của
hợp đồng”.
- Một số tài liệu chuẩn: ngoài phụ lục có chứa nội dung do các bên lập ra, một hợp đồng
đôi khi còn có thể đề cập đến các tài liệu quốc tế chuẩn. Một ví dụ điển hình là
INCOTERMS. Cuốn sách này được phòng thương mại quốc tế (ICC) xuất bản tại Paris, giải
thích chi tiết các thuật ngữ theo cách hiểu của ICC như "ex work" (xuất khỏi xưởng), "on
board" (trên boong tàu), CIF, FOB,…
- Một số tài liệu hợp đồng: bản vẽ thiết kế, thông báo trúng thầu, bảo lãnh thực hiện thầu,
thư uỷ quyền, …. Hầu như bất cứ tài liệu nào cũng có thể trở thành một phần của hợp đồng
nếu được liệt kê như là tài liệu của hợp đồng. Điều khoản này không chỉ đơn thuần biến các
tài liệu trở thành một phần không thể tách rời của hợp đồng mà nó còn thấy trước một vấn
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 45


đề thường xảy ra là có sự mâu thuẫn giữa các tài liệu khác nhau. Trong trường hợp có mâu
thuẫn thì bản hợp đồng có hiệu lực cao nhất. Và một điều rất quan trọng là phải biết được
thứ tự ưu tiên của các tài liệu.
Các tài liệu hợp đồng:
Các tài liệu được liệt kê dưới đây là một bộ phận không thể tách rời của hợp đồng.
Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa các tài liệu thì chúng được ưu tiên theo đúng trình tự
sau đây:
i) Thoả thuận này, bao gồm tất cả các phụ lục kèm theo.
ii) Toàn bộ tài liệu trong hồ sơ dự thầu và các tài liệu bổ sung có thể có.
iii) Bản vẽ thiết kế trong hồ sơ thầu

iv) Thông báo trúng thầu
v) Bảo lãnh thực hiện thầu,
vi) Thư uỷ quyền

3.1.4.2 Các bên tham gia hợp đồng
- Một bản hợp đồng thường là thoả thuận giữa hai bên: hai người thoả thuận về những
quyền và nghĩa vụ trong tương lai của họ đối với nhau. Các bên có thể là cá nhân hoặc pháp
nhân.




Hình 3.2 Các bên tham gia hợp đồng

Hầu hết các hợp đồng được lập giữa hai bên và về nguyên tắc, chỉ có hai bên mới có
quyền và nghĩa vụ theo như hợp đồng. Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ "các bên tham gia" này.
a) Tên của các bên
- Tên của các bên thường là tên đăng ký kinh doanh đầy đủ của công ty. Đôi khi tên công ty
đi kèm với nơi công ty đăng ký thành lập hoặc nơi đặt trụ sở. Và để tránh phải nhắc lại cái
tên dài dòng này cả trăm lần trong suốt hợp đồng, liền sau đó, người ta đưa ra một cái tên
rút gọn, ví dụ: "dưới đây được gọi là bên A", hoặc "dưới đây được gọi là nhà cung cấp",…
Cách gọi này làm cho hợp đồng trở nên ngắn gọn hơn. Nó cũng làm giảm số sai sót do đánh
máy.
- Chúng ta hãy xét ví dụ dưới đây:

Bên A
Quyền và nghĩa vụ
Bên B
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 46



Hợp đồng chuyển giao công nghệ
Giữa
Công ty Smith, Jones, Wrangle and Ironside Steamship,
một tập đoàn được thành lập và hoạt động theo luật của bang Delarware, USA
có trụ sở tại San Franscisco, Canifornia
dưới đây được gọi là "SMITH"

Vietnam Investment Construction Trading and Technology Co.Ltd
một công ty được thành lập và hoạt động theo luật của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
có trụ sở tại 12 Tràng Thi, Hà nội
dưới đây được gọi là "COMPANY"

b) Chuyển giao quyền và nghĩa vụ
- Một nguyên tắc chung là, các hợp đồng quốc tế nên quy định rõ việc chuyển nhượng
quyền và nghĩa vụ đòi hỏi sự thoả thuận của cả hai bên.
- Chúng ta hãy xem xét các ví dụ sau:
+ Ví dụ 1: Chuyển nhượng: Không một bên tham gia hợp đồng nào, khi chưa được sự
đồng ý bằng văn bản của bên kia, được quyền chuyển nhượng một phần hay toàn bộ
những quyền và nghĩa vụ trong bản hợp đồng này.
+ Ví dụ 2: Chuyển nhượng: Các bên có toàn quyền quyết định chuyển nhượng tất cả
các trách nhiệm ghi trong bản hợp đồng này.
3.1.4.3 Các điều khoản chính của hợp đồng
a) Hiệu lực hợp đồng.
- Không phải tất cả các hợp đồng đều có hiệu lực sau khi được kí kết; điều khoản hiệu lực
hợp đồng cho biết ngày các quyền và nghĩa vụ bắt đầu có hiệu lực.
- Hiệu lực hợp đồng có hai dạng: (1) Dạng thứ nhất đơn giản: hợp đồng có hiệu lực vào
ngày kí kết (hay như được gọi trong nhiều hợp đồng là ngày thực hiện). (2) Dạng thứ hai
cho phép hai ngày: ngày kí kết và ngày có hiệu lực (tức là ngày hợp đồng bắt đầu được thực
hiện trên thực tế).

b) Các định nghĩa
- Mục đích chung: các định nghĩa trong hợp đồng phục vụ hai mục đích. Thứ nhất đưa ra
một từ có thể có nhiều nghĩa và nêu lên nghĩa của từ đó được áp dụng trong hợp đồng. Mục
đích thứ hai của các định nghĩa là tránh lặp lại dài dòng.
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 47


- Có hai cách để thể hiện các định nghĩa: i) có thể thu thập tất cả các định nghĩa vào trong
một điều. ii) Một phương án khác là định nghĩa mỗi một từ khi lần đầu tiên nó xuất hiện
trong hợp đồng.
c) Sự trao đổi: hàng hoá và giá cả.





Hình 3.3 Sự trao đổi hàng hóa và giá cả

- Điều khoản về hàng hoá thường gồm các nội dung sau:
i) Tên hàng hoá: gồm tên thông thường, tên thương mại, tên khoa học (cụ thể đối với
các loại hàng hoá); tên nơi sản xuất ra nó; quy cách hàng hoá (kích cỡ, khối lượng,…);
công dụng.
ii) Phẩm chất hàng hoá: xác định phẩm chất dựa vào tài liệu kỹ thuật, hàm lượng của
một chất chính trong hàng hoá, hàng mẫu xem trước, hiện trạng hàng hoá, bằng
phương pháp mô tả,… Việc chọn phương pháp thích hợp để xác định chất lượng hàng
hoá tuỳ thuộc vào loại hàng hoá.
iii) Số lượng: quy định chính xác số lượng, quy định áng chừng, quy định trọng lượng
(trọng lượng cả bì, trọng lượng tịnh)
iv) Bao bì và ký mã hiệu:
+ Bao bì: a) chất lượng bao bì: theo tiêu chuẩn xuất khẩu phù hợp với các

phương tiện vận tải; cần quy định cụ thể: vật liệu làm bao bì, hình thức làm bao
bì, kích thước bao bì, số lượng bao bì và cấu trúc của nó, đai nẹp bao bì,…; b)
phương thức cung cấp bao bì: bên bán cung cấp bao bì cùng với việc giao hàng
cho bên mua, bên bán ứng trước bao bì để đóng gói hàng hoá nhưng khi nhận
hàng bên mua phải trả lại bao bì, bên mua gửi bao bì đến trước để đóng gói; c)
phương thức xác định giá cả bao bì: có thể được tính vào giá hàng hoặc được tính
riêng
+ Ký mã hiệu: được viết bằng sơn hoặc mực không phai, không nhoè, dễ đọc, dễ
thấy, không làm ảnh hưởng đến phẩm chất của hàng hoá. Đối với hàng hoá thông
thường, phải dùng màu đen hoặc tím; hàng hoá nguy hiểm dùng màu đỏ, hàng
hoá độc hại dùng màu cam. Bề mặt viết ký hiệu phải bào nhẵn.
Hàng hóa
(hàng hoá hay dịch vụ
được cung cấp)
Giá
(được trả khi trao đổi)
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 48


- Điều khoản về giá cả thường ngắn gọn. Thông thường nó chỉ giá của hàng hoá hay dịch
vụ cung cấp. Điều khoản giá cả thường có các nội dung sau:
i) Tiền tệ được dùng để định giá
ii) Phương pháp định giá
iii) Giảm giá hoặc chiết khấu do trả tiền sớm
iv) Giảm giá hoặc chiết khấu do mua với số lượng lớn.
d) Việc trao đổi diễn ra như thế nào: Điều khoản giao hàng và thanh toán.
- Điều khoản về hàng hoá và giá cả cân xứng nhau. Đi kèm với mỗi điều khoản này là điều
khoản chỉ phương thức: Hàng hoá được giao như thế nào, dịch vụ được thực hiện như thế
nào, giá cả được thanh toán như thế nào. Hàng hoá, giao hàng, giá cả và thanh toán; bốn
điều khoản này là trung tâm của hợp đồng.










Hình 3.4 Mối quan hệ giữa hàng hóa và giao hàng, giá cả và thanh toán

- Điều khoản giao hàng và thanh toán chặt chẽ phải được soạn thảo với ba bước. Bước
một mô tả tình huống thông thường mà hai bên thoả thuận. Bước 2 xác định những tình
huống bị coi là vi phạm hợp đồng. Bước 3 nêu hậu quả của việc vi phạm hợp đồng.





Hình 3.5 Ba bước soạn thảo điều khoản giao hàng và thanh toán

 Giao hàng và thanh toán, bước 1: tình huống mong đợi.
- Điều kiện giao hàng gồm các nội dung sau:
Hàng hoá (dùng để trao đổi) Giá cả (dùng đ
ể thanh toán trong
trao đ
ổi)

Thanh toán (giá cả được thanh
toán b

ằng ph
ương th
ức n
ào)

Giao hàng (hàng hoá được giao
như th
ế n
ào)

Bước 1: Tình huống bình
thường như dự kiến là gì?
Bước 2: Những gì bị coi là
phá huỷ tình huống thông
thường?
Bước 3: H
ậu quả của việc vi
phạm là gì?
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 49


i) Thời hạn giao hàng
ii) Địa điểm giao hàng (quy định cảng hoặc ga để giao hàng)
iii) Điều kiện giao hàng
iv) Phương thức giao hàng: quy định phương thức giao hàng về số lượng, chất lượng
(giao từng đợt, giao một lần, cho phép chuyển tải, ): xác định số lượng thực tế hàng
hoá được giao, xác định chất lượng hàng hoá.
v) Thông báo giao hàng: trước khi giao hàng: người mua thông báo cho người bán
những điều kiện cần thiết để gửi hàng hoặc chi tiết tàu đến nhận hàng. Sau khi giao
hàng: người bán phải thông báo tình hình hàng đã giao và kết quả giao hàng

- Điều kiện thanh toán: Điều khoản thanh toán gồm các nội dung sau:
i) Tiền thanh toán
ii) Thời hạn thanh toán: trả ngay, trả trước hoặc trả sau.
iii) Phương thức thanh toán: phương thức nhờ thu (Collection), tín dụng chứng từ
(Documentary Credit) (L/C), chuyển tiền (Remittance), chuyển khoản, ghi sổ (open
account)
iv) Các chứng từ thanh toán: những chứng từ cần thiết cho việc thanh toán (thường áp
dụng với L/C): vận đơn, hoá đơn thương mại, list hàng hoá, C/O, giấy chứng nhận số
lượng, phẩm chất hàng hoá,…
 Giao hàng và thanh toán, bước 2: Xác định sự vi phạm hợp đồng.
- Nguyên tắc chung là: trong điều khoản về giao hàng và thanh toán, các bên thống nhất với
nhau những trường hợp nào bị coi là vi phạm hợp đồng và những trường hợp nào không.
Thông thường thì các sự kiện bất khả kháng và trì hoãn cho phép không bị xét là vi phạm
hợp đồng.
 Giao hàng và thanh toán, bước: 3 hậu quả của việc vi phạm hợp đồng
- Ở bước 2, các bên đã xác định được các tình huống vi phạm hợp đồng. Bước 3 sẽ giải
thích hậu quả; bên vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm vật chất như thế nào?
- Bồi thường (rất phổ biến) có hai loại: (1) bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường bằng
tiền và (2) bên không vi phạm có quyền chấm dứt hợp đồng.
(1) Bồi thường bằng tiền (phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại):
+ Phạt hợp đồng: là số tiền nhất định bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm do
có hành vi vi phạm các điều khoản của hợp đồng.
+ Bồi thường thiệt hại: Đây là số tiền bồi thường cho những thiệt hại thực tế mà
công ty A phải chịu do việc giao chậm hàng.
(2) Biện pháp huỷ bỏ và chấm dứt hợp đồng (kết thúc hợp đồng)
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 50


Kết thúc hợp đồng là một giải pháp cực đoan, nhưng đôi khi đó lại là lối thoát duy
nhất. Kết thúc hợp đồng là một giải pháp đối với việc vi phạm hợp đồng, thường được

gọi là chấm dứt có lý do: điều đó có nghĩa là có một nguyên nhân nào đó dẫn đến
chấm dứt hợp đồng. Kết thúc hợp đồng sẽ dẫn đến hai khả năng: (i) Hủy bỏ hợp đồng:
tất cả sẽ quay trở lại như ban đầu, trước khi hợp đồng được ký kết hoặc (ii) Chấm dứt
hợp đồng: tất cả sẽ giữ nguyên tình trạng hiện tại, nhưng các quyền và nghĩa vụ của
các bên thì chấm dứt.
- Giới hạn trách nhiệm pháp lý. Về cơ bản có ba cách giới hạn trách nhiệm pháp lý.
(i) Thứ nhất, với điều khoản phạt hợp đồng thường có một giới hạn tối đa.
(ii) Cách thứ hai, cho thấy bên bị thiệt hại có thể tìm một giải pháp khác chứ không
phải là số tiền phạt, đặc biệt họ có thể tìm đến giải pháp chấm dứt hợp đồng hoặc đòi
bồi thường thiệt hại bằng cách đưa vụ việc ra toà án hoặc trọng tài.
(iii) Cách thứ ba nhằm giới hạn rủi ro là đưa điều khoản trách nhiệm pháp lý vào hợp
đồng. Điều khoản này đặt ra một giới hạn tổng số tiền bị đòi bồi thường theo các điều
kiện phát sinh tối đa theo hợp đồng.

Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 51


Hình 3.6. Bảng tóm tắt điều khoản hàng hoá và giá cả, giao hàng và thanh toán
Hàng hoá và giá cả, giao hàng và thanh toán, tất cả cùng với nhau làm nên phần cốt
lõi của hầu hết các loại hợp đồng. Hệ thống thuật ngữ có thay đổi theo các lĩnh vực khác
nhau, nhưng các nguyên tắc chung, như chúng tôi đã đề cập đến, vẫn không thay đổi. Sơ đồ
dưới đây sẽ chỉ rõ các điều khoản và điều kiện mà chúng ta đã thảo luận có quan hệ với
nhau như thế nào?





























Tên hàng hoá

Chất lượng
Số lượng
Bao bì, ký mã
hi
ệu

Bảo hành.

HÀNG HOÁ GIÁ CẢ
GIAO HÀNG THANH TOÁN
Chi tiết

hoá
Điều kiện
giao hàng
Thời hạn
giao hàng
bao

g
ồm

Bao
gồm

thể
Tiền tệ được dùng để
thanh toán
Bao
gồm
Tiền thanh toán
Thời gian thanh
toán
Phương th
ức thanh
toán
Chứng từ thanh
toán

-
Những trục
trặc nào trong giao
hàng bị coi là vi
phạm hợp đồng?
(ví dụ: giao hàng
kém phẩm chất,
giao hàng thiếu,
thời gian giao
hàng,…)
- Miễn trừ trách
nhiệm vật chất
-
Những trục
trặc nào trong
thanh toán bị coi là
vi phạm hợp đồng?
(ví dụ: chậm thanh
toán…)
- Miễn trừ trách
nhiệm vật chất
H
ẬU QUẢ CỦA VI PHẠM HỢP ĐỒNG L
À GÌ?

Phạt tiền Kết thúc hợp đồng
Phạt hợp
đồng
Bồi thường
thiệt hại

Huỷ bỏ hợp
đồng
Chấm dứt
hợp đồng
Giới hạn trách nhiệm pháp lý là gì?
Điều khoản giá ưu đãi
cho khách hàng

Đ
ịa điểm giao
hàng

Thông báo
giao hàng

Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 52


d) Giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp: bên mua và bên bán sẽ nỗ lực, thông qua đàm phán trực tiếp,
đàm phán không chính thức để giải quyết bằng hoà giải bất cứ mâu thuẫn, tranh chấp nào
phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng.
Song có những tranh chấp không thể giàn xếp bằng cách như vậy. Trong trường hợp
này, một "bên thứ ba" phải tham gia giải quyết. Các bên có thể lựa chọn thủ tục tranh tụng
(xét xử tại toà án hoặc thủ tụng trọng tài (phân xử tại trung tâm trọng tài). Những điểm
tương đồng và khác biệt, nhưng ưu, nhược điểm của hai hệ thống này sẽ được lý giải tại
chương 3.
Một vấn đề cơ bản trong điều khoản giải quyết tranh chấp mà chúng ta cần đề cập tới
đó là: xác định luật áp dụng. Nếu các bên không quy định luật áp dụng thì cơ quan giải
quyết tranh chấp phải lựa chọn một bộ luật phù hợp nhất.

Giải quyết tranh chấp: Tất cả các tranh chấp xuất phát liên quan đến hợp đồng được
ký kết sẽ được giải quyết bằng thủ tục trọng tài phù hợp với nguyên tắc trọng tài của Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt nam và sẽ được giải quyết theo luật Việt nam.





Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 53


Hình 3.7. BẢNG TÓM TẮT CÁC ĐIỀU KHOẢN CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG





































Hiệu lực của hợp đồng: hợp đồng này sẽ bắt đầu có hiệu lực sau khi đã được hai
bên ký kết và vào ngày bên mua mở thư tín dụng tại ngân hàng. Nếu như hợp đồng
không có hiệu lực trong vòng 90 ngày kể từ ngày ký kết thì hợp đồng không còn
hiệu lực và giá trị pháp lý.
Hiệu lực của
hợp đồng
Hiệu lực của hợp đồng: hợp đồng này sẽ bắt đầu có hiệu lực sau khi đã được hai
bên ký kết và vào ngày bên mua mở thư tín dụng tại ngân hàng. Nếu như hợp đồng
không có hiệu lực trong vòng 90 ngày kể từ ngày ký kết thì hợp đồng không còn
hiệu lực và giá trị pháp lý.
Các đ
ịnh

nghĩa
Các định nghĩa (giải thích từ ngữ): Trong hợp đồng này các từ ngữ dưới đây được
hiểu như sau:
- "Hợp đồng": có nghĩa là tất cả các điều khoản của hợp đồng, các bảng số
liệu kỹ thuật, bản vẽ, tài liệu bỏ thầu, thư thoả thuận,…
- "Ngoại tệ": có nghĩa là đồng tiền của bất cứ quốc gia nào ngoại trừ quốc gia
nơi h
ợp đồng đ
ư
ợc thực hiện…….

Hàng hóa
Điều khoản về hàng hoá:
- Tên hàng hoá, chất lượng, số lượng.
-

Đóng gói (bao b
ì),k
ỹ m
ã hi
ệu, bảo h
ành

Sự trao đổi
hàng hoá - giá cả
Giá cả
Điều khoản về giá cả:
-

Ti

ền tệ đ
ư
ợc d
ùng đ
ể tính giá, các điều khoản giảm giá
ưu đ
ãi (n
ếu có)

Đi
ều khoản
giao hàng
Điều khoản giao hàng
- Thời hạn giao hàng,
- Địa điểm giao hàng
- Phương thức, điều kiện giao hàng
- Thông báo giao hàng
Điều khoản
thanh toán
Điều khoản thanh toán
- Tiền tệ.
- Thời hạn thanh toán
- Phương thức thanh toán
-
Các chứng từ thanh toán
Việc trao đổi
diễn ra như thế
nào?

Vi ph

ạm điều
kiện giao
hàng
Điều khoản về sự vi phạm điều kiện giao hàng (giao hàng chậm)
- Nếu hàng được giao sau ngày giao hàng đã thoả thuận chậm tr
ên 10 ngày, vì
bất kỳ lý do khác không thuộc phạm vi bất khả kháng thì nhà cung cấp sẽ bị coi là
trì hoãn giao hàng (giao hàng chậm).
- Bên bán phải trả 1% giá trị hợp đồng (hoặc giá trị phần hàng bị giao chậm)
cho mỗi một tuần giao hàng chậm, song không vượt quá 10% tổng giá trị hợp
đồng.
- Nếu chậm giao hàng quá 10 tuần thì bên mua có quyền huỷ hợp đồng.
Vi ph
ạm điều
khoản thanh
toán
Điều khoản về sự vi phạm điều khoản thanh toán (chậm thanh toán)
- Nếu việc thanh toán bị trì hoãn vì những lý do ngoài phạm vi bất khả kháng
thì bên mua phải………………, song không vượt quá 10% tổng giá trị hợp đồng.
Giải quyết
tranh chấp
Điều khoản về giải quyết tranh chấp
- Bên mua và bên bán sẽ nỗ lực, thông qua đàm phán trực tiếp, đàm phán
không chính thức để giải quyết bằng hoà giải bết cứ mâu thuẫn, tranh chấp nào
phát sinh từ/hoặc liên quan đến hợp đồng.
- Nếu không giải quyết được bằng thương lượng, hoà giải thì tất cả các tranh
chấp, khiếu kiện, tranh cãi phát sinh từ/hoặc liên quan đến hợp đồng sẽ được đưa
đến giải quyết tại trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam và định đoạt theo luật Việt
nam. Các bên nhất trí rằng bất kỳ một phán quyết hay quyết định của ban trọng
tìa đều ràng buộc cả hai bên. Mỗi bên sẽ chịu phần chi phí của mình

Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 54


3.1.5 Thực hiện hợp đồng
 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên phải tuân
thủ những nguyên tắc sau:
- Thực hiện hợp đồng một cách trung thực, hợp tác, đảm bảo tin cậy lẫn nhau.
- Thực hiện đúng thoả thuận. Các bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng và đầy đủ các
điều khoản của hợp đồng.
- Không được xâm phạm lợi ích nhà nước, công cộng và lợi ích hợp pháp của người
khác.
 Trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng.
- Vi phạm hợp đồng là hành vi của một bên không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ theo các điều kiện hợp đồng. Điều kiện hợp đồng là bất kỳ điều kiện
nào đã được các bên thoả thuận cụ thể trong hợp đồng hoặc được xác định áp dụng
bằng cách khác, ví dụ từ những thông lệ tập tục hoặc các quy phạm dự liệu khi các bên
không thoả thuận. Mọi sai lệch so với các điều kiện này đều được coi là vi phạm hợp
đồng. Trên thực tế, người ta có thể chia vi phạm hợp đồng thành: a) từ chối thực hiện
nghĩa vụ, b) không có khả năng thực hiện hợp đồng và c) thực hiện không đầy đủ theo
các điều kiện của hợp đồng.
- Về nguyên tắc, có 4 hậu quả pháp lý có thể áp dụng cho vi phạm hợp đồng bao gồm:
đền bù thiệt hại, phạt hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu thực hiện hợp đồng, trong
đó đền bù thiệt hại là hậu quả pháp lý phổ biến nhất được áp dụng, các hậu quả pháp lý
khác là những ngoại lệ và chỉ được áp dụng rất hạn chế.
(1) Bồi thường thiệt hại: là một chế tài tài sản dùng để bù đắp những thiệt hại
thực tế cho bên bị vi phạm. Chức năng chủ yếu của chế tài này là bội hoàn, bù
đắp, khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên bị vi phạm. Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại: i) có hành vi vi phạm hợp đồng; ii) có thiệt hại
thực tế xảy ra; iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại
xảy ra; iv) có lỗi của bên vi phạm. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm

đền bù các thiệt hại trực tiếp và các thiệt hại xảy ra từ quan hệ nhân quả đối với
hành vi vi phạm bao gồm các thiệt hại gián tiếp, chi phí bổ sung, thanh toán cho
các bên thứ ba, thất thoát lợi nhuận,…. Bên bị vi phạm có nghĩa vụ hạn chế và
chứng minh các thiệt hại thực tế đã xảy ra. Các yêu cầu của toà án về chứng cứ
xác định thiệt hại là chặt chẽ và nghiêm ngặt.
(2) Phạt hợp đồng: hay còn gọi là đền bù thiệt hại đã được ước lượng trước. Đây
là chế tài được áp dụng nhằm củng cố quan hệ hợp đồng, nâng cao ý thức tôn
trọng pháp luật đồng thời phòng ngừa vi phạm pháp luật. Cách xác định thiệt hại
ước lượng tuỳ theo từng hợp đồng cụ thể, song có thể là một khoản tiền nhất định
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 55


cho mỗi ngày chậm thi hành nghĩa vụ hoặc một phần trăm nhất định của giá trị
hợp đồng. Luật Việt nam hạn chế mức phạt là 5% (điều 378 BLDS) hoặc 8%
(điều 228 LTM) giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Bên vi phạm có nghĩa vụ nộp
phạt theo thoả thuận, bất luận thiệt hại thực tế đã xảy ra hay chưa.
(3) Huỷ bỏ hợp đồng: có thể phân loại vi phạm hợp đồng thành hai loại: vi phạm
những điều khoản chủ yếu và vi phạm những điều khoản không chủ yếu. Các
điều kiện nào là chủ yếu được xác định tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Đối với
vi phạm các điều khoản không chủ yếu, bên bị vi phạm không có quyền yêu cầu
huỷ bỏ hợp đồng, mà chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ngược lại đối
với vi phạm các điều khoản chủ yếu, bên bị vi phạm có thể lưạ chọn: (1) tiếp tục
thực hiện hợp đồng và đòi đền bù thiệt hại hoặc (2) huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu
bồi thường thiệt hại. Phạm vi yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp huỷ
bỏ hợp đồng bao gồm các lợi ích và giá trị mà bên bị vi phạm mất đi nếu như hợp
đồng chưa được giao kết.(điều 419 BLDS, điều 237 LTM).
(4) Yêu cầu thực hiện hợp đồng: đối với các hợp đồng liên quan đến vật đặc
định, ví dụ: đồ cổ, tranh ảnh sách bào cũ không có vật thay thế, đối với các hợp
đồng mua bán đất, thuê mua doanh nghiệp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu toà
án buộc bên vi phạm thực hiện hợp đồng. Đây là những trường hợp đặc biệt

ngoại lệ mà việc dùng tiền đền bù thiệt hại cho người bị vi phạm tỏ ra không hợp

 Các bên được miễn trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng trong hai trường hợp sau:
(i) trường hợp miễn trách đã thoả thuận trong hợp đồng.
(ii) trường hợp bất khả kháng. (điều 77 LTM, điều 308 BLDS). Bất khả kháng có
nghĩa là tất cả các sự kiện nằm ngoài sự kiểm soát hợp lý của bất kể một bên nào ngăn
cản hoặc làm trì hoãn việc thực hiện bất kể một trách nhiệm nào trong bản hợp đồng.
Bất khả kháng bao gồm, song không giới hạn ở những sự kiện như: chiến tranh, bạo
loạn, nổi loạn, các hành động phá hoại, đình công, đóng cửa nhà máy hay bãi công,
những bộ luật mới đưa ra hay những quy định của chính phủ, hoả hoạn, cháy nổ, các
tai nạn khác, lũ lụt, bão, động đất hay các hiện tượng thiên nhiên bất bình thường khác.
3.1.6 Chấm dứt quan hệ hợp đồng
- Các căn cứ để chấm dứt quan hệ hợp đồng. Quan hệ hợp đồng có thể chấm dứt trong
nhiều trường hợp khác nhau: a) chấm dứt do hoàn thành hợp đồng, b) chấm dứt do các bên
bên thoả thuận, c) chấm dứt theo quy định của pháp luật (ví dụ đối với phá sản hoặc các giới
hạn thời gian hợp đồng đối với từng loại hợp đồng cụ thể), d) chấm dứt do hợp đồng không
còn đối tượng, e) chấm dứt do vi phạm hợp đồng.

Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 56


3.2 HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
3.2.1 Khái niệm hợp đồng tín dụng
3.2.1.1 Định nghĩa hợp đồng tín dụng
Từ khái niệm chung về hợp đồng, căn cứ vào bản chất hoạt động tín dụng của tổ
chức tín dụng cho phép đưa ra một định nghĩa về hợp đồng tín dụng như sau: "Hợp đồng tín
dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với tổ chức cá
nhân có đủ điều kiện do luật dịnh (bên vay), theo đó tổ chức tín dụng ứng trước một số tiền
cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi,
dựa trên sự tín nhiệm."

3.2.1.2 Chủ thể của hợp đồng tín dụng
Trong giao dịch tín dụng, chủ thể tham gia giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm: bên
cho vay (các tổ chức tín dụng) và bên vay (các tổ chức cá nhân có đủ những điều kiện do
luật định).
Các chủ thể này khi tham gia giao dịch cần phải thoả mãn những điều kiện nhất định
theo sự dự liệu của pháp luật.
 Điều kiện chủ thể đối với bên cho vay (các tổ chức tín dụng).
Theo những điều khoản được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng (1997), một
tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các
điều kiện sau:
- Có giấy phép thành lập và hoạt động do ngân hàng nhà nước cấp.
- Có điều lệ do ngân hàng nhà nước chuẩn y
- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp
- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách
hàng.
 Điều kiện chủ thể đối với bên vay
Trên nguyên tắc mọi hợp đồng vay chỉ có thể được thiết lập giữa những chủ thể có
đủ năng lực và thẩm quyền theo luật định. Do đó, ngoài các quy định về điều kiện chủ thể
đối với bên cho vay, pháp luật còn đòi hỏi bên vay cũng phải thoả mãn những điều kiện nhất
định. Những điều kiện đó bao gồm:
- Điều kiện chung:
+ Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với các tổ chức còn phải có
người đại diện hợp pháp có năng lực và thẩm quyền đại diện.
+ Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Điều kiện riêng áp dụng đối với từng chế độ cho vay cụ thể
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 57


+ Đối với khoản vay theo chế độ tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản (tín chấp):
bên vay phải có phương án sử dụng vốn khả thi và có đủ uy tín đối với tổ chức tín

dụng, đồng thời phải là các đối tượng thuộc diện được cho vay không cần bảo đảm
theo quy định của Chính phủ.
+ Đối với khoản vay theo chế độ tín dụng không có bảo đảm: bên vay phải có
phương án sử dụng vốn khả thi và có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh của
người thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
Tóm lại, pháp luật quy định các điều kiện chủ thể đối với bên cho vay và bên vay
trong hợp đồng tín dụng không chỉ nhằm bảo vệ các lợi ích chính đáng của các bên, giúp họ
tránh được các thiệt hại hay sai lầm khi giao kết hợp đồng tín dụng trong những điều kiện
khắt khe, nghiệt ngã của cơ chế thị trường.
3.2.1.3 Giao kết hợp đồng tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ -
pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định, bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau
đây:
 Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới
hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia. Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng
tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin
vay, kèm theo các giấy tờ tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay
phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này được bên xin vay gửi cho tổ chức tín dụng và
được coi như một bằng chứng đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng.
Ngoài ra, mặc dù pháp luật thực định chưa dự liệu nhưng thực tiễn giao kết hợp đồng
tín dụng ở Việt nam còn cho thấy rằng bên đề nghị giao kết hợp đồng cũng có thể là tổ chức
tín dụng. Trên thực tế để tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng,
các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh,… đã từng chủ động tìm kiếm khách hàng để
giao kết hợp đồng tín dụng với tư cách là bên đề nghị. Trong trường hợp này, văn bản đề
nghị là thư chào mời được gửi cho các tổ chức, cá nhâ có khả năng tài chính mạnh mà tổ
chức tín dụng lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng)
thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những điều khoản dự
thảo cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận.
 Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ - pháp lý
do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay trên cơ

sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng của giai đoạn này
trong suốt quá trình từ cho vay đến thu nợ, cho nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là tổ chức
tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc bảo đảm tính độc lập, phân định rõ ràng trách
nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay.
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 58


Ngoài ra trong trường hợp cần thiết hoặc pháp luật quy định, tổ chức tín dụng có thể
thành lập hội đồng tín dụng để thẩm định hoặc thuê, trưng cầu các cơ quan chuyên môn có
thẩm quyền thẩm định. Theo khoản 3, điều 15, qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN ngày 30/09/1998 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước), thời hạn thẩm định hồ sơ là 10 ngày làm việc (đối với
khoản vay ngắn hạn) và 45 ngày (đối với khoản vay trung, dài hạn). Trong trường hợp từ
chối cho vay thì tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu
rõ lý do từ chối cho vay.
 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín
dụng của khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định chấp nhận hoặc từ chối cho
vay, dựa vào kết quả thẩm định, phân tích và điều tra đối với khách hàng.
Chấp nhận cho vay (chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng) là hành vi pháp
lý do tổ chức tín dụng (thông qua người đại diện hợp pháp của mình thực hiện dưới hình
thức văn bản chính thức gửi cho bên vay với nội dung đồng ý cho vay kèm theo lời đề nghị
gặp gỡ để thoả thuận các điều khoản cụ thể của hợp đồng tín dụng. Xét về bản chất pháp lý,
hành vi chấp nhận cho vay trên văn bản chỉ có giá trị tuyên bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ
không thay thế cho việc giao kết hợp đồng. Vì thế mặc dù tuyên bố chấp nhận cho vay
nhưng do hợp đồng tín dụng (với ý nghĩa là văn kiện chính thức của giao dịch) vẫn chưa
được thiết lập nên các bên chưa bị ràng buộc với các điều khoản của hợp đồng.
 Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Đây là giai đoạn cuối cùng
cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn này,
các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được
coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.

3.2.1.4 Nội dung, hình thức của hợp đồng tín dụng.
 Hình thức của hợp đồng tín dụng: trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, pháp
luật quy định mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị
pháp lý (điều 51-Luật các tổ chức tín dụng).
 Nội dung của hợp đồng tín dụng: là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ
tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện và phù hợp với pháp luật. Các điều
khoản này phản ánh những quyền, nghĩa vụ cụ thể của mỗi bên tham gia hợp đồng. Theo
quy định của điều 51, nội dung của hợp đồng tín dụng phải bao gồm các điều khoản cụ thể
sau đây:
- Điều kiện vay vốn: khi thoả thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong hợp đồng
những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thoả mãn thì mới được chấp nhận vay vốn. Chẳng
hạn: bên vay phải có năng lực chủ thể, có tài sản cầm cố, thế chấp, hoặc có bảo lãnh,…
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 59


- Đối tượng hợp đồng: các bên thoả thuận về số tiền vay, lãi suất, tổng số tiền phải trả khi
hợp đồng tín dụng đáo hạn
- Thời hạn sử dụng vốn vay: các bên phải ghi rõ trong hợp đồng về ngày, tháng, năm trả
tiền hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì
các bên cũng thoả thuận trước về thời gian gia hạn.
- Phương thức thanh toán tiền vay: đây là điều khảon rất quan trọng vì nó liên quan trực
tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế các bên phải thoả thuận rõ rằng số tiền vay
sẽ được hoàn trả dần hàng tháng hay trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn.
- Mục đích sử dụng tiền vay: các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì.
Việc thoả thuận điều khoản này được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn
cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng. Đồng thời, để đảm bảo lợi ích của cả hai bên và
đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật quy định rằng trong thời
gian sử dụng vốn, các bên có quyền thoả thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét
thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
- Giải quyết tranh chấp

Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều khoản bảo đảm bằng tài sản
như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thoả thuận một điều khoản riêng rẽ nằm
trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp đồng phụ đình kèm theo
hợp đồng chính. Trong thực tế các bên thường ký kết một hợp đồng phụ (hợp đồng cầm cố,
hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh) theo thể thức luật định nhằm thể hiện rõ ý chí của
mình trong việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh.
3.2.2 Các loại hợp đồng cho vay thông dụng giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng
3.2.2.1 Hợp đồng cho vay có bảo đảm bằng tài sản
- Theo nghĩa pháp lý, cho vay có bảo đảm là một loại quan hệ pháp luật tín dụng trong đó
tổ chức tín dụng thoả thuận để cho khách hàng vay được sử dụng một số tiền của mình trong
một thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản cầm cố,
thế chấp của người vay hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba.
a) Cầm cố tài sản để vay vốn ở tổ chức tín dụng
- Cầm cố tài sản vay vốn ở tổ chức tín dụng là việc bên vay cam kết dùng các động sản
của mình để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng.
- Đối tượng cầm cố gồm các động sản có đủ các tiêu chuẩn sau:
+ Đang thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên vay
+ Có giá trị lớn hơn giá trị khoản vay từ 20% trở lên
+ Không có tranh chấp, không bị pháp luật cấm hoặc hạn chế chuyển nhượng
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 60


+ Đối với những đối tượng mà pháp luật bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu thì giấy
tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản đương nhiên thuộc về tài sản cầm cố.
Việc quy định những tiêu chuẩn trên đối với tài sản cầm cố thực chất là một biện
pháp ngăn ngừa và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng, đồng thời
góp phần hạn chế các tranh chấp vốn rất dễ phát sinh từ các hợp đồng tín dụng.
- Về thủ tục cầm cố, pháp luật qui định rằng việc cầm cố phải tuân thủ các qui tắc pháp lý
sau:

i) Việc cầm cố phải lập thành văn bản có công chứng nhà nước. Văn bản này gọi là
hợp đồng cầm cố. Về nguyên tắc, hợp đồng cầm cố phải do các bên trực tiếp ký kết và
sau đó phải được chứng thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sự chứng thực của
cơ quan nhà nước có thảm quyền đối với hợp đồng cầm cố có tác dụng tạo ra chứng cứ
pháp lý ghi nhận tính xác thực của việc cầm cố, góp phần ngăn ngừa các vi phạm và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.
ii) Bên cầm cố có nghĩa vụ chuyển giao tài sản cầm cố (kể cả giấy tờ chứng nhận
quyền sở hữu tài sản cầm cố) cho tổ chức tín dụng hoặc người thứ ba (thường là các cơ
sở cho thuê kho bãi) quản lý theo sự thoả thuận của các bên, trừ trường hợpc ác bên có
thoả thuận khác. Trong suốt thời gian cầm cố, bên quản lý tài sản không được phép
chuyển nhượng, cho thuê hay quyết định số phận pháp lý của tài sản dưới những hình
thức khác nếu không có sự đồng ý bằng văn bản của bên kia.
iii) Theo pháp luật Việt nam, việc cầm cố chỉ bắt buộc phải đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền
sở hữu.
iv) Việc xử lý tài sản cầm cố được thực hiện theo nguyên tắc, nếu bên vay đã thanh
toán tiền vay đúng hợp đồng tín dụng thì tổ chức tín dụng phải hoàn trả lại tài sản cầm
cố cho chủ sở hữu. Trái lại, nếu khoản tiền vay không được thanh toán theo đúng hợp
đồng thì tổ chức tín dụng có quyền được ưu tiên thanh toán từ tài sản cầm cố bằng thủ
tục phát mại theo các hình thức luật định. Nếu tài sản cầm cố không phát mại được
hoặc phát mại được nhưng không đủ thanh toán nợ vay thì khi đó tổ chức tín dụng có
thể sử dụng quyền yêu cầu khởi kiện bên vay trước một cơ quan tài phán để yêu cầu
xét xử theo pháp luật.
b) Thế chấp tài sản để vay vốn ở các tổ chức tín dụng
- Thế chấp tài sản vay vốn ở các tổ chức tín dụng là việc bên vay cam kết dùng các bất
động sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng.
- Do cầm cố và thế chấp có nhiều điểm giống nhau (vì cùng là các biện pháp bảo đảm đối
vật) nên các quy định về cầm cố cũng được áp dụng đối với thế chấp tài sản.
- Phân biệt cầm cố và thế chấp
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 61



i) Đối tượng: cầm cố là các động sản; thế chấp là các bất động sản (trừ một số ngoại lệ
tài sản là động sản nhưng có thể đem thế chấp như máy bay, tàu thuỷ, ca nô, xà lan,
máy móc thiết bị gắn với nhà xưởng,….
ii) Trong cầm cố, bên vay thường phải chuyển giao tài sản cho tổ chức tín dụng quản
lý thì trong thế chấp bên vay thường tiếp tục được quản lý tài sản thế chấp nhưng phải
chuyển giao cho tổ chức tín dụng nắm giữ giấy tờ gốc chứng minh quyền sở hữu tài
sản.
c) Bảo lãnh bằng tài sản để vay vốn ở các tổ chức tín dụng.
- Bảo lãnh bằng tài sản vay vốn ở các tổ chức tín dụng là việc một pháp nhân, thể nhân
cam kết với tổ chức tín dụng sẽ dùng các tài sản của mình để trả nợ thay cho bên vay khi
người này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín
dụng.
- Theo điều 370 BLDS, trong trường hợp nhiều người đứng ra bảo lãnh cho một khoản
vay thì tất cả những người bảo lãnh phải liên đới chịu trách nhiệm đố với chủ nợ (trừ trường
hợp giữa họ có thoả thuận rằng mỗi người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm
vi mình bảo lãnh). Có thể nói theo pháp luật Việt nam, sự bảo lãnh dù trong dân sự hay
thương mại thì nghĩa vụ liên đới thông thường mang tính đương nhiên, nếu các bên không
ghi vào hợp đồng bảo lãnh về sự phi liên đới của nghĩa vụ bảo lãnh
- Để ngăn ngừa tình trạng lừa đảo và đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh của các tổ chức
tín dụng, pháp luật đòi hỏi các bên khi ký hợp đồng bảo lãnh phải tuân theo những quy định
i) Chủ thể ký hợp đồng bảo lãnh phải là các pháp nhân hoặc cá nhân có đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi. Đối với pháp nhân, phải có người đại diện hợp pháp đủ
thẩm quyền để thay mặt pháp nhân ký kết hợp đồng bảo lãnh. Trong trường hợp tài
sản đem bảo lãnh thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người thì phải có sự đồng ý
bằng văn bản của tất cả những người đồng sở hữu
ii) Hợp đồng bảo lãnh phải được ký bằng văn bản có chứng thực của cơ quan công
chứng nhà nước. Pháp luật không bắt buộc việc bảo lãnh phải đươc đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền vì trên cả phương diện lý thuyết và thưc tế thì người bảo

lãnh không nhất thiết phải chuyển giao tài sản đem bảo lãnh cho tổ chức tín dụng
chiếm giữ, quản lý.
iii) Phạm vi bảo lãnh: trên nguyên tắc tự nguyện, người bảo lãnh có quyền cam kết với
tổ chức tín dụng rằng họ sẽ hực hiện thay một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ mà bên vay
đã không thực hiện theo hợp đồng tín dụng.
d) Hiệu lực của hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
- Về nguyên tắc, hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh chỉ có hiệu lực khi thoả mãn các
điều kiện sau:
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 62


+ Chủ thể có đủ năng lực và thẩm quyền
+ Nội dung, hình thức của hợp đồng không trái pháp luật.
+ Có sự đồng thuận về ý chí giữa các bên ký kết.
+ Nghĩa vụ cần bảo đảm không bị vô hiệu
Như vậy, nếu một hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh không thoả mãn một trong
các điều kiện trên đây thì đương nhiên Toà án có thể tuyên hợp đồng đó vô hiệu.
- Sự vô hiệu hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh về nguyên tắc chỉ có thể làm cho hợp
đồng tín dụng bị vô hiệu theo khi các bên tham gia hợp đồng tín dụng đã thoả thuận rằng
việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là điều kiện bắt buộc để ký hợp đồng tín dụng.
3.2.2.2 Hợp đồng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
- Trong thực tế, mặc dù sự bảo đảm cho các khoản vay của tổ chức tín dụng là cần thiết
nhưng không phải mọi khoản vay ở tổ chức tín dụng đều cần có sự bảo đảm bằng tài sản.
Đôi khi, các tổ chức tín dụng cung cấp các khoản vay mà không cần có tài sản bảo đảm.
Nghiệp vụ này được các tổ chức tín dụng áp dụng đối với các khoản vay mà họ cho rằng
người đi vay có đủ uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả
thi và khả năng trả nợ chắc chắn hoặc được pháp luật cho phép. Nếu trong hợp đồng cho
vay có bảo đảm bằng tài sản, khả năng thu hồi nợ vay của tổ chức tín dụng là tương đối lớn,
ngược lại trong hợp đồng cho vay không có bảo đảm, tổ chức tín dụng chỉ có thể dựa vào sự
đánh giá về khả năng trả nợ của người vay thông qua kết quả phân tích và điều tra tín dụng

đối với khách hàng.
- Điều kiện vay vốn: không phải là những tài sản đem bảo đảm mà bao gồm rất nhiều yếu
tố phản ánh năng lực trả nợ của người vay như :
i) Năng lực chủ thể: có đủ năng lực và thẩm quyền để ký kết hợp đồng tín dụng.
ii) Uy tín của người vay
iii) Tình hình tài chính lành mạnh.
3.3 HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
3.2.1 Khái niệm
3.2.1.1 Định nghĩa công nghệ
- Thuật ngữ “công nghệ” xuất phát từ hai thuật ngữ Hy lạp:
TECHNE + LOGIA
Techne có nghĩa là kỹ năng hoặc cách thức cần thiết để làm một cái gì đó. Logia có nghĩa là
kiến thức về một cái gì đó. Do vậy, technology có nghĩa là kiến thức về một cái gì đó được
làm như thế nào.
- Sự khác nhau giữa “công nghệ” và “kỹ thuật” là gì?. Kỹ thuật là một kỹ năng cần thiết
để thực hiện một số nhiệm vụ đặc thù, thông thường là một kỹ năng cụ thể.
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 63


- Sự khác nhau giữa “công nghệ” và bí quyết. Bí quyết là kiến thức cần thiết để thực hiện
một nhiệm vụ nào đó, còn công nghệ thì hẹp hơn: nó là kiến thức cần thiết để sản xuất hoặc
xây dựng một cái gì cụ thể. Trong thực tế, phần này đề cập tới ba loại bí quyết: i) bí quyết
quản lý (biết làm thế nào để lập kế hoạch, tổ chức và kiểm tra), ii) bí quyết tài chính (biết
làm thế nào để lập và thực hiện kế hoạch tài chính và làm thế nào để quản lý kế toán), iii) bí
quyết sản xuất (giống như công nghệ).
3.2.1.2 Chuyển giao công nghệ
- Đối tượng của chuyển giao công nghệ là tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ có thể được hiểu
theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các thông tin có giá trị thương mại (gọi là tài sản trí tuệ).
Luật của nhiều nước thừa nhận bốn loại tài sản trí tuệ:
(i) Nhãn hiệu thương mại và các dấu hiệu tương tự (nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử

dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá)
(ii) Bằng sáng chế và các thiết kế (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp).
(iii) Bản quyền (quyền tác giả)
(iv) Bí mật thương mại
Nhãn hiệu hàng hoá là dấu hiệu xác định nguồn gốc của hàng hoá. Mọi dấu hiệu hoặc
sự phối hợp dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của người cung cấp này
với người cung cấp khác, có thể đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Chủ nhãn hiệu có quyền ngăn
cản các bên thứ ba sử dụng chính nhãn hiệu đó hoặc các nhãn hiệu khác có khả năng gây
nhầm lẫn về nguồn gốc của người cung cấp.
Bằng sáng chế là bằng được cấp cho các phát minh (sản phẩm hoặc quy trình) trong
lĩnh vực công nghệ, mang tính mới, sáng tạo và có thể sử dụng trong công nghiệp. Bằng
sáng chế cho phép nhà sáng chế có lợi nhuận độc quyền từ sáng chế của họ trong thời gian
giới hạn. Sáng chế trở thành tài sản hợp pháp của họ được bảo hộ trong một thời gian, tức
là, trong khoảng thời gian này không ai được phép thu lợi nhuận từ sáng chế mà không
được phép của nhà sáng chế. Đổi lại, nhà sáng chế phải công bố tất cả các chi tiết của sáng
chế cho công chúng, và sau thời kỳ bằng sáng chế có hiệu lực, thì công chúng có thể sử
dụng sáng chế một cách tự do.
Bản quyền rất giống với bằng sáng chế nhưng nó thường đề cập tới sự sáng tác, biểu
thị trí tuệ sáng tạo văn học, âm nhạc hoặc tác phẩm nghệ thuật. Bản quyền có lẽ là dạng cổ
điển của tài sản trí tuệ. Tương tự như bằng sáng chế, người có bản quyền có quyền nghiêm
cấm hoặc cho phép người nào đó sao chép lại tác phẩm của mình trong một số năm nhất
định. Người đó có thể bán, cho thừa kế hoặc cấp phép sử dụng bản quyền. Tuy nhiên, bản
quyền có một số đặc điểm riêng: quyền này được kéo dài trong một khoảng thời gian rất dài
(thông thường là cả cuộc đời người sáng tác cộng với một khoảng thời gian sau đó khoảng
Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh 64


50 năm); đối tượng của bản quyền là một sự thể hiện ý tưởng chứ không phải bản thân ý
tưởng

Bí mật thương mại (thông tin không được tiết lộ). Những thông tin bảo mật là những
thông tin cần đáp ứng ba yêu cầu dưới đây của TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền tài sản trí tuệ - một trong những văn kiện thành lập WTO): thông
tin đó phải bí mật, không được công bố công khai trong công chúng, thông tin đó có giá trị
thương mại khi được bảo mật, và người có thông tin đó đã tiến hành các biện pháp cần thiết
để bảo mật thông tin. Khi đáp ứng được các yêu cầu đó, người có thông tin có thể nhận
được một sự bảo hộ chống lại các hành vi của bên thứ ba vi phạm các thói quen kinh doanh
đúng đắn để có được thông tin mà không được người có thông tin cho phép.
- Công nghệ chuyển giao qua rất nhiều loại hợp đồng khác nhau: hợp đồng cấp phép phát
minh sáng chế, hợp đồng xây dựng nhà máy công nghiệp, hợp đồng đại lý, phân phối,…. Ở
đây, chúng ta chỉ nghiên cứu hợp đồng chuyển giao công nghệ dạng thuần khiết: không có
máy móc, không có phát minh sáng chế, không xây dựng mà chỉ đơn giản là hợp đồng mua
bí quyết sản xuất.
- Hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thoả thuận giữa các bên nhằm xác lập các quyền
và nghĩa vụ đối với nhau trong quá trình chuyển giao công nghệ.
3.2.2 Nội dung của hợp đồng chuyển giao công nghệ (xem phụ lục hợp
đồng chuyển giao công nghệ)

3.4 HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
3.4.1 Khái niệm, phân loại hợp đồng lao động
3.4.1.1 Khái niệm hợp đồng lao động
- Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về
việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao
động (điều 26 Bộ luật lao động).
Đặc trưng của hợp đồng lao động
 Đặc trưng thứ nhất: sự phụ thuộc pháp lý của người lao động và người sử dụng lao động
(yếu tố quản lý của người sử dụng lao động với người lao động).
- Đây là đặc trưng tiêu biểu nhất của hợp đồng lao động mà các hệ thống pháp luật khác
nhau đều thừa nhận. Có thể thấy trong tất cả các loại quan hệ hợp đồng, duy nhất hợp đồng
lao động tồn tại đặc trưng này.

- Yếu tố chính trong hợp đồng lao động là sự lệ thuộc pháp lý của người lao động vào
người sử dụng lao động. Điểm đặc sắc trong khế ước lao động là người lao động không phải
chỉ cam kết làm một công việc gì hay cung cấp một dịch vụ nhất định mà còn tự đặt mình
dưới sự điều khiển của người sử dụng lao động khi làm công việc ấy. Trong thực tế, uy

×