Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

luận văn thạc sỹ giáo dục học Nguyễn Thị Thanh Thắm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.4 MB, 113 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
  


Nguyễn Thị Thanh Thắm






THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA
ĐIỆN TỬ PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ
LỚP 11- NÂNG CAO






LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC











Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
  



Nguyễn Thị Thanh Thắm





THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA
ĐIỆN TỬ PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ
LỚP 11 – NÂNG CAO



Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học hóa học
Mã số : 60 14 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRANG THỊ LÂN










Thành phố Hồ Chí Minh - 2009


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ rất lớn từ thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè, các em HS và những người
thân trong gia đình.
Trước hết, tôi xin gởi lời tri ân sâu sắc đến TS. Trang Thị Lân. Sự hướng dẫn
tận tình và tâm huyết cùng lòng thương mến của cô đã giúp tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin gởi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Trịnh Văn Biều, người đã gi
úp đỡ tôi
rất nhiều, cho tôi những lời khuyên bổ ích và sự động viên tinh thần rất lớn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và cán bộ của phòng khoa học
công nghệ và sau Đại Học trường Đại học Sư phạm TP.HCM đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình học.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã tận tình giảng dạy tôi trong suốt
thời gian học tập tại trường.


Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các em HS trường THPT Gia
Định, THPT chuyên Hùng Vương, THPT Lê Minh Xuân, THPT Thạnh Lộc và các
anh chị em đồng nghiệp khác đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực nghiệm sư phạm.
Tôi xin hết lòng biết ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đó là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn.


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đang
phát triển như vũ bão, nhiều lĩnh vực khoa học kĩ thuật mới, nhiều nghề mới đang
hình thành và phát triển rất nhanh. Điều này đòi hỏi phải có sự đổi mới về mục tiêu,
nội dung và phương pháp đào tạo. Trong đó trọng tâm là đổi mới về phương phá
p
dạy học và chú ý đến phương pháp tự học. Như Bác Hồ đã từng nói: “dạy học lấy tự
học làm cốt”.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (Ban hành kèm theo quyết định số
201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của thủ tướng chính phủ), mục 5.2
nêu rõ “Đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ truyền thụ tri
thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong
quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự t
hu nhận
thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực
của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên
trong quá trình học tập,…”[15].
Điều 24.2. Luật giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc điểm của

từng lớp học, m
ôn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh.”[22].
Như vậy việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông
đư
ợc diễn ra theo bốn hướng chủ yếu:
- Phát huy tính tích cực, tự giác chủ động học tập của học sinh.
- Bồi dưỡng phương pháp tự học.
- Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Vậy làm sao có thể truyền “ngọn lửa tự học cho học sinh”? Làm sao
tạo niềm
say mê hứng thú cho các em? Có lẽ không thể thiếu được vai trò của CNTT.
Chúng ta đang sống trong thời đại của nền kinh tế tri thức. Thời đại mà
CNTT được nhúng ghép vào hầu hết các sản phẩm và dịch vụ kinh tế xã hội. Cho
nên việc ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung, vào nâng cao tính tích cực trong
dạy học nói riêng là xu hướng tất yếu của thời đại. Theo chỉ thị số 29/2001/CT-
BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 30/7/2001 về việc tăng
cường giảng dạy đào
tạo và ứng dụng CNTT trong giáo dục, một trong bốn mục
tiêu đặt ra là: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo ở các
cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ
đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở các môn học”. Tuy
nhiên vấn đề này hiện nay vẫn chưa đư
ợc nhiều người nghiên cứu.
Chính vì những lí do trên đã thôi thúc em chọn đề tài: THIẾT KẾ SÁCH
GIÁO KHOA ĐIỆN TỬ PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ LỚP 11- NÂNG CAO với
mong muốn phát huy tính tự giác, chủ động sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự
học, tạo niềm hứng thú học tập cho học sinh.

2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế SGK điện tử phần hóa học vô cơ lớp 11 nâng cao nhằm hỗ trợ việc
tự học của học sinh THPT.
T
hực nghiệm sư phạm để đánh giá chất lượng và hiệu quả của e-book.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
Việc thiết kế SGK điện tử nhằm hỗ trợ hoạt động tự học của học
sinh lớp 11
trường THPT.
 Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy và học hóa học ở trường phổ thông.
4. Nhiệm vụ ng
hiên cứu
 Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.
 Nghiên cứu SGK lớp 10, lớp 11, lớp 12.
 Nghiên cứu thực trạng việc sử dụng e – book vào dạy và học bộ môn hóa
học ở trường THPT.
 Nghiên cứu một số phần mềm để thiết kế e –book.
 Thiết kế SGK điện tử phần hóa học vô cơ lớp 11 (nâng cao).
 Thực nghiệm sư phạm.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phần hóa học vô cơ lớp 11 (nâng cao THPT).
6. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế SGK điện tử có nội dung đầy đủ, hấp dẫn, giao diện đẹp sẽ kích
thích hứng t
hú học tập, hỗ trợ tốt cho HS tự học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
7. Phương pháp nghiên cứu
 Đọc và nghiên cứu tư liệu.
 Tổng hợp tư liệu.

 Phương pháp điều tra.
 Phân tích và tổng hợp.
 Thực nghiệm sư phạm.
 Phương pháp xử lí thông tin.
8. Những đóng góp mới của đề tài
 Sử dụng C
NTT thiết kế các bài học dưới dạng e-book, hỗ trợ HS tự học,
tự nghiên cứu.
 Giúp GV có nguồn tư liệu phong phú để giảng dạy chương “Nhóm nitơ”
và chương “Nhóm cacbon”.






Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, với sự phát triển của Internet chỉ cần tìm trên mạng là đã có rất
nhiều các website về hoá học nhưng chủ yếu đều là tiếng Anh, điều này gây trở ngại
lớn trong việc tìm kiếm tri thức của HS phổ thông. Các website của các trường
THPT phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu các thông tin chung về trường,
trợ gi
úp phụ huynh theo dõi điểm số của HS,… mà không có các dịch vụ liên quan
đến học trực tuyến. Một số website luyện thi trực tuyến thì lại thu phí; còn các
website khác thì mức độ tin cậy lại không đảm bảo, đòi hỏi HS phải biết chọn lọc
thông tin để tiếp nhận nếu không sẽ rơi vào tình trạng bội thực thông tin nhưng lại
đói kiến thức. Trên mạng có rất nhiều e- book nhưng chủ yếu là kênh c

hữ, ít sinh
động.
Bên cạnh đó, số lượng đề tài về nghiên cứu thiết kế website tự học trong các
khóa luận và luận văn tốt nghiệp đến nay chưa nhiều. Sau đây là một số khoá luận
và luận văn tốt nghiệp chuyên ngành hóa học, trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh và
ĐHSP Hà Nội:
1. Hỉ A Mổi (2005), Thiết kế website tự học môn hóa học lớp 11 chương trình
phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.

2. Phạm Dương Hoàng Anh (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ
cho việc học tập và củng cố kiến thức môn Hóa học phần Hiđrocacbon không
no mạch hở dành cho học sinh THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
3. Nguyễn Thị Thanh Hà (2006), Ứng dụng phần mềm Macromedia Flash và
Macromedia Dreamver để thiết kế website về lịch sử hóa học 10 góp phần
nâng cao chất lượng dạy học, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
4. Phạm Duy Nghĩa (2006), Thiết kế Web site phục vụ việc học tập và ôn tập
chương nguyên tử cho học sinh lớp 10 bằng phần mềm Macromedia Flash và
Dreamweaver, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
5. Nguyễn Ngọc Anh Thư (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để tạo trang web hỗ trợ
cho học sinh trong việc tự học môn hóa học lớp 11 nhóm Nitơ chương trình
phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
6.
Phạm Thị Phương Uyên (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX 2004 và Macromedia Flash MX 2004 thiết kế website hỗ
trợ cho việc học tập và củng cố kiến thức cho học sinh môn hoá học nhóm oxi
– lưu huỳnh chương trình cải cách, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
7. Đỗ Thị Việt Phương (2006), Ứng dụng Macromedia Flash MX 2004 và
Dreamweaver MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho hoạt động tự học hoá

học của học sinh phổ thông trong chương halogen lớp 10, Khóa luận tốt
nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
8.
Lê Thị Xuân Hương (2007), Thiết kế website hỗ trợ việc dạy và tự học
chương Halogen lớp 10 THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
9. Trịnh Lê Hồng Phương (2008), Thiết kế học liệu điện tử chương oxi – lưu
huỳnh lớp 10 hỗ trợ hoạt động tự học hóa học cho học sinh trung học phổ
thông, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
10.
Nguyễn Thị Ánh Mai (2006), Thiết kế sách giáo khoa điện tử (E-book) các
chương về lý thuyết chủ đạo sách giáo khoa hoá học lớp 10 THPT, Luận văn
Thạc sĩ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Thu Hà (2007), Thiết kế sách giáo khoa điện tử lớp 10 – nâng
cao chương “ Nhóm halogen”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP TP Hồ
Chí
Minh.
12. Trần Tuyết Nhung (2007), Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “ Dung
dịch – Sự điện li” lớp 10 chuyên hóa học, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP
TP Hồ Chí Minh.
Các website này đều có điểm chung là giúp HS có một công cụ tự học hiệu
quả. Mặc dù vậy, còn tồn tại một số vấn đề sau:
- Các website chủ yếu được xây dựng trên phần mềm Dreamweaver.
- Phần tư liệu mỗi bài học chưa phong phú.
- Các bài học chưa phân rõ mục lục để thuận tiện tìm kiếm trong quá trình
học. HS xem từng phần phải kéo hết toàn bài.
- Phần bài tập còn hạn chế.
1.2. Đổi mới phương
pháp dạy và học
1.2.1. Phương pháp dạy học
Theo TS Trịnh Văn Biều [5], PPDH là một trong những thành tố quan trọng

của quá trình dạy học. Cùng một nội dung nhưng HS có hứng thú, tích cực hay
không, có hiểu bài một cách sâu sắc hay không, phần lớn phụ thuộc vào PPDH của
người thầy. PPDH có tầm quan trọng đặc biệt nên nó luôn luôn được các nhà giáo
dục quan tâm.
PPDH là cách thức thực hiện phối hợp, thống nhất giữa người dạy và người
học, nhằm thực hiện tối ưu các nhiệm vụ dạy học. Đó là sự kết hợp hữu cơ và
thống
nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học.
PPDH theo nghĩa rộng bao gồm:
+ Phương tiện dạy học.
+ Hình thức tổ chức dạy học.
+ PPDH theo nghĩa hẹp.
1.2.2. Định hướng
đổi mới phương pháp dạy học
Định hướng đổi mới trong phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12-1996), được thể chế hóa trong Luật giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong các
chị thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt chị thị số 14 (4-1999).
Luật giáo dục, điều 28.2, đã ghi “phương pháp giá
o dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho HS”[22].
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ
động, chống lại thói quen học tập thụ động.
1.2.3. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
a) Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS

Trong phương pháp tổ chức, người học – đối tượng của hoạt động “dạy”,

đồng thời là chủ thể của hoạt động “học”- được cuốn hút vào các hoạt động học tập
do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ
chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV sắp đặt. Được đặt vào

những tình huống thực tế của đời sống, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm
thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được
kiến thức, kỹ năng mới, vừa nắm được phương pháp làm ra kiến thức, kỹ năng đó,
không rập theo những khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng
tạo.
b)
Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy
học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kỹ năng thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho
họ lò
ng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ
được nâng lên gấp bội.
c) Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Lớp học là môi trường giao tiếp thầy-trò, trò-trò, tạo nên mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo
luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhâ
n được bộc lộ, khẳng định hay bác
bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn
hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy cô giáo.
d) Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Trước đây GV giữ độc quyền đánh giá HS. Trong phương pháp tích cực, GV
phải hướng dẫn HS phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên
quan với điều này, GV cần tạo điều kiện thuận lợi để HS được tham gia đánh giá

lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều c
hỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho
sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho HS.
Nhìn chung từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, GV không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, GV trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực chiếm
lĩnh nội dung học tập,
chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo
yêu cầu của chương trình.
1.2.4. Đổi mới PPDH với sự hỗ trợ của CNTT
Thế giới
hôm nay đang chứng kiến những đổi thay có tính chất khuynh đảo
trong mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nhờ những thành tựu của CNTT.
CNTT đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những nhân tố năng động mới, cho
quá trình hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Nó thâm nhập và chi
phối hầu hết các lĩnh vực trong xã hội và là một trong c
ác động lực quan trọng nhất
của sự phát triển. Trong giáo dục – đào tạo, việc đổi mới PPDH bằng cách sử dụng
CNTT đang là một xu thế của thời đại, được UNESCO chính thức đưa ra thành
chương trình hành động trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI và dự đoán “sẽ có sự thay đổi
nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỉ XXI do ảnh hưởng của ICT”.
Ở nước ta, vấn đề ứng dụng IC
T trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà
nước rất coi trọng. Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo
dục - Đào tạo đã thể hiện rõ điều này, như: Nghị quyết CP của chính phủ về chương
trình quốc gia đưa CNTT vào giáo dục đào tạo (1993), Nghị quyết trung ương 2
khóa VIII, Luật giáo dục (1998) và Luật giáo dục sửa đổi (2005), Nghị quyết 81 của
Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục - Đào
tạo, Chiến lược phát triển
giáo dục 2001 – 2010,…

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai (khoá
VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới đã
yêu cầu ngành giáo dục phải “đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại và
o quá
trình dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS”[15].
Nghị quyết được cụ thể hóa bằng chỉ thị 58 – CT/TW (17/10/2000) của Bộ
Chính trị, trong đó nêu rõ là cần phải: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác
giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào
tạo từ xa phục vụ nhu cầu học của to
àn xã hội”.
Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục - Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về tăng cường
giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục đã quyết định chọn
năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lý tài
chính và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tạo bước đột ph
á về
ứng dụng CNTT trong giáo dục và tạo tiền đề phát triển ứng dụng CNTT trong
những năm tiếp theo. Chỉ thị cũng nêu rõ “CNTT là một phương tiện để tiến tới một
xã hội hóa học tập”. Từ năm học 2008 – 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức
đưa chỉ tiêu thi đua về ứng dụng CNTT trở thành một tiêu chí để đánh giá và biểu
dương các cơ sở giáo dục và các cá nhân đã có đóng góp tích cực về ứng dụng
CN
TT trong giáo dục.
Hằng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo và
các Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức
đánh giá, xếp hạng và khen thưởng các đơn vị, cơ sở giáo dục, các cá nhân có thành
tích xuất sắc trong việc ứng dụng CNTT và đánh giá xếp hạng website của các cơ
sở giáo dục.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có Chỉ thị

55/2008/CT – BGDĐT về “Tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT
trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 – 2012 (30/09/2008) [11].

CNTT mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình
thức dạy học. Những PPDH theo cách tiếp cận kiến tạo, PPDH theo dự án, dạy học
phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các
hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có
những đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông.

Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học là nâng
cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo
dục m
ang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc, trò chép” như
kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm
kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình.
1.3. Tự học
1.3.
1. Tự học là gì?
The
o từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách k
hoa 2001 [20], tự học là:
“…quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực
hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo
dục, đào tạo.”.
Tự học là hoạt động có mục đích của c
on người, là điều cần thiết trong quá
trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tự học có vai trò đặc biệt quan
trọng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ của Người.
GS-

TS Chu Hảo, thứ trưởng Bộ KHCNMT trả lời thẳng vào câu hỏi về kinh
nghiệm của riêng ông trong việc tự học: “Mỗi khi muốn hiểu sâu đề tài nào, tôi tự
yêu cầu mình phải viết một bài về vấn đề đó. Vậy là tôi phải tìm tài liệu đọc, hỏi
han, lắng nghe và phải đào sâu, nắm vững mới viết ra mạch lạc được. Đó là c
hưa kể
còn phải chuẩn bị các phụ lục tài liệu cho những chỗ khúc mắc, phức tạp phòng khi
cần trình bày có thể bị chất vấn”.
Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe
radio, truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triễn lãm, xem
phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người
hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa
chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã
nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề
cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư
viện,…Đối với HS, tự học còn thể hiện bằng cách tự làm các bài tập chuyên môn,
các câu lạc bộ, các nhóm thực nghiệm và các hoạt động ngoại khóa khác. Tự học
đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao.
1.3.
2. Các hình thức của tự học

Theo TS. Trịnh Văn Biều [7], có 3 hình thức tự học:
- Tự học không có hướng dẫn: Người học tự tìm lấy tài liệu để đọc, hiểu,
vận dụng các kiến thức trong đó.
- Tự học có
hướng dẫn: Có GV ở xa hướng dẫn người học bằng tài liệu
hoặc bằng các phương tiện thông tin khác.
- Tự học có hướng dẫn trực tiếp: Có tài liệu và giáp mặt với GV một số tiết
trong ngày,
trong tuần, được thầy hướng dẫn giảng giải sau đó về nhà tự học.
Trong

thực tế có thể học theo nhiều kiểu khác nhau nhưng dưới hình thức
nào thì tự học vẫn là cốt lõi của quá trình học. Tự học đóng vai trò quan trọng trong
quá trình tiếp thu tri thức và hoàn thiện nhân cách của con người.
1.3.
3. Chu trình dạy – tự học
The
o Nguyễn Kỳ “Quá trình dạy – tự học là một hệ thống toàn vẹn gồm 3
thành tố cơ bản: thầy (dạy), trò (tự học), tri thức. Ba thành tố cơ bản đó luôn luôn
tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau theo những quy luật
riêng nhằm kết hợp chặt chẽ quá trình dạy của thầy với quá trình tự học của trò làm
cho dạy học cộng hưởng với tự học tạo ra chất lượng, hiệu quả giáo dục cao.” [
21].
1.3.
3.1. Chu trình tự học của trò

Chu trình tự học diễn biến theo ba thời: Tự nghiên cứu (I), Tự thể hiện, hợp
tác với bạn và thầy (II), Tự kiểm tra, tự điều chỉnh (III).

Hình 1.1. Chu trình học ba thời của Nguyễn Kỳ
- Thời (I): Tự nghiên cứu
Trước một tình huống học tập, chủ thể bắt đầu thấy có nhu cầu hay hứng thú
tìm hiểu. Các em sẽ tự tìm hiểu vấn đề, tiến hành thu nhận thông tin có liên quan
đến vấn đề đó, xử lý thông tin, xây dựng các giải pháp, các giả thuyết, thử nghiệm
giải pháp, kết quả, đưa ra kết luận và giải quyết vấn đề. Chủ thể tạo ra sản phẩm thô
có tính c
hất cá nhân.
- Thời (II): Tự thể hiện, hợp tác với bạn và thầy
Qua thời (I), chủ thể đã tự thể hiện mình bằng văn bản, lời nói, tự đặt mình
vào tình huống, tự giải quyết vấn đề và đưa ra sản phẩm có tính chất cá nhân. Giờ
đây, cần tiếp tục tự thể hiện qua sự hợp tác, trao đổi, đối th

oại với các bạn và thầy
bằng cách tự trình bày và bảo vệ sản phẩm học của mình, hỏi bạn và thầy về những
gì mình chưa tự trả lời được. Tranh luận và kết luận của thầy và các bạn sẽ cho phép
chủ thể bổ sung sản phẩm ban đầu của mình thành một sản phẩm khách quan hơn,
có tính chất xã hội.
-
Thời (III): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Thảo l
uận ở cộng đồng lớp và kết luận của thầy đã cung cấp thông tin phản
hồi về sản phẩm học ban đầu của chủ thể, lấy đó làm cơ sở cho người học so sánh,
đối chiếu, tự kiểm tra lại sản phẩm học, tự đánh giá, tự phê bình và cuối cùng tổng

hợp, chốt lại vấn đề rồi tự sửa sai, điều chỉnh, hoàn chỉnh thành sản phẩm khoa học,
và tự rút kinh nghiệm về cách học, cách tư duy, cách giải quyết vấn đề của mình,
sẵn sàng bước vào một tình huống học mới.

1.3.3.2. Chu trình dạy của thầy
Chu trình học ba thời “Tự nghiên cứu – Tự thể hiện, hợp tác với bạn và thầy
– Tự kiểm tra, tự điều chỉnh” chỉ có thể diễn ra dưới sự hướng dẫn của thầy. Chu
trình dạy của thầy cũng là chu trình ba thời tương ứng với chu trình học của trò.
+
Thời (1): Hướng dẫn.
Với vai trò thiết kế và ủy thác, thầy lập kế hoạch, chuẩn bị quá trình dạy học
cả về mặt mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức, biến
ý đồ dạy học thành nhiệm vụ học tập tự nguyện, tự giác của học sinh, chuyển gia
o
cho trò không phải những tri thức dưới dạng có sẵn mà là những tình huống để trò
hoạt động và thích nghi.
+ Thời (2): Tổ chức
Ở thời (II), thầy là người tổ chức cách học hợp tác hai chiều đối thoại trò –

trò, trò – thầy, như giúp đỡ cá nhân trình bày, bảo vệ sản phẩm học, tổ chức thảo
luận ở cộng đồng lớp học, lái cuộc tranh luận theo đúng mục tiêu. Cuối cùng thầy là
người trọng tài kết luận về những gì người học đã tự tìm ra và tranh luận thành tri
thức khoa học.
+
Thời (3): Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra.
Ở thời (III), thầy là người cố vấn cho trò tự kiểm tra, tự điều chỉnh như cung
cấp thông tin liên hệ ngược về sản phẩm học (kết luận, đánh giá, cho điểm…), g
iúp
đỡ trò tự đánh giá, tự sửa sai, tự rút kinh nghiệm về cách học.
Điều cốt yếu là cả ba thời đều diễn ra trên cái nền chung là hành động học,
tự học, tự nghiên cứu, tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của chủ thể, dưới sự
hướng dẫn hợp lý của nhà giáo.

1.3.4. Vai trò của tự học

Theo GS - TS Chu Hảo, thứ trưởng Bộ KHCNMT: “Tự học là một chìa khóa
qua
n trọng để mở cánh cửa tri thức’’.
Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng
kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian ít ỏi ở nhà trường. Nó giúp khắc phục nghịch lý:
học vấn thì vô hạn mà tuổi học đường thì có hạn. Ngày nay, khoa học công nghệ
đang phát triển như vũ bão, do đó xã hội cũng liên tục biến đổi. Cách đây không lâu
nhiều người vẫn nói: cứ khoảng 7 năm, vốn kiến thức của nhân loại lại tăng gấp
đôi, nhưng bây giờ, “7 năm” đã trở nên lạc hậu và phải thay bằng “18 thá
ng”. Trong
khi đó thì thời gian học không tăng, điều đó đòi hỏi mọi người cần phải liên tục bồi
dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực để thích ứng với những biến đổi của xã hội,
nếu không sẽ bị tụt hậu. Mặt khác, con người luôn ý thức về tương lai, chú trọng
năng lực suy nghĩ, năng lực lý giải cho tương lai mình. Để có được n

hững năng lực
ấy, con người phải học tập không ngừng, học tập liên tục, học tập suốt đời thông
qua nhiều hình thức, nhưng tự học là điều rất quan trọng.
Tự học là giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người bởi lẽ nó là kết quả
của sự hứng thú, sự tìm tòi, nghiên cứu và lựa chọn. C
ó phương pháp tự học tốt sẽ
đem lại kết quả học tập cao hơn. Khi HS biết cách tự học, HS sẽ có ý thức và xây
dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực
hành, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo.
Tự học của học sinh THPT còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới
giáo dục và đào
tạo, nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. Cốt lõi
của việc đổi mới dạy học là rèn cho HS phương pháp học tập tích cực. Trong các
phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho các em
phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi
dạy nội lực vốn có. Kết quả học tập tăng lên gấp bội. Vì vậy c
ó thể nói rèn luyện
cho HS phương pháp học nói chung và phương pháp tự học nói riêng không chỉ là
một biện pháp nâng cao chất lượng dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Trên ghế nhà trường, HS có học thật, làm thật mới sống thật nên người, có
tích cực tự học, tự làm dưới sự hướng dẫn của thầy, mới tự trang bị cho mình kỹ
năng học, kỹ năng làm, kỹ năng sáng tạo và kỹ năng sống - những kỹ năng tối cần
thiết cho c
on người tiếp tục tự học hành sáng tạo suốt đời. Chỉ có tự học mới đáp
ứng được phương châm “Học suốt đời” mà Hội đồng quốc tế về giáo dục đã đề ra
vào tháng 4 năm 1996.
1.3.5. Tự học qua mạng và lợi ích
1.3.5.1. Tự học qua mạng


Ngày nay cùng với sự bùng nổ của CNTT thì việc học qua mạng ngày càng
trở nên phổ biến và vô cùng cần thiết. Với hình thức học này người học sẽ chủ động
tìm kiếm tri thức để thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của mình tự củng cố, tự phân
tích, tự đào sâu, tự đánh giá, tự rút kinh nghiệm,…với sự hỗ trợ của máy tính và
mạng Internet.
1.3.5.2. Lợi ích của tự học qu
a mạng
Bill Gates, ông chủ tập đoàn Microsoft, đã khẳng định: “Một trong những
điều kỳ diệu nhất trong 20 năm trở lại đây là sự xuất hiện của Internet. Chính
Internet đã làm cho thế giới trở nên rất nhỏ, khoảng cách địa lý đã bị san phẳng,…
Một điều tuyệt vời khác là ngày càng có nhiều trường đại học trên thế giới đưa bài
giảng lên Internet. Bạn có thể ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới để chọn bài giảng, c
hủ
đề…, thậm chí là những giáo sư danh tiếng để học tập mà không phải trả tiền. Đây
sẽ là một sự thay đổi gốc rễ hệ thống giáo dục trong thời gian tới”.
Với tác động của Internet, môi trường dạy học đã thay đổi rất nhiều:
 Yếu tố thời gian không bị rà
ng buộc chặt chẽ, xuất hiện khả năng giáo dục
không đồng bộ.
 Yếu tố không gian sẽ không còn ràng buộc, xuất hiện các lớp học ảo có quy
mô lớn.
 Sự chuyển giao tri thức không còn chiếm vị trí hàng đầu nữa. Người học phải
tìm cách truy tìm thông tin họ cần, đáng giá và xử lý thông tin để biến tri
thức qua giao tiếp.
 Thị trường giáo dục sẽ đư
ợc toàn cầu hóa.
 Mối quan hệ giữa người dạy và người học theo chiều dọc sẽ được thay thế
bởi mối quan hệ theo chiều ngang. Người dạy trở thành chuyên gia, hướng
dẫn hay đồng nghiệp, người học phải thật sự chủ động thích nghi. Nhóm trở
nên rất quan trọng vì là môi trường để đối thoại, tư vấn và hợp tác.

 Việc tự học qua mạng sẽ giúp người học không bị ràng buộc vào thời khóa
biểu chung, một kế hoạch chung, có thời gian để suy nghĩ sâu sắc một vấn
đề, phát hiện ra những khía cạnh xung quanh vấn đề đó và ra sức tìm tòi học
hỏi thêm. Dần dần, c
ách tự học đó trở thành thói quen, giúp người học phát
triển được tư duy độc lập, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo.
 Việc đánh giá không còn dựa nhiều vào thi cử như trước nữa, mà dựa vào
quá trình tiêu hóa tri thức, biểu hiện ở năng lực tiến hành nghiên cứu, thích
nghi, giao tiếp, hợp tác,…
 Sự khác biệt giữa các loại hình và cấp bậc giáo dục sẽ ít quan trọng hơn
trước đây vì giáo dục thường xuyên sẽ qua
n trọng nhất.
 Với tính năng siêu liên kết và giao diện thân thiện, website sinh động, hấp
dẫn, tiện dụng cho người học góp phần nâng cao hứng thú học tập.
 Tự học qua mạng giúp người học có thể tìm kiếm nhanh chóng và dễ dàng
một khối lượng lớn thông tin bổ ích. Về mặt này, người học hoàn toàn thuận
lợi so với việc tìm kiếm trên sách
báo.
Tóm lại, có thể nói tự học chính là con đường để mỗi chúng ta tự khẳng định
khả năng của mình. Nó có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của
mỗi người. Tuy tự học có một vai trò hết sức quan trọng nhưng tự học của HS cũng
không thể đạt được kết quả cao nhất nếu không có sự hướng dẫn, chỉ dạy của người
thầy. C
hính vì vậy, “trong nhà trường điều chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học
trò một mớ kiến thức hỗn độn… mà là giáo dục cho học trò phương pháp suy nghĩ,
phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề”
(Thủ tướng Phạm Văn Đồng-1969). GV cần giúp cho HS tìm ra phương pháp tự
học thích hợp và cung cấp cho HS những phương tiện tự học có hiệu quả. Dạy c
ho
HS biết cách tự học qua mạng chính là một trong những cách giúp HS tìm ra chiếc

chìa khóa vàng để mở kho tàng kiến thức vô tận của nhân loại.
1.4. Sách giáo khoa điện tử (e-book)
1.4.1. Khái niệm e-book
Theo trang web www.thuvien-ebook.com
[61] “E-book là từ viết tắt của
electronic book (sách điện tử). Hiểu theo cách đơn giản nhất, sách điện tử (e-books
hay digital books) là phiên bản dạng số (hay điện tử) của sách. Nội dung của sách
số có thể lấy từ sách giấy hoặc mang tính độc lập tùy thuộc vào người xuất bản. Một
số người thường sử dụng thuật ngữ này để chỉ luôn cả thiết bị dùng để đọc sách
dạng số (còn gọi là book – reading appliances hay e-book readers)”.
Trong luận văn này, c
ó thể hiểu sách giáo khoa điện tử thực chất giống như
một cuốn sách giáo khoa bình thường nhưng có bổ sung nhiều hình ảnh, phim thí
nghiệm, nhiều bài tập hoá học… và được sử dụng thông qua hệ thống máy tính.

Những tính năng ưu việt của e-book
Sách điện tử có những lợi thế mà sách in thông thường không có được:
- Rất gọn nhẹ, giá thành rẻ.
- Nhiều hình ảnh, phim minh họa rõ nét, hấp dẫn.
- Khả năng lưu trữ lớn, có thể chứa rất nhiều thông tin, hình ảnh, phim,…
Cùng với sự phát triển vượt bậc của mạng internet và kết hợp với các thiết bị
kỹ thuật cao cấp, hầu hết các sách in giấy thông thường đều có t
hể được làm thành
sách điện tử. Chính vì vậy mà ngày nay, không khó khăn lắm để chúng ta tìm một
tác phẩm nổi tiếng để đọc trực tiếp trên mạng hay tải về máy tính để đọc theo dạng
e-book.

Nhược điểm của e-book
- Giống như e-mail (thư điện tử) e-book chỉ có thể dùng các công cụ máy
tính như máy vi tính, máy trợ giúp kỹ thuật số cá nhân (palm, pocket pc…) để xem.

- Không giống như sách in thông thường, sách điện tử cũng có những
“định dạng” khác nhau. Nói một cách dễ hiểu là sách có nhiều tập tin mở rộng như
.pdf, .prc, .lit, … Những tập tin này sở dĩ khác nhau vì chúng được làm từ những
chương trình khác nhau và vì thế, muốn đọc đư
ợc chúng, ta cần phải có những
chương trình tương ứng.
1.4.2. Mục đích thiết kế e-book
Thiết kế SGK điện tử (e-book) hỗ trợ cho hoạt động tự học hóa học của HS
phổ thông như là một công cụ tự học thích hợp từ đó nâng cao hiệu quả tự học
thông qua những kiến thức được minh họa một cách sinh động, hấp dẫn. Ngoài ra,
khi GV ứng dụng ICT trong dạy học hóa học có thể sử dụng SGK điện tử như là
một tài liệu t
ham khảo.
1.4.3. Các yêu cầu thiết kế e-book
Việc thiết kế e-book phục vụ cho giáo dục đòi hỏi phải đáp ứng những đặc
trưng riêng về mặt nghe, nhìn, tương tác; do đó theo Nguyễn Trọng Thọ để đáp
ứng nhu cầu tự học, chúng ta phải tuân theo đầy đủ các bước của việc thiết kế
dạy học (ADDIE là chữ viết tắt của 5 bước):
1. A
nalysis (phân tích tình huống để đề ra chiến lược phù hợp):

Hiểu rõ mục tiêu.

Các tài nguyên có thể có.

Đối tượng sử dụng.
2. Design (thiết kế nội dung cơ bản):

Các chiến lược dạy học.


Siêu văn bản (hypertext) và siêu môi trường (hypermedia).

Hướng đối tượng, kết nối và phương tiện điều hướng.
3. Development (phát triển các quá trình):

Thiết kế đồ hoạ.

Phát triển các phương tiện 3D và đa môi trường (multimedia).

Hình thức và nội dung các trang Web.

Phương tiện thực tế ảo.
4. Implementation (triển khai thực hiện):
Cần tích hợp với chương trình công nghệ thông tin của trường học:

Chuẩn bị cho phù hợp với thực tế các phòng máy tính.

Thủ tục tiến hành với thầy.

Triển khai trong toàn bộ các đối tượng dạy, học và quản lí.

Quản lí tài nguyên (nhân lực và vật lực).
5. Evaluation (lượng giá):
Đánh giá hiệu quả huấn luyện thường sử dụng mô hình bốn bậc do Donald
Kirkpatrick phát triển (1994). Theo mô hình này, quá trình lượng giá luôn được tiến
hành theo thứ tự vì thông tin của bậc trước sẽ làm nền cho việc lượng giá ở bậc kế
tiếp.

Bậc 1: Phản ứng tích cực hay tiêu cực (Reactions).


Bậc 2: Hiệu quả học tập (Learnings).

Bậc 3: Khả năng chuyển giao hay chuyển đổi (Transfers).

Bậc 4: Kết quả thực tế (Results).


Hình 1.2. Mô hình lượng giá bốn bậc theo Kirkpatrick


1.4.4. Các phần mềm thiết kế e-bo
ok
1.4.4.1. Macromedia Dreamweaver 8

Các tính năng biên soạn trực quan trong Dreamweaver cho phép bạn tạo
nhanh các trang web mà không cần các dòng mã. Bạn có thể xem tất cả các thành
phần trong website của bạn và kéo chúng trực tiếp từ một panel dễ sử dụng vào một
văn bản. Bạn có thể nâng cao sản phẩm của mình bằng cách tạo và sửa các ảnh
trong Adobe photoshop hoặc trong ứng dụng ảnh khác, rồi sau đó chèn trực tiếp vào
Dreamweaver.
Bên cạnh những tính năng kéo và thả giúp xây dựng trang web,
Dreamweaver còn cung cấp một môi trường viết mã đầy đủ chức năng bao gồm các
công cụ viết mã (như tô màu mã, bổ sung thẻ tag, thanh công cụ mã và thu bớt mã)
và nguyên liệu tham chiếu ngôn ngữ trong Cascading Style Sheets (CSS),
JavaScript, ColdFusion Markup Language (CFML) và các ngôn ngữ khác. Công
nghệ Macromedia Roundtrip HTML nhập các văn bản HTML viết mã thủ công mà
không định dạng lại mã; khi đó bạn có thể định dạng lại mã với phong cách định
dạng của riêng mình.
Dreamweaver cũng cho phép xây dựng các ứng dụng web động dựa theo dữ
liệu sử dụng công nghệ máy

chủ như CFML, ASP.NET, ASP, JSP, và PHP. Nếu sở
thích của bạn là làm việc với dữ liệu XML, Dreamweaver cung cấp những công cụ
cho phép bạn dễ dàng tạo các trang XSLT, chèn file XML và hiển thị dữ liệu XML
trên trang web của bạn.
Dreamweaver có thể tùy biến hoàn toàn. Bạn có thể tạo cho riêng mình
những đối tượng và yêu cầu, chỉnh sửa shortcut bàn phím và thậm chí viết mã
JavaScript để mở rộng những khả năng của D
reamweaver với những hành vi mới,
những chuyên gia giám định Property mới và những báo cáo site mới.

1.4. Flash CS3 4.2. Adobe
Ngày nay, Internet và đặc biệt là World Wide Web (WWW) đã trở thành một
dịch vụ thông tin gắn chặt với đời sống kinh tế - xã hội và Adobe Flash trở thành
một đồ họa hoạt hình cho web.
Adobe Flash (trước đây là Macromedia Flash) là công cụ để phát triển các
ứng dụng như thiết kế các phần mềm mô phỏng. Sử dụng ngôn ngữ lập trình
ActionScript để tạo các tương tác, các hoạt cảnh trong phim. Điểm mạnh của Flash
là có thể nhúng các file âm thanh, hình ảnh động. Flash cũng có thể xuất bản đa
dạng các file kiểu htm
l, exe, jpg,...để phù hợp với các ứng dụng của người sử dụng
như trên Web, CD,..
Có thể nói rằng Adobe Flash là chìa khóa để thiết kế và cung cấp các trang
Web với những nội dung có mô hình động và kích thước tập tin rất nhỏ.
Trong luận văn, Adobe Flash CS3 sử dụng để thiết kế các hiệu ứng chuyển
động và hệ thống thể hiện các dữ liệu hì
nh ảnh và văn bản được kết nối chặt chẽ với
nhau trong SGK Điện tử.




1.4.4.3. Adobe photoshop
a. Giới thiệu
Adobe Photoshop là một chương trình xử lí ảnh mạnh nhất hiện nay, dựa vào
các công cụ và các lệnh thích hợp, bạn có thể hiệu chỉnh hình ảnh theo ý muốn như:
- Khắc phục các lỗi kĩ thuật thông thường trong tấm ảnh.
- Chỉnh sửa hình ảnh để loại bỏ các vết dơ, vết trầy, thậm chí có thể loại bỏ
cả một mảng hình mà mình không thích.
- Sửa chữa ảnh nghệ thuật.
- Để tạo tra
ng web, rất cần đến Photoshop vì nhờ nó mà hình ảnh trở nên nhẹ
ký hơn và màu sắc phù hợp hơn.
b. Hình ảnh
Do hình ảnh được tạo từ nhiều nguồn khác nhau nên Photoshop có thể nhận
diện được nhiều dạng thức file khác nhau (dạng thức file được thể hiện thông qua
phần mở rộng của tên file). Đồng thời sản phẩm được tạo ra từ Photos
hop cũng có
thể lưu lại dưới những dạng thức file khác nhau để các chương trình ứng dụng khác
sử dụng được.
 psd là file được tạo bởi chương trình Photoshop.
 jpg (Joint Photographic Experts Group) là dạng thức file nén có tổn thất
(hình ảnh được phục hồi không được đầy đủ như hình ảnh ban đầu), loại
file này được dùng khá nhiều trong Photoshop và cũng thường được dùng
trong trang Web).
 png là dạng thức file nén không tổn thất “lossless” và có thể hiện t
hị dần khi
tải xuống.
 gip (Graphic Interchange Format) là một dạng thức file nén thường dùng
trong trang Web).
 bmp thường là sản phẩm của chương trình Paint trong Microsoft Windows.
 tif (Tagged Image File Format) là loại file dùng được trên máy Macintosh và

máy PC.

×