Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Vai trò FDI trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam - 3 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.8 KB, 9 trang )


19

góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn,
sản xuất đình đốn nguy cơ phá sản.
Chương hai Vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam
I. Thực trạng của đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
1. Trước khi mở cửa
Chỉ sau hai năm sau ngày thống nhất đất nước. Ngày 18-7-1977 chính phủ nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở
CHXHCN Việt Nam trong đó: "Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam hoan nghênh
việc đầu tư của nước ngoài ở trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt
Nam và hai bên cùng có lợi". Để khuyến khích đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam,
bản điều lệ cũng đã đưa ra nhiều hình thức ưu đãi đối với đầu tư của nước ngoài ở Việt
Nam và đây như là một tín hiệu tích cuực rất đáng quan tâm. Tuy nhiên sau khi bản
điều lệ ra đời thì không có đối tác nào bỏ tiền vào nơi đang nằm trong tình trạng chiến
tranh, tình hình an ninh không ổn định. Hơn nữa tình hình kinh tế Việt Nam lúc đó rất
nhiều khó khăn, sản xuất lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, các dịch vụ không phát triển,
hệ thống pháp luật vừa thiếu vừa không phù hợp về các thông lệ quốc tế, vừa quan
điểm không rõ ràng về đường lối tổng thể phát triển kinh tế.
2. Sau khi mở cửa
Sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 12/1987, năm đầu tiên thực hiện
(1988) đã có 37 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với tổng số vốn đầu
tư là 366 triệu USD. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời phù hợp với xu hướng
của sự hợp tác nhiều mặt, nhiều chiều, tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, trên cơ sở
bình đẳng và cùng có lợi. Tuy nhiên sau hai năm thực hiện đầu tư nước ngoài cũng đã
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

20

bộc lộ một số quan điểm chưa phù hợp với điều kiện thực tế và thông lệ quốc tế. Vì


vậy chúng ta đã thực hiện hai lần sửa đổi. Luật bổ sung thứ nhất được quốc hội nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30-6-1990 và luật sửa đổi thứ hai
là vào 23-12-1992. Trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng đắn về hoạt động đầu tư
nước ngoài, chúng ta đã có quan điểm rõ ràng về thu hút và sử dụng nguồn lực bên
ngoài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế. Chúng ta
coi trọng nguồn lực trong nước là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng đối
với sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.
a) Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua
Giai đoạn trước 1996: FDI liên tục gia tăng cả về số dự án và vốn đầu tư, đạt mức kỷ
lục là 8,6 tỷ USD về tổng số vốn đăng ký vào năm 1996. Trong giai đoạn này tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt khoảng 50% một
năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng đáng kể từ mức 37 dự án với tổng số vốn đầu
tư đăng ký 342 triệu USD năm 1988 lên 326 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký
8640 triệu USD năm 1996.
Giai đoạn sau 1996: FDI vào Việt Nam liên tục giảm. Trong giai đoạn 1997-2000 vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm trung bình khoảng 24% một năm. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã giảm đáng kể từ mức vốn đầu tư đăng ký khoảng 8,6 tỷ USD năm 1996
xuống còn 1,9 tỷ USD năm 2000. Ngoài ra, trong giai đoạn này, còn có một xu hướng
khác rất đáng lo ngại và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.
Tổng số vốn đầu tư giải thể giai đoạn 1997-2000 khoảng 2,56% tỷ USD so với 2,69 tỷ
USD của năm trước đó cộng lại.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

21

Tính đến cuối năm 2002 đã có hơn 4500 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN)
được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký và tăng vốn đạt trên 80 tỷ USD. Trừ
các dự án giải thể trước thời hạn hoặc đã hết hạn hoạt động, hiện có trên 3670 dự án
đang có hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 39 tỷ USD. Trong đó có gần 2000 dự
án đang triển khai hoạt động kinh doanh. 980 dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ

bản và làm các thủ tục hành chính, gần 700 dự án chưa triển khai do nhiều nguyên
nhân. Tổng số vốn đầu tư thực hiện của các dự án đã cấp giấy phép khoảng 24 tỷ USD,
trong đó vốn thực hiện của các dự án còn hiệu lực là trên 21 tỷ USD. Đầu tư nước
ngoài chủ yếu dựa vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 66% số dự án và 64,5%
vốn thực hiện. Lĩnh vực này cũng thu hút tới trên 70% số lao động và tạo ra trên 90%
giá trị xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 21% số dự
án và 22,5% vốn thực hiện, lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 13% số dự án và
6% vốn thực hiện.
Về địa bàn đầu tư thì đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu vào vùng kinh tế
trọng điểm phía Bắc và vùng kinh tế trọng điẻem ở phía Nam. Trong số các địa
phương thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, thành phố Hồ Chí Minh giữ vị trí hàng
đầu với 1224 dự án và 10394 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực, tiếp theo là Hà Nội,
Đồng Nai và Bình Dương. Khu vực phía Bắc thu hút được ít hơn, trong đó đáng kể là
Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh với tổng số 634 dự án, 9.625 triệu USD
vốn đăng ký còn hiệu lực.
b) Những hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định có ba hình thức chủ yếu là: Xí nghiệp
liên doanh , xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

22

và hình thức ký hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao(BOT). Với các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam.
+ Hình thức xí nghiệp liên doanh.
Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều nhất trong thời
gian qua, bởi vì:
Một là, họ tranh thủ được sự hỗ trợ và những kinh nghiệm của các đối tác Việt Nam
trên thị trường mà họ chưa quen biết.
Hai là, các nhà đầu tư nước ngoài muốn san sẻ rủi ro với các đối tác Việt Nam do môi

trường đầu tư Việt Nam còn nhiều bất trắc.
Ba là, hình thức này có khả năng thuận lợi hơn để các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng
phạm vi và lãnh thổ hoạt động kinh doanh so với hình thức 100% vốn đầu tư nước
ngoài.
Mặt khác, nhà nước cũng tạo điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước liên
doanh với nước ngoài nhằm sử dụng có hiệu quả mặt bằng và nhà xưởng, máy móc
thiết bị hiện có.
Hiện nay, hình thức này chiếm 66,4% trong tổng số 815 xí nghiệp liên doanh đã được
cấp giấy phép, 51% số vốn đăng ký và 30% số dự án.
+ Xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Hình thức này ngày càng phát triển trong những năm gần đây, từ 5% năm 1989 đến
27% năm 1995 trong tổng số các dự án đã được cấp giấy phép.
Hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lựa chọn
ngày càng nhiều vì nó có phần dễ thực hiện và thuận lợi hơn cho họ. nhưng bằng hình
thức đầu tư này, về phía nước nhận đầu tư thường chỉ nhận được các lợi ích trước mắt,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

23

về lâu dài, hình thức đầu tư này không hứa hẹn những lợi ích tốt đẹp, mà thậm chí
nước nhận đầu tư còn phải gánh chịu nhiều hậu quả khó lường.
Khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế, hoặc áp dụng các hoạt động
xây dựng- vận hành- chuyển giao(BOT) hay xây dựng chuyển giao vận hành (BTO)
Hiện nay hình thức này chiếm 36% vốn đăng ký và 66% số dự án
+ Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Là hình thức mà theo đó bên nước ngoài và bên Việt Nam cùng nhau thực hiện một
hợp đồng đa được ký giữa hai bên, quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của
mỗi bên trong sản xuất kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới.
Hình thức này đã xuất hiện sớm ở Việt Nam nhưng đáng tiếc cho đến nay vẫn chưa
hoàn thiện được các qui định pháp lý cho nó. Điều đó đa gây không ít khó khăn cho

việc giải thích hướng dẫn và vận dụng vào thực tế.
Lợi dụng sơ hở này, một số nhà đầu tư nước ngoài đã trốn tránh sự quản lý của nhà
nước, đầu tư chui vào Việt Nam. Hoặc khi thực hiện các dự án lớn, các bên hợp doanh
thường gặp khó khăn trong việc điều hành dự án.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức dễ thực hiện và có ưu thế lớn trong việc
phối hợp sản xuất các sản phẩm kỹ thuật cao đòi hỏi có sự kết hợp thế mạnh của nhiều
công ty ở nhiều quốc gia. Đây cũng sẽ là xu hướng hợp tác sản xuất kinh doanh trong
một tương lai gần, xu hướng của sự phân công lao động chuyên môn hóa sản xuất trên
phạm vi quốc tế.
Và hình thức này chiếm 13% vốn đăng ký và 4% số dự án.
c) Các đối tác đầu tư
Đối tác Việt Nam
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

24

Theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài (LĐTNN) đã sửa đổi bổ sung 12/1992 thì
mọi tổ chức kinh tế Việt Nam, kể cả doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp
tư nhân (DNTN) được hợp tác trực tiếp với nước ngoài.
Nhưng thực tế thời gian qua, hầu như chỉ có các DNNN tham gia hợp tác kinh doanh
với nước ngoài (chiếm 96% số dự án và 99% tổng số vốn đầu tư). Tình hình này phản
ánh tình trạng thực tế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhỏ bé, trình độ sản
xuất và năng lực quản lý còn yếu kém.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển
DNTN và đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNTN.
Đối tác nước ngoài:
Thời kỳ đầu mới thực hiện luật đầu tư nước ngoài chủ yếu là các công ty nhỏ, thậm chí
cả công môi giới đầu tư vào nước ta. phần lớn là công ty thuộc khu vực Đông á-TBD
và Tây- Bắc âu.
Về khu vực các nước đầu tư vào Việt Nam thì khu vực Đông Bắc á(gồm Nhật Bản,

Hàn Quốc, Hồng Kông) chiếm 55,4% số dự án và 40,8 vốn đăng ký của tất cả dự án
đang còn hiệu lực. Đầu tư các nước ASEAN vào Việt Nam từ năm 1997 trở lại đây có
chiều hướng suy giảm do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực và
những hạn chế về khả năng phục hồi kinh tế (Singapore, vẫn giữ vị trí hàng đầu với
236 dự án và 7,2 tỷ USD vốn đăng ký). Đầu tư các nước Châu Âu như Pháp, Hà Lan
vẫn nằm trong số 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt nam, Hoa Kỳ đứng ở vị trí 13 với
hơn 1,1 tỷ USD vốn đăng ký trong năm 2002.
d) Thực trạng đầu tư của mỹ vào Việt Nam.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

25

Tính đến ngày 31-8-2001, Mỹ có dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký là
1058 triệu USD và vốn đầu tư thực hiện đạt 489,4 triệu USD, Mỹ có 82 dự án đầu tư
vào ngành công nghiệp chiếm 58,6% tổng số vốn đầu tư là 306,2 triệu USD, tiếp đến
là ngành dầu khí, công nghiệp nhẹ, xây dựng và thực phẩm. Nông, lâm nghiệp có 16
dự án chiếm 13,5% tổng vốn đầu tư.
Theo hình thức đầu tư, Mỹ có 83 dự án 100% vốn nước ngoài (chiếm 64,3% tổng số
dự án), với tổng số vốn đầu tư là 554,3 triệu USD (chiếm 52,4% tổng vốn đầu tư);
Tiếp theo là hình thức liên doanh có 33 dự án (25,6%) với vốn đầu tư là 369,8
triệuUSD (34,9%) và hợp đồng hợp tác liên doanh có 11 dự án (10,1%) với tổng vốn
đầu tư là 134,1 triệu USD (12,7%).
Các dự án đầu tư của Mỹ đầu tư tại 26 tỉnh thành phố nhưng tập trung chủ yếu tại
thành phố HCM với 37 dự án, với vốn đầu tư là 187,5 triệu USD; Hà Nội: 22 dự án
với 158,1 triệu USD và Đồng Nai với 14 dự án, với vốn đầu tư là 181,4 triệu USD; 3
địa phương này chiếm 56% tổng số dự án và 50% tổng vốn đầu tư của Mỹ tại Việt
Nam. Đây là những địa bàn có cơ sở hạ tầng và điều kiện sản xuất kinh doanh tốt hơn
so với các tỉnh thành trong cả nước.
Tác động của hiệp định thương mại Việt - Mỹ đến triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp
của Mỹ vào Việt Nam.

Cơ hội đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam thể hiện ở những điểm chính sau:
Thứ nhất, với mức thuế suất của nhiều mặt hàng giảm từ 40-60% xuống còn 3%, xuất
khẩu Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng. Ngân hàng Thế giới dự báo xuất khẩu Việt Nam sang
Mỹ sẽ tăng từ 368 triệu USD (mức năm ngoái) lên 1 tỷ USD/năm trong vòng 4 năm
tới. Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt có
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

26

lợi cho ngành sản xuất quần áo, giày dép vì các doanh nghiệp Mỹ muốn tận dụng lợi
thế nhân công rẻ ở Việt Nam "Việt Nam thực sự là nơi lý tưởng cho sản xuất, và điều
này sẽ còn trở nên tốt hơn trong thời gian tới". Đó là lời phát biểu của ông Lalit
Monteiro. (Tổng giám đốc h•ng Nike tại Việt Nam)
Thứ hai, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ làm cho vị thế của Việt Nam được nâng
trên trường quốc tế do đó sẽ có một số nhà đầu tư nước ngoài đến đây để xây dựng nhà
máy sản xuất hàng hoá xuất khẩu đi Mỹ và những nhà đầu tư nước ngoài khác đang
đầu tư tại Việt Nam sẽ có kế hoạch sản xuất.
Thứ ba, bằng những cam kết thực hiện dần việc minh bạch hoá, giảm thuế xuất, bỏ
hàng rào phi thuế quan, cởi mở hơn nữa cho đầu tư nước ngoài, bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ… Môi trường kinh doanh của Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng tốt hơn và mọi
bên đều có lợi. Điều đó đồng nghĩa với đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam sẽ tăng.
II. Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
1. Quy mô nhịp độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh
Từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết ngày 12 năm 2001
thì nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số
lượng dự án cũng như vốn đăng ký.
Đồ thị: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một
phần không nhỏ trong tổng số vốn tiến hành CNH, HĐH đất nước. Tư khi luật đầu tư
ra đời năm 1988 đã có 371,8 triệu USD đến nay con số đa tăng lên hàng nghìn (năm

1996 là 8497,3 triệu USD). Thời kỳ đầu tăng mạnh nhất vào những năm 1993, 1994,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

27

1995 và sau đó có xu hướng giảm xuống vào những năm 1996, 1997, 1998, 1999 và
đến năm 2001, 2002, 2003 đang tăng lên cho thấy tín hiệu khả quan hơn.
Sự biến động trên phần nào do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Phần lớn vốn đầu tư nước ngoài (trên
70%) vào Việt Nam là xuất phát từ các nhà đầu tư châu á. Khi các nước này lâm vào
cuộc khủng hoảng thì các nhà đầu tư ở đây rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính,
khả năng đầu tư giảm sút. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng đó là sự
giảm sút về khả năng hấp dẫn do điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam. Trong đó
có việc do giảm bớt một số ưu đãi trong luật đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1996 so
với trước.
Số lượng vốn cùng được thể hiện qua các dự án, quy mô dự án bình quân của thời kỳ
1988-2000 là 11,44 triệu USD/1 dự án theo số lượng vốn đăng ký. Tuy nhiên quy mô
dự án theo vốn đăng ký bình quân năm 1999 bị nhỏ đi một cách đột ngột (5,04 triệu
USD/1 dự án). Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 chỉ bằng
40,06% quy mô bình quân thời kỳ 1988-2001 và chỉ bằng 28,5% của năm cao nhất là
năm 1995. Quy mô vốn bình quân của các dự án mới được cấp phép trong năm 2000
tuy đã tăng lên, nhưng sang năm 2001 mặc dù có thêm dự án với quy mô đầu tư lớn
(nhà máy điện Phú Mỹ III số vốn đăng ký là 412,9 triệu USD, mạng điện thoại di động
số vốn đăng ký 230 triệu USD) dự án chế biến nông sản phẩm tại TP HCM có vốn
đăng ký 120 triệu USD…). Nhưng quy mô vốn bình quân của các dự án đạt bằng
97,4% mức bình quân năm 2000. Điều đó chứng tỏ năm 2001 có nhiều dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với qui mô nhỏ.
2. Cơ cấu vốn đầu tư
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×