Lời mở đầu
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 – 1950), sự phát triển
nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng
sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả
chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất cả các quốc gia không phân biệt trình độ đã và đang hình
thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên
mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các tổ
chức lớn như WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự ra đời của các khu vực đồng tiền
chung Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên kỉ mới này, cuộc cách mạng công nghệ
tiếp tục đi sâu, mở rộng ứng dụng công nghệ tin học sẽ là động lực chính thúc đẩy hơn nữa
quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hoá.
Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh tế của nước ta không thể đứng
ngoài xu thế toàn cầu hoá. Nhận thấy được tình hình kinh tế của đất nước đang gặp khó
khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan
liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược
phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước
và các tổ chức quốc tế đang là vấn đề được quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ” và “là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước
và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập PECC (01/1995),
ASEAN (07/1995), ký kết hiệp định chung về hợp tác kinh tế với EU (7/1995), tham gia
APEC (11/1998), và đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thương mại thế giới (WTO). Việt Nam từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế khu vực và thế giới. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là:
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà em rất tâm huyết, rất quan tâm và đó cũng là lí
do, là sự thôi thúc em chọn đề tài: “Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con
mắt triết học”.
Và em hi vọng đề tài này sẽ giải đáp được phần nào thắc mắc về vấn đề hội nhập và toàn
cầu hoá ở nước ta hiện nay.
Phần 1 Cơ sở của đề tài
I. Cơ sở lý luận
1. Lý luận triết học
Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác nhau của thế
giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và cũng đồng thời khẳng định
tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối liên hệ đó.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao
nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất –
thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau,
mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
triết học dùng để chỉ sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên hệ đều
mang tính khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ biến. Bởi lẽ, bất cứ sự
vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng
nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan
hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế mà
hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt
của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như : đói nghèo,
bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà
bình…Ngoài ra, mối liên hệ được biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể theo
điều kiện nhất định Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên
hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của sự vật hiện tượng,
mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động không ngừng theo nhiều cách thức khác
nhau. Do đó mà mối liên hệ còn mang tính đa dạng. Và trong mỗi sự vật hiện tượng có thể
bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong giai đoạn
hiện nay
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà trước hết là tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn 150 năm, Các Mác đã dự
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một
xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở
thành phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực lượng sản xuất
thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi hàng hoá còn bị giới hạn
trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp nên chưa có thị trường thế giới theo
nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc
cách mạng công nghiệp, đời sống kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự
cấp, tự túc và bế quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước kia được thay thế
bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Thế chiến thứ 2,
hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển
áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo lực để thống trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài
nguyên và tiêu thụ hàng hoá. Trong đó, mỗi nước đế quốc có một hệ thống thuộc địa riêng,
phân công lao động và quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu
không thoát khỏi tình trạng khó khăn trì trệ.
Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ thuật, lực lượng
sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng. Thêm vào đó là
thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ thống phân công lao động quốc tế
theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống phân công mới gọi là toàn cầu
hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc gia vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ
chất lượng mới.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản xuất, của tốc
độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa học, kỹ thuật
và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng nền kinh tế thị trường
trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa
trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện
diện nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các
quá trình tích luỹ về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để số lượng biến thành chất
mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực hoá đ• chuyển thành xu hướng toàn cầu hoá trong thời
đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực
lượng sản xuất chi phối.
Và trong đó đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát
triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tương tác lẫn
nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia
vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận
mệnh và con đường phát triển của mình. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày
càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay
toàn cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ chức kinh
tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động [ Thẩm Kỳ Như – Trung Quốc không làm bất
tiên sinh…Viện TTKH, Học viện CTQG HCM, H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển
mới chưa từng có. Lịch sử đã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
cũng không thể sản xuất được tất cả các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không
quên 100 năm về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi
mặt. Thành tựu có được như ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế
này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại không thể khác được. Chỉ có những quốc gia nào
nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát
triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát
triển.
II. cơ sở thực tế :
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội nhập.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động
tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường
quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững”.[Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 89]
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực
diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lường trước được, với những đặc điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng đều. Trên thế giới
đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng hoảng kinh tế – tài
chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ phát
triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây
Âu hiện không còn phát triển nhanh như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có
lối ra; các nước thuộc Liên Xô trước đây và nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
dài, vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển ngoạn mục;
Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ trước,
tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục; Nam á và Châu Phi vẫn chưa
thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nước trên thế giới với
những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho nhân loại và những
hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân lõi của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó
hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột
phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các
vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh
và các vật liệu công nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Công nghệ vật
liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ … mở ra một tiềm năng
mới cho loài người chinh phục tự nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất
ngày càng giải phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều
sản phẩm phục vụ xã hội.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả các dân
tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và tuỳ thuộc vào
nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính
toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đạt tới trình độ ngày càng cao. Phương châm kinh
doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, qua đó
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -