Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ - Hai cốt cách và thân phận Nho sĩ vào mở đầu triều Nguyễn doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.14 KB, 8 trang )

Cao Bá Quát và Nguyễn Công
Trứ - Hai cốt cách và thân phận
Nho sĩ vào mở đầu triều Nguyễn




Khác với Cao, Nguyễn không có một sự nghiệp thơ chữ Hán với chỉ 1 bài được lưu
lại
(5)
. Tất cả, gồm vài chục bài thơ Nôm Đường luật, và trên 60 bài là hát nói, là ca trù. Với
thơ Nôm, thỉnh thoảng Nguyễn có giọng bất bình, bi phẫn: Đéo mẹ, nhân tình - đã biết rồi.
Nhạt như nước ốc, bạc như vôi. Tiền tài hai chữ son khuyên ngược. Nhân nghĩa đôi đường
nước chảy xuôi. Nghe như chọc giận tai làm điếc. Giận đã căm gan mỉm miệng cười
Nhưng đó chỉ là một tỷ lệ nhỏ, so với thơ nói về chí trai và khát vọng lập công danh. Có
chán đời, nhưng vẫn bám mà không bỏ đời. Bởi với chí lập thân dẻo dai ở tuổi tráng niên,
và ngót 30 năm dấn thân, Nguyễn đã có cơ hội hành động, và dồn hết tâm, sinh lực vào
hành động, trong khi Cao đã phải rời cuộc sống buồn chán, vô vị của mình ở tuổi 47. Một
sự nghiệp văn chương, đó là điều không thể không có, đối với bất cứ ai là Kẻ Sỹ; nhưng với
Nguyễn Công Trứ, sự nghiệp đó lại đi theo một ngã rẽ khác với Cao Bá Quát, chủ yếu
thuộc vào những năm cuối đời sau một hành trình ngót 30 năm hăm hở bỗng bất chợt nhận
ra cái vô nghĩa, hư vô của một cuộc dấn thân. Vậy là còn lại được những gì cho Nguyễn,
khi đã hết hoặc đã chán con đường công danh, “như bóng đèn, như mây nổi”? Một mẫu
hình mới của nhà Nho - hành lạc, hưởng lạc đã xuất hiện qua chân dung Nguyễn Công Trứ,
ứng với một thời rạn vỡ các quan niệm chính danh, chính thống của Nho giáo lấy tu thân, tề
gia làm căn bản. Con người với những lạc thú cá nhân đã xuất hiện, và tìm đến sự thể hiện
mình trong thơ, không phải thơ Đường luật Trung Hoa, mà là thơ Nôm dân tộc; và không
chỉ là Nôm để ngâm mà còn là ca, là ca trù, là hát nói, như là một thú chơi, với rượu, với
thơ, với đàn sáo, với thanh và sắc, với ca kỹ, người hầu. Chơi cho lịch mới là chơi. Chơi
cho đài các, cho người biết tay Cái thú chơi từ thuở thiếu niên đã từng là niềm đam mê
của Nguyễn, chơi nhưng vẫn không ngừng theo đuổi ráo riết mộng công hầu, lẽ tự nhiên


đến tuổi già, ngoài 70 nó mới biểu lộ như một thăng hoa, trong cái cảnh:
Gót tiên chơi đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng.
Cả trong sự hoan lạc thật là dẻo dai, nồng nàn ở tuổi 73 trong chốn buồng the:
Kìa những người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ tơ đào còn mảnh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất toạ lê hoa áp hải đường
Tân nhân lục vấn lang niên kỷ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
(Vợ hỏi chồng (năm nay) bao nhiêu tuổi,
- Năm mươi năm trước đây ta hai mươi ba)
nó làm rạng rỡ một chân dung Nguyễn, như một biểu trưng cực kỳ đột xuất và độc
đáo cho một thái độ sống, rồi sẽ làm nên một khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật trong
văn chương dân tộc, vốn đã hình thành từ cuối thế kỷ trước với Phạm Thái, và nối về sau
với Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, rồi tiếp đó Tản Đà - người mở đường cho văn học hiện
đại.
Ở tuổi 70 vẫn còn có thời gian gần 10 năm cho Nguyễn làm một cuộc đổi mới mình
thật là ngoạn mục, ở tư cách con người hành lạc, con người hưởng thụ, thay cho con người
dấn thân vì một vương triều mà ông rất mơ hồ trong đánh giá vai trò đại diện của nó: Cuộc
hành lạc bao nhiêu là lãi đấy - Nếu không chơi thiệt ấy ai bù; Nhân sinh bất hành lạc -
Thiên tuế diệc vi thương (Đời người không hành lạc - Sống hàng ngàn năm cũng như chết
non); Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy - Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười - Thôi công
đâu chuốc lấy sự đời - Tiêu khiển một vài chung lếu láo
Bộ phận thơ viết về con người hành lạc và các thú chơi này ở Nguyễn Công Trứ tôi
nghĩ số lớn là được viết vào phần cuối đời. Đoán vậy bởi thơ văn Nguyễn không để lại năm
tháng viết. Đương nhiên là thời hàn vi và làm quan cũng không thiếu, đối với một người
ham chơi như Nguyễn. Nhưng hẳn phải vào cuối đời, khi đã chấm hết mọi phận sự và công
danh, khi đã ngấm mọi vinh nhục “khóc lộn cười”, trong cõi “trần ai”, Nguyễn mới có dịp
tổng kết để đến với một triết lý mang ý vị thế giới quan và nhân sinh quan nghiêm chỉnh:

Đời rút lại chỉ là một cuộc chơi lớn; một cuộc chơi trong cõi nhân sinh “ba vạn sáu nghìn
ngày”, như một “miếng da lừa” bị co kéo giữa hai phía của bậc thầy chủ nghĩa hiện thực
phương Tây Balzac - người cùng thời với Nguyễn, khiến con người chớ dại mà “tiêu
nhăng” (Nhân sinh ba vạn sáu nghìn ngày - Vạn sáu tiêu nhăng hết cả rồi), con người phải
khôn ngoan mở “rộng đất chơi” (Nhắn con Tạo hóa xoay thời lại - Để khách tang bồng
rộng đất chơi) Triết lý ấy ứng vào cái thời ấy, cái thời đất nước đang âm thầm tích tụ cho
một cuộc thay đổi, khi cái cũ đã không còn lý do để tồn tại, và cái mới chỉ vừa hé lộ trong
các nền móng vật chất và tinh thần của xã hội.
Nếu Cao Bá Quát - người từng tâm nguyện Nhất sinh đê thủ bái hoa mai (Một đời
chỉ cúi đầu trước hoa mai), người từng nuôi ý nghĩ: đã là hoa thì phải là sen, đã là cây thì
phải là lan - với cái chết của mình làm một kết thúc bi kịch của cá nhân và đánh dấu sự tàn
ngược của một thể chế chính trị đã hết tư cách đại diện cho dân tộc, thì Nguyễn Công Trứ
với cái sống “ngoài vòng cương toả” của mình lại là sự khai mở cho một nhân sinh quan
mới, cũng đã có mầm mống khai sinh trong chính thời đại.
Cái thời hình thành nền kinh tế hàng hoá; mở rộng sự giao lưu, buôn bán; xuất hiện
những trung tâm kinh tế mới như Hội An, Kinh Kỳ, Phố Hiến Cái thời đồng tiền đã có thể
làm lung lay mọi nền tảng đạo lý cũ và cái cá nhân với yêu cầu giải phóng đã hiện diện với
sức công phá tiềm tàng của nó.
Một người sống gần gũi với dân, rồi làm lãnh tụ của nông dân trong một cuộc khởi
nghĩa với độ chênh lực lượng rất lớn, hẳn biết chắc là thất bại mà vẫn dấn vào. Ông đã chọn
một bế tắc để giải quyết một bế tắc. Nói theo Phan Khôi: “Con người ấy (CBQ) mà ở vào
thời đại ấy trong đất nước này, nếu chẳng phải thi đỗ làm quan cho tột bậc đi thì còn làm gì
nữa mà không làm giặc!”
(6)
.
Một người đi với triều đình, tưởng là trọn vẹn “nghĩa quân thân”, cuối cùng ở tuổi
ngoài 70, bỗng thức nhận ra sự vô nghĩa của những gì mình theo đuổi.
Vậy là tuổi trẻ của Nguyễn và Cao đều có chí, và đều có tài. Tài trên nhiều phương
diện đã được Nguyễn thi thố, dẫu còn lâu mới hết công suất. Tài của Cao chưa có cơ hội
thực hiện, vì bị bóp chết từ trong ý nguyện, bởi những va vấp, xung đột do tính cách bất

tuân hoàn cảnh và người trên. Tài của Nguyễn dồn vào chí kinh bang tế thế, có cái là vì vua,
có cái là vì dân, mà sự đối nghịch của nó ông chưa từng phân biệt; cho đến cuối đời, hoặc
những lúc ở “ngoài vòng cương tỏa” mới tìm đến thơ văn như một giải thoát; và với khối
thơ văn đó, ông tạo được cho mình một gương mặt mới. Còn Cao, thiếu hoàn cảnh dấn
thân, Cao dồn nội lực tâm nguyện vào văn chương; và nhờ thế kho tàng văn học dân tộc có
được một di sản quý giá; còn cuộc đời riêng của ông thì bị ngắt cụt giữa chừng.
Tài và tình. Nguyễn đã là người góp phần khơi rộng rồi đóng vai trò chủ chốt trong
việc duy trì và khẳng định một thể văn mới trong sinh hoạt văn chương và nghệ thuật dân
tộc. Nguyễn đã tạo một lối rẽ cho con người được trở về với chính cá nhân mình, chính cái
tôi riêng của mình trong khát vọng hưởng thụ mà hệ tư tưởng chính thống Nho giáo đã bóp
nghẹt và vắt kiệt trong một xã hội phong kiến kéo quá dài trong lịch sử. Cao - hậu sinh,
nhưng vẫn là người cùng thời với Nguyễn, lại hướng theo một con đường khác - đó là cái
tình trong khuôn khổ thế giới nhân sinh quen thuộc: gia đình, đất nước, quê hương, bè bạn,
đồng liêu và thế giới những người nghèo khổ luôn là môi trường sống quen thuộc vây bọc
quanh ông. Còn nữa. Khác và hơn Nguyễn, ông còn có được mấy tháng đi “dương trình
hiệu lực”, nhờ vậy mà tầm mắt được mở rộng, qua những gì được thấy trong chuyến viễn
dương mà có dịp đối sánh với quê nhà, và nhận ra cái vô vị của văn chương cử tử. Chính vì
chống lại nó mà ông đã không vào được chốn công môn; rồi còn bị hại vì nó. Nhưng văn
chương vẫn cứ phải là phương tiện cho ông giãi bày con người mình, bởi ông là Kẻ Sỹ. Và
sự bất lực của nó rồi sẽ được ông cho thay bằng gươm khi ông quyết liệt làm giặc. Tìm
nguyên nhân dồn ông vào tình thế ấy đã có vài ba giả thuyết; nay vẫn cần tiếp tục đi tìm.
Nhưng dẫu nguyên nhân là gì thì cuộc đời Cao Bá Quát cũng đã được khẳng định từ hai
phương diện: đứng cùng nhân dân trong một cuộc khởi nghĩa thất bại với cái chết bi thảm
ba họ của mình. Và một sự nghiệp thơ sáng rõ con người tư tưởng, con người đạo đức, con
người nhân cách của ông trong bi kịch một kẻ sinh bất phùng thời.
Còn Nguyễn Công Trứ là sự dấn thân trong những được- mất của một đời hành
động, có được có mất; và cái được lớn là những bài học nhân sinh rút ra từ bối cảnh một
thời đại đối nghịch và thù địch triệt để đối với tài năng, phẩm giá và lương tâm con người.
Một thời đại khó sống. Cuối cùng, cả hai - hai gương mặt Kẻ Sỹ, dẫu với tất cả mọi khác
biệt, vẫn cứ là hai khối bi kịch, hai nạn nhân của một thời tối tăm, bế tắc. Cái thời giả định

nếu không có sự xâm lược của phương Tây thì cũng đã chín muồi cho một nhu cầu khẩn
thiết phải thay đổi, đang nung nấu một giải pháp hẳn chắc không khác mấy với phong trào
Tây Sơn mà nó đã tận diệt. Lịch sử nếu đã có một bất ngờ kỳ diệu với Quang Trung cuối
thế kỷ XVIII, thì biết đâu lại không có một bất ngờ còn lớn hơn vào cuối thế kỷ XIX nếu
không có cuộc xâm lược chóng vánh của chủ nghĩa thực dân phương Tây!
*
Văn học trung đại Việt Nam đã đến được đỉnh cao vào nửa sau thế kỷ XVIII - nửa
đầu thế kỷ XIX. Lịch sử văn học thường ghép hai nửa thế kỷ này vào cùng một thời kỳ. Đó
là một cách chia. Cũng có thể có những cách chia khác, bởi hai nửa thế kỷ vừa là sự tiếp tục
nhau, vừa có những đặc điểm riêng do quy định của lịch sử. Năm 1820 khi Nguyễn Du mất
là khi Nguyễn Công Trứ nhận chức quan đầu tiên để vào triều. Cả hai là đồng hương và có
cùng một thời để sống với nhau. Nguyễn Du (1766-1820), người sống trọn vẹn và đến tận
cùng bi kịch lịch sử nửa sau thế kỷ XVIII hỗn loạn, rối ren, thay vua đổi chúa, khiến cho
mọi tầng lớp trí thức Nho học không biết chọn ai để mà thờ, kể cả chọn nhầm hoặc chọn
đúng đều ngầm chứa biết bao tai họa. Thế kỷ XIX trong hai thập niên mở đầu của nó, với
Nguyễn Du, xem ra cũng không phải là những năm thanh thản mà chứa đầy tâm sự. Và như
vậy, với thơ chữ Hán gồm 3 tập, với Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn
Du đã là người có sứ mệnh kết thúc thế kỷ XVIII và mở đầu thế kỷ XIX trong sự nhất quán
của một thế giới nghệ thuật mà “những điều trông thấy” là kết đọng trăm nghìn kiếp sống
nhân sinh qua một tấm lòng nghĩ suốt và xuyên thấu nghìn đời. Với Nguyễn Du văn học
Việt Nam thời trung đại đã đạt đến trình độ cổ điển, mà trước ông, kể từ thế kỷ XVIII trở về
trước còn chưa ai vươn tới, và sau ông vẫn không ai sánh bằng.
Cũng ở tư cách là những người mở đầu thế kỷ XIX, hậu sinh và tiếp bước Nguyễn
Du, cả Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát sẽ có một lối khác, gần như là độc đạo cho sự
lập thân, trong đối diện với một chính quyền chuyên chế, có khác với Nguyễn Du là
những chìm nổi, trôi dạt, bấp bênh, trong tan rã của một thời đại, mà không một triều đại
nào khiến cho ông tin cậy, gửi gắm, gồm Lê - Trịnh (quá rối ren trong vận mạt của nó),
Nguyễn Tây Sơn (quá ngắn ngủi mà ông chưa kịp hiểu) và Nguyễn Gia Long (dường như
chưa báo hiệu một triển vọng gì tốt lành). Còn với Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát, cả
hai sống trọn trong mở đầu một vương triều, nên chỉ một lựa chọn, hoặc thuận theo nó,

hoặc bị nó bóp chết. Những dằn vặt, đấu tranh trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn và
Cao, do thế là đơn giản hơn. Cả hai sẽ là đại diện cho thân phận trí thức Nho sĩ, nung nấu
bộc lộ chí hướng của mình trong một bối cảnh tưởng có thể xem là phút lóe sáng cuối
cùng của thời đại phong kiến trước khi chuyển sang xã hội thuộc địa. Cả hai, trong bối
cảnh ấy, và với chí hướng ấy, khó đủ điều kiện cho họ vươn đến tầm một nghệ sĩ lớn như
bậc tiền bối Nguyễn Du - để nói lên tiếng nói lớn, khẩn thiết, thẳm sâu của thời đại, chứ
không phải mộttriều đại.

Nửa sau thế kỷ XIX, kể từ 1858 đến 1884, và sau 1884, khi đất nước mất dần vào
tay chủ nghĩa thực dân, văn học trở lại chủ đề yêu nước quen thuộc, có lịch sử hàng nghìn
năm, trên những lập trường khác nhau, hoặc đứng về phía triều đình, hoặc đứng về phía
nhân dân, hoặc phân vân giữa hai phía, trong đó không thiếu những tấm gương khẳng
khái tìm đến cái chết như Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Cao, Nguyễn Tri Phương, Hoàng
Diệu, Phan Đình Phùng Trong tăm tối và bi thương của lịch sử, một số ít Nho sĩ đã có
hoàn cảnh nhận rõ tình thế bất lợi của cuộc chiến, mà khao khát đi tìm một con đường
khác, con đường mở mang công nghệ và buôn bán, tiếp nhận văn minh phương Tây, tránh
đối đầu về sức mạnh quân sự với thực dân như Phan Thanh Giản (1796-1867), Phạm Phú
Thứ (1821-1882), Đặng Huy Trứ (1825-1874), Nguyễn Lộ Trạch (1853-1898) Đặc biệt
là sự xuất hiện Nguyễn Trường Tộ (1828-1871), người do có hoàn cảnh tiếp xúc sớm mà
có sự trải biết, “thực mục sở thị” văn minh phương Tây nên đã trở thành gương mặt tiêu
biểu nhất cho sự thức nhận tình trạng lạc hậu, thấp kém và bất lực của xã hội phong kiến
phương Đông, trong một thế giới đã chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa đế quốc.
Ánh sáng được Nguyễn Trường Tộ tiếp cận và tiếp nhận rồi sẽ tỏa sáng vào 30 năm sau,
qua một thế hệ các nhà Nho - chí sĩ trong phong trào Duy tân và Đông Kinh nghĩa thục
như Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872-1926), Lương Văn Can (1854-
1927) , những người tuy vẫn với gốc gác và cốt cách nhà Nho nhưng lại có sứ mệnh kết
thúc lịch sử và lịch sử văn học trung đại, và mở đầu thời kỳ hiện đại. Bên cạnh những tên
tuổi không quay lưng mà dấn thân với thời cuộc là một phân số rời bỏ quan trường, sớm
hoặc muộn, về ở ẩn, tìm thú vui trong văn thơ thoát tục, hưởng lạc, học theo cách sống
cuối đời của Nguyễn Công Trứ như Dương Khuê (1839-1902), Chu Mạnh Trinh (1862-

1905); hoặc chọn thái độ trào phúng làm vũ khí trong tâm thế bất lực, không chấp nhận
thực trạng Á Âu xáo trộn như Nguyễn Khuyến (1835-1909), Tú Xương (1871-1907).
Năm 1802 - năm Gia Long lên ngôi đến 1902 - năm Toàn quyền Paul Doumer
khánh thành chiếc cầu mang tên mình bắc qua sông Nhị Hà (nay là cầu Long Biên) như
một biểu trưng, để quảng cáo cho Văn minh Đại Pháp - chẵn một thế kỷ với mở đầu là sự
ra đi của Nguyễn Du, cùng con đường vào đời của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, và
với sự tiếp tục trong nối dài của mấy thế hệ Kẻ Sỹ đứng trước họa mất nước, đó là chặng
cuối cùng đầy giông bão chất chứa một cuộc chuyển mình, để có một sinh thể khác, sau
chín trăm năm trong cùng một mô hình ổn định của văn hóa- văn minh Đại Việt

×