Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.88 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 – 1950), sự phát triển
nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng
sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả
chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất cả các quốc gia không phân biệt trình độ đã và đang hình
thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên
mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các tổ
chức lớn như WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự ra đời của các khu vực đồng tiền chung
Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên kỉ mới này, cuộc cách mạng công nghệ tiếp tục đi
sâu, mở rộng ứng dụng công nghệ tin học sẽ là động lực chính thúc đẩy hơn nữa quá trình hội
nhập kinh tế, toàn cầu hoá.
Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh tế của nước ta
không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá. Nhận thấy được tình hình kinh tế của đất
nước đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi
nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế
thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ chức quốc tế đang là vấn đề
được quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ” và “là bạn
của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ
chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập PECC (01/1995), ASEAN
(07/1995), ký kết hiệp định chung về hợp tác kinh tế với EU (7/1995), tham gia
APEC (11/1998), và đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị
Quyết về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra
tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản
sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Trang 1


Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà em rất tâm huyết, rất quan tâm và
đó cũng là lí do, là sự thôi thúc em chọn đề tài: “Việt Nam trong xu thế hội nhập
và phát triển dưới con mắt triết học”.
Và em hi vọng đề tài này sẽ giải đáp được phần nào thắc mắc về vấn đề hội
nhập và toàn cầu hoá ở nước ta hiện nay.
Trang 2
PHẦN 1
CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý luận triết học
Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình
khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và
cũng đồng thời khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối
liên hệ đó.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy
nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn
tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau
theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng
khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật,
của một hiện tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên hệ đều mang tính khách
quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ biến.
Bởi lẽ, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không
có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một
quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt
của đời sống xã hội. Chính vì thế mà hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu
hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và
đang trở thành vấn đề toàn cầu như : đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh

thái, dân số và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà bình…Ngoài ra, mối liên
hệ được biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể theo điều kiện nhất định
Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến
nhất, chung nhất.
Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt
của sự vật hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động không ngừng
Trang 3
theo nhiều cách thức khác nhau. Do đó mà mối liên hệ còn mang tính đa dạng. Và
trong mỗi sự vật hiện tượng có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không
phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong
giai đoạn hiện nay
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà
trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn
150 năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực.
Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị
trường, phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó,
phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực
lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi hàng
hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp nên chưa
có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức sản xuất TBCN ra
đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời sống kinh tế các
nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế quan toả cảng của các
địa phương, các dân tộc trước kia được thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang
tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Thế chiến thứ 2, hình thức quốc tế hóa chủ
yếu vẫn là phân công áp đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển áp dụng chiến tranh
xâm lược và bạo lực để thống trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu
thụ hàng hoá. Trong đó, mỗi nước đế quốc có một hệ thống thuộc địa riêng, phân

công lao động và quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu
không thoát khỏi tình trạng khó khăn trì trệ.
Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ
thuật, lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh
chóng. Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ
thống phân công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế
bằng hệ thống phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là
quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi
biên giới một quốc gia vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lượng mới.
Trang 4
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản
xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy
của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển
sâu rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao
động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ
giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn
cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các quá trình tích luỹ về số lượng đã
tạo ra một khối lượng tới hạn để số lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế
hóa, khu vực hoá đã chuyển thành xu hướng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay.
Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản
xuất chi phối.
Và trong đó đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới
tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có
quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia
toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là
các chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình.
Toàn cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau về vốn,
kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn cầu hoá kinh tế đã
cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và
toàn cầu ra đời và hoạt động [ Thẩm Kỳ Như – Trung Quốc không làm bất tiên

sinh…Viện TTKH, Học viện CTQG HCM, H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển
mới chưa từng có. Lịch sử đã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến
đâu, cũng không thể sản xuất được tất cả các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Chúng ta không quên 100 năm về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi
phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành tựu có được như ngày nay là nhờ vào mở
cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại
không thể khác được. Chỉ có những quốc gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận
dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước
từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát triển.
Trang 5
II.CƠ SỞ THỰC TẾ :
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội
nhập.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị
thế nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát
huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.[Trích văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 89] Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế
được đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức
tạp, khó lường trước được, với những đặc điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng
đều. Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc
khủng hoảng kinh tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực
thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều
năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh
như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước thuộc Liên Xô
trước đây và nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây
tăng trưởng tương đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển ngoạn mục; Đông Nam á
và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ trước, tuy

nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục; Nam Á và Châu Phi vẫn
chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ latinh có khá hơn song cũng
không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nước
trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn
cho nhân loại và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là
nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn
mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong
sản phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự
sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu
Trang 6
cầu của con người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công
nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Công nghệ vật liệu mới,
công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ … mở ra một tiềm năng
mới cho loài người chinh phục tự nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản
xuất ngày càng giải phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm,
tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống của
tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó
hữu cơ và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng.
Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đạt tới trình
độ ngày càng cao. Phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy
các nước làm phân xưởng của mình, qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi
dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy
quá trình quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hoá,
khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của
nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực, như Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB),
Liên minh Châu âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)…

Hiện nay, các nước lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo
đuổi chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn như
Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Mỹ…và cả một số nước vốn khép kín, theo mô hình tự
cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu mà
không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa
phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm
nghèo, chống tội phạm quốc tế…
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ,
do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh tế
phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều kiện với
những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao
Trang 7
vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm
phát triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau
lại, đấu tranh chống chính sách tăng cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích
của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
ở khu vực Đông Nam áđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua
cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998, song
vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý kinh tế của
mình, dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào
tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói
chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển
Thế giới ở vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ đang chứng kiến những
đổi thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần
xã hội. Toàn cầu hoá nổi lên như một trong những xu hướng chủ đạo chi phối hệ

thống quan hệ quốc tế hiện đại. Xét trên phương diện sản xuất vật chất xã hội, một
giai đoạn mới của lịch sử nhân loại đang từng bước quá độ từ xẫ hội gắn với nền
văn minh công nghiệp lên nấc thang phát triển cao hơn. Nấc thang phát triển này
được đặc trưng bởi công nghệ và cơ cấu kinh tế mới – kinh tế tri thức, trên cơ sở áp
dụng rộng rãi các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, các phương tiện truyền
tin hiện đại và máy tính.
Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phổ biến theo
hướng nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động,
những mô hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học, kỹ thuật. Trong đó
các nước đang phát triển tham gia với động lực cơ bản là nhằm mở rộng thị trường
xuất khẩu, tạo mối liên kết thương mại giữa các quốc gia, các khu vực với nhiều
hình thức phong phú, hoạt động có hiệu quả. Và cho đến nay, một số các quốc gia
đang phát triển đã đạt được những tiến bộ vượt bậc ví như : ở khu vực Đông Nam á
Trang 8
có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển mạnh sang kinh tế hướng về xuất khẩu
và thu được những thành quả tốt.
Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết thương mại thì chính sách tỷ
giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan
đã làm cho hoạt động thương mại tại các nước mở rộng thị trường và tăng khối
lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là thị trường
vốn có mối liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ hội hội nhập
với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm soát đối với đồng
vốn chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao
dịch thông qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận thả nổi đồng tiền, đã
làm cho đồng vốn đổ vào các nước này tăng nhanh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc
ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút
vốn, một mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ từ đó cải thiện mức
thâm hụt ngân sách. Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo niềm tin cho các

chương trình phát triển hỗ trợ cho những quốc gia thành công trong cải cách kinh tế
và mở cửa.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức
thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh to
lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào.
Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và
công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hoá nói
chung và toàn cầu hoá kinh tế nói riêng thành quá trình tự do hoá kinh tế và áp đặt
chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các nước, nhất là các nước
đang phát triển, đều phải tìm kiếm các đối sách để thích ứng với quá trình toàn cầu
hoá đa bình diện và đầy nghịch lý.
Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và
phụ thuộc đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành được độc
lập dân tộc và chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế – xã hội của các nước chậm
Trang 9
phát triển và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại về
sự tụt hậu so với trình độ của các nước phát triển. Khoảng cách ấy không những
không được khắc phục, rút ngắn mà còn thực sự trở thành nguy cơ chia cắt thế giới
làm hai nửa khác biệt: vài chục quốc gia tiên tiến đã vượt hơn 100 quốc gia thuộc
“thế giới thứ ba” hàng vài thập niên phát triển hoặc gấp trăm lần chênh lệch về thu
nhập bình quân GDP tính theo đầu người.
Các nước này tuy đã giành được độc lập, đó là một thành quả vô cùng quan
trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho nên, họ
vẫn bị phụ thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản : từ khai thác – sử dụng
tài nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – công nghệ đến thị trường tiêu thụ
cũng như phân công lao động quốc tế… Các nước đang phát triển đang phải đối
diện trước thách thức của nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Bởi một cơ cấu
kinh tế còn nhiều bất hợp lý, trong đó tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị
thu nhập quốc dân, cộng thêm với trình độ thấp kém về năng suất lao động, cho nên

tốc độ phát triển kinh tế của đa số các nước đang phát triển thấp và bấp bênh. Trong
thập niên 60, các nước đang phát triển đạt mức tăng trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt
5,3% thì đến thập niên 80 là 2% và những năm vừa qua của thập niên 90 tuy tình
hình có được cải thiện, song cũng chỉ đạt mức trên 4% trong khi tỉ lệ tăng dân số
vẫn còn ở mức trên 2%/năm.
Không những thế vấn đề nợ nước ngoài cũng trở thành gánh nặng đối với các
nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước ngoài
của các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ 6 tỉ năm 1995 lên
trên 2000 tỉ đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng số nợ đã vượt xa so
với tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các nước đang
phát triển không chỉ được biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà còn là tình trạng
nhiều nước không có khả năng thanh toán dù chỉ là lãi suất hằng năm, trong khi dó
tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và không hề có dấu hiệu giảm bớt.
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương
mại giữa các nước đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao đổi không
ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.
Trang 10
Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản phẩm
của các nước đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát triển. Qua con
đường đầu tư, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, các cường quốc tư bản không chỉ
thu lợi do bán các thiết bị công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm mà còn khống chế
nhiều huyết mạch kinh tế quan trọng của các nước đang phát triển. Còn các nước
đang phát triển, do áp lực bức bách của nhu cầu cải thiện đời sống kinh tế, đã dễ
dàng chấp nhận “chào đón” bất kỳ sự cải tiến kỹ thuật – công nghệ nào, bất kỳ
nguồn vốn tư bản nào. Sự đơn giản dễ dãi này, mặc dù trước mắt có thể thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, song rất có thể phải trả giá đắt bởi các hậu quả kinh tế xã hội
khó lường. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật – công nghệ, cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế –
xã hội đang đặt ra những tiêu chuẩn phức tạp hơn để có thể tận dụng mọi cơ hội
phát triển cho cả ngày mai, không chỉ vì những cái lợi tức thời trước mắt.
Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển và

các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau thì sao?
Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nước này đều có sự tương đồng
về trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân lực và thị
trường…trong khi tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật – công nghệ và tri thức quản lý hiện
đại. Hơn nữa, những lợi thế nêu trên dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ và toàn cầu hoá hiện nay không còn có vai trò, ý nghĩa nổi bật như các
thập niên trước đây. Điều đó cho thấy, các nước đang phát triển cần thiết phải có
cách tiếp cận mới trong hợp tác cùng nhau. Chỉ có như vậy, khuôn khổ và cơ chế
hợp tác mới thực sự trở nên hữu ích và thiết thực đối với các nước đang phát triển.
Đồng thời, nó đóng góp và việc phối hợp các nỗ lực chung của các nước đang phát
triển nhằm từng bước khắc phục và hạn chế những hậu quả tiêu cực của toàn cầu
hoá cũng như trong quá trình xúc tiến quan hệ với các nước phát triển.
Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhưng đó
cũng là một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát triển,
thôi thúc họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực và kết
hợp với chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện
tiên quyết – chìa khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong kỷ nguyên toàn cầu
hoá hiện nay.
Trang 11
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước
không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế
thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những
luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời
phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác
những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên
môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công
cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN

1995, tr74)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ
trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia
Phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là
đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các
nước trong cộng đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng
cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực
hiện chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta.
Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội
lần thứ VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi
mới nhằm đưa nước tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển khai
Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi
nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước
này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho
việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo,
nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung
ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương
và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy
Trang 12

×