Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Bài giảng - Phương pháp tưới tiêu - chương 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.79 KB, 22 trang )

24
BÀI 2
CHẾ ĐỘ TƯỚI CHO MỘT SỐ CÂY TRỒNG CHÍNH

2.1. Nội dung cơ bản của chế độ tưới cho cây trồng
2.1.1. Khái niệm chung
Để đảm bảo cho cây trồng đạt năng suất cao, cần phải giải quyết mâu thuẩn giữa nhu
cầu của cây trồng và khả năng cung cấp của đất đai về các điêu kiện sinh sống cần thiết,
nhất là nước và chất dinh dưỡng. Mâu thuẩn này trong những điều kiện tự nhiên nhất định,
cần có một biện pháp kỹ thuật nông nghiệp và thuỷ lợi thích ứng. Nhưng trên thực tế sự
điều chỉnh chế độ nước trong đất bằng cách tưới nước hoặc tiêu nước là biện pháp có ý
nghĩa quan trọng bậc nhất để trên cơ sở đó phát huy được tác dụng các biện pháp kỹ thuật
khác.
Chế độ tưới của cây trồng bao gồm việc xác định chính xác những nội dung sau: tổng
lượng nước tưới, thời gian tưới, tiêu chuẩn tưới và số lần tưới.
2.1.2. Tổng lượng nước tưới
Lượng nước cung cấp cho cây trồng trong suốt quá trình sinh trưởng, bổ sung vào
lượng nước tự nhiên trong đất còn thiếu để đạt được một kế hoạch năng suất nào đó, gọi
là tổng lượng nước tưới.
Tổng lượng nước tưới cho cây trồng cạn được xác định theo công thức:

W
W
W
ncd
hEM  )(10


trong đó:
E: lượng nước cần của cây (m
3


/ha)
h: lượng mưa rơi trong thời kỳ sinh trưởng (mm)

: hệ số sử dụng nước mưa, ở đất thấm nước tốt lấy bằng 0,8 - 0,9 và ở đất thấm
nước kém lấy bằng 0,4 -
0,7.
W
d
: lượng nước dự trữ trong lớp đất tính toán ở đầu thời kỳ sinh trưởng (m
3
/ha)
W
c
: lượng nước dự trữ trong lớp đất tính toán ở cuối thời kỳ sinh trưởng (m
3
/ha)
W
n
: lượng nước ngầm có thể bổ sung cho lớp đất bộ rễ hoạt động (m
3
/ha)
Lượng nước ngầm có thể bổ sung cho lớp đất bộ rễ hoạt động thay đổi tuỳ theo độ
sâu, động thái mực nước ngầm và tính chất vật lý nước của đất.
Lượng nước dự trữ trong đất đầu và cuối thời kỳ sinh trưởng của cây trồng được xác
định theo công thức:

hdW
cd
100
)(




trong đó:
đ
đ(c)
: độ ẩm đất tính theo % của trọng lượng đất khô kiệt
d: dung trọng đất (tấn/m
3
)
h: độ sâu lớp đất tính toán (m)
hoặc cũng có thể tính theo công thức:


A
AhW
10
4


A: độ rỗng đất tính theo % của thể tích đất
25
đ
A
: độ ẩm đất tính theo % của độ rỗng đất
h: độ sâu lớp đất (m).
Trong điều kiện được tưới, độ sâu lớp đất tưới xác định tùy theo sự phân bố của bộ rễ
cây trồng, thường lấy bằng độ sâu phân bố của 90% hệ rễ.
2.1.3. Tiêu chuẩn tưới
Lượng nước tưới cho cây trồng mỗi lần trên đơn vị diện tích gọi là tiêu chuẩn tưới.

Tiêu chuẩn tưới phụ thuộc vào độ ẩm đất ở các thời kỳ sinh trưởng và điều kiện thời
tiết khí hậu. Đất trước khi tưới có dự trữ độ ẩm thấp thì tiêu chuẩn tưới lớn và ngược lại,
dự trữ độ ẩm cao thì tiêu chuẩn tưới bé.
Giới hạn tối đa về tiêu chuẩn tưới được tính theo công thức:
m = 100. d. h. (β
max
- β
0
) . (m
3
/ha)
trong đó:
β
max
: độ chứa ẩm tối đa của đất tính theo % trọng lượng đất khô kiệt
β
0
: độ ẩm đất trước khi tưới tính theo % trọng lượng đất khô kiệt
d: dung trọng đất , tấn/m
3

h: độ sâu lớp đất tưới, m
Tiêu chuẩn tưới còn phụ thuộc vào phương pháp tưới: tưới mưa nhân tạo tiêu chuẩn
tưới ít hơn tưới rãnh và tưới dải.
Tiêu chuẩn tưới ít nhất được sử dụng trong trường hợp tưới để cải thiện điều kiện
tiểu khí hâụ đồng ruộng, làm giảm nhiệt độ và nâng cao độ ẩm không khí.
2.1.4. Thời gian tưới
Mỗi loại cây trồng qua từng thời kỳ sinh trưởng yêu cầu một giới hạn độ ẩm thích hợp
để thoả mãn nhu cầu nước của chúng trong những điều kiện ngoại cảnh nhất định. Khi điều
kiện tự nhiên không đảm bảo yêu cầu đó thì phải dùng biện pháp tưới nhân tạo để bổ sung

thêm lượng nước cần thiết. Do đo, xác định đúng đắn thời gian tưới có ý nghĩa to lớn trong
toàn bộ chế độ tưới hợp lý và là yếu tố quan trọng đối với sinh trưởng và năng suất cây
trồng.
Để xác định thời gian tưới người ta sử dụng các phương pháp sau:
a. Tưới theo độ ẩm đất
Phương pháp này dựa trên cơ sở xác định giới hạn độ ẩm đất thích hợp qua từng thời
kỳ sinh trưởng, theo dõi định kỳ độ ẩm đất. Nếu khi nào độ ẩm đất giảm xuống dưới mức
thích hợp cho từng thời kỳ sinh trưởng thì đó là lúc cần tưới.
Cơ sở khoa học của phương pháp này là cây hút nước từ đất nên cần dựa vào khả
năng giữ ẩm của đất để dự tính lượng nước cây có thể sử dụng được.
Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm: chưa chú ý đến trạng thái và yêu cầu
nước của bản thân cây trồng trong những điều kiện ngoại cảnh khác nhau.
Khi đất bón nhiều phân hoặc có có nồng độ dung dịch cao, mặc dù đất có đủ độ ẩm
thích hợp nhưng khả năng cung cấp nước cho cây trồng bị hạn chế.
Mặt khác, trên mỗi loại đất, khả năng dự trữ độ ẩm và cung cấp lượng nước cho cây
trồng cũng thay đổi theo tính chất vật lý của chúng, nên giới hạn độ ẩm thích hợp cũng
biến đổi, ít nhiều cũng gây khó khăn cho việc xác định giới hạn đó trong những điều kiện
khác nhau.
26
b. Tưới theo giai đoạn phát triển của cây trồng ( phương pháp khí hậu sinh học hay lý
sinh)
Trong những điều kiện khí hậu khác nhau, độ ẩm đất tự nhiên có thể thỏa mãn được
nhu cầu nước ở một giới hạn nhất định, có thể ở giai đoạn này cây trồng được cung cấp
đầy đủ nước nhưng ở một giai đoạn khác, cây trồng lại thiếu nước và sự cung cấp này của
đất tự nhiên phụ thuộc vào từng vùng khí hậu khác nhau.
Trên cơ sở thời vụ cây trồng đã xác định và nắm vững điều kiện khí hậu của từng
vùng, qua thực tế thí nghiệm đối với từng loại cây trồng, chúng ta có thể tìm được thời
gian cần phải tưới, số lần cần phải tưới qua các giai đoạn phát triển của cây trồng.
Do sự chi phối của điều kiện khí hậu ở từng vùng khác nhau, cho nên có thể cùng một
loại cây trồng mà chế độ tưới và thời gian tưới không giống nhau. không những thế mà

ngay trong một vùng khí hậu, hiệu quả của việc xác định thời gian tưới theo giai đoạn phát
triển của cây trồng cũng dẫn đến năng suất khác nhau qua các năm.
Phương pháp này có ưu điểm dễ dàng sử dụng, có thể phổ biến rộng rãi trong những
vùng cùng điều kiện khí hậu. Nhưng có khuyết điểm là chưa chú ý đến độ ẩm đất và tình
trạng cây trồng trước khi tưới. Nếu khi các yếu tố khí hậu thay đổi so với quy luật xuất
hiện của nó thì hiệu quả của phương paáp này bị hạn chế.
c. Phương pháp xác định thời gian tưới theo hình thái bên ngoài của cây
Xuất phát từ những công trình nghiên cứu mối liên hệ giữa quang hợp và mức độ
cung cấp nước khác nhau, giữa nước và động thái tăng trưởng của cây. Nhiều nhà sinh lý
đã đi sâu vào nghiên cứu phương pháp đơn giản để tìm hiểu sự cần nước cho cây trồng với
hy vọng sẽ chẩn đoán được thời gian tưới nước dúng đắn và được gọi là phương pháp hình
thái học.
Nhiều kết quả nghiên cứu xác định rằng quá trình sinh trưởng tiến hành rất mạnh mẽ
khi ở các cơ quan của tế bào cây bão hòa nước và điều này chỉ xãy ra khi đất có độ ẩm 80 -
100%.
Do lượng nước trong cây có quan hệ trực tiếp đến các hoạt động sinh lý, sinh hóa cần
thiết cho sự sinh trưởng của cây. Vì vậy sự biểu hiện mức độ sinh trưởng khác nhau cuả
cây trồng trên đồng ruộng có quan hệ với nhu cầu nước của chúng.
Do đó, có thể dùng các chỉ tiêu về hình thái bên ngoài của cây như: động thái tăng
trưởng chiều cao, động thái ra lá trên thân chính, màu sắc lá để chẩn đoán thời gian cần
tưới của cây.
Để áp dụng phương pháp này, cần tìm hiểu mối quan hệ giữa động thái sinh trưởng
của cây và độ ẩm đất thích hợp để xác định chúng. Khi đã xác định được mối quan hệ giữa
độ ẩm đất và động thái sinh trưởng của cây trồng qua các chỉ tiêu trên, có thể sử dụng
chúng để chẩn đoán thời gian tưới mà không cần quan trắc các yếu tố khác.
Phương pháp này không đòi hỏi phải có những dụng cụ quan sát phức tạp nên dễ áp
dụng. Tuy nhiên, nó không thể kịp thời phát hiện được sự thiếu nước của cây. Khi sự thiếu
nước đã biểu hiện ra bên ngoài thì ở mức độ nhất định nó gây ảnh hưởng đến sinh trưởng,
phát triển và năng suất của cây trồng.
d. Phương pháp sinh lý

27
Các chỉ tiêu sinh lý như nồng độ dịch bào, sức hút nước của lá phản ánh rất nhạy bén
và đáng tin cậy về nhu cầu nước của cây trồng. Vì vậy, trong những điều kiện đất đai, khí
hậu và canh tác khác nhau các chỉ tiêu này đều có liên hệ trực tiếp với chế độ nước của cây
và có thể sử dụng chúng để chẩn đoán thời gian cần tưới nước.
Trên cơ sở các biện pháp kỹ thuật tác động thích hợp, cần xác định được trị số giới
hạn của các chỉ tiêu này ở từng thời kỳ sinh trưởng trong điều kiện cây trồng cho năng suất
cao nhất, để làm cơ sở cho việc so sánh với giá trị các chỉ tiêu này quan sát cây trồng trên
đồng ruộng được tưới nước. Nếu ở một thời kỳ nào đó, quan sát thấy các chỉ tiêu này trên
đồng ruộng đã đến hoặc vượt quá trị số giới hạn đã xác định thì chứng tỏ trong hoàn cảnh
đó cây trồng thiếu nước và yêu cầu cần phải tưới.
Phương pháp này hiện nay đang tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện để có thể sử dụng
rộng rãi trong sản xuất.
2.1.5. Số lần tưới
Số lần tưới trong quá trình sinh trưởng của cây trồng thay đổi tuỳ theo điều kiện khí
hậu của từng vùng và thời tiết từng mùa vụ. Những năm khô hạn, ít mưa số lần tưới cần
nhiều hơn và ngược lại những năm ẩm ướt, đô ẩm đất lớn thì số lần tưới giảm.
Tuy vậy, trong những điều kiện nhất định, hiệu quả của tưới nước cũng phụ thuộc vào
số lần tưới.
- Số lần tưới nhiều không hẳn nâng cao được năng suất cây trồng mà hiệu quả sử
dụng nước thấp, hao phí nước nhiều so với tưới ít lần.
- Nước tưới chỉ phát huy được tác dụng đối với cây trồng trên cơ sở có sự cung cấp
đồng thời và cân đối các yếu tố khác, nhất là dinh dưỡng.
- Hiệu quả của nước tưới phụ thuộc vào nhu cầu sinh lý nước qua các thời kỳ dinh
dưỡng của cây.
Do đó những lần tưới ở các thời kỳ khủng hoảng nước của cây sẽ có tác dụng lớn đến
sinh trưởng và năng suất của cây trồng hơn là những lần tưới khác.
Ví dụ: trong điều kiện khô hạn, tưới nước ở thời kỳ lúa trổ bông cho năng suất cao
hơn nhiều so với không tưới.
Trên cơ sở điều kiện thời tiết khí hậu của từng vùng, từng vụ và đặc điểm sinh lý của

từng loại cây trồng để xác định số lần tưới thích hợp đáp ứng được nhu cầu sinh lý nước
của cây.
2.1.6. Hệ số tưới thiết kế q (l/s/ha).
Lượng nước cung cấp cho cây trồng trong một đơn vị thời gian có nhu cầu tưới lớn
nhất trên một đơn vị diện tích được gọi là lưu lượng tưới đặc trưng.
Kí hiệu: q(l/s/ha) hay (m
3
/s/ha)
Công thức xác định là:
t
m
q
.4,86
max


Ta có: Q
tk
= q
tk
.S
2.1.7. Chu kỳ tưới
Chu kỳ tưới là khoảng thời gian cần thiết giữa hai lần tưới. Chu kỳ tưới dài hay ngắn
phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí hậu của từng vùng.
28
Công thức tính:
E
m





: chu kỳ tưới (ngày)
m: tiêu chuẩn tưới (mm)
E: lượng nước bốc hơi mặt lá và khoảng trống (mm/ngày)
2.1.8. Xác định chế độ tưới của cây trồng theo phương pháp cân bằng nước
trong đất.
Phương pháp cân bằng nước trong đất là phương pháp tính toán giữa lượng nước
tự nhiên có khả năng cung cấp cho đất trồng và lượng nước bị tiêu hao đi từ đất trong quá
trình sinh trưởng của cây trồng.
a. Đối với cây trồng cạn
* Tổng lượng nước tưới
- Tổng lượng nước tưới = lượng nước cần phải cung cấp cho cây trồng - lượng
nước cây trồng lợi dụng được
+ Lượng nước cần phải cung cấp cho cây trồng:
M = E
r
+ W
c

Trong đó:
E
r
: Lượng nước cần của cây trồng
W
c
: lượng nước cần thiết phải duy trì trên ruộng sau khi thu hoạch.
+ Lượng nước cây có thể lợi dung được trong quá trình sinh trưởng:
h
0

+ W
đ
+W
n

trong đó:
h
0
: lượng mưa hữu ích
h)1(h 10
h
0



: hệ số sử dụng nước mưa
h: lượng mưa trong thời kỳ sinh trưởng (mm).

: hệ số dòng chảy
W
đ
: lượng nước có sẳn trong đất trong lúc gieo trồng (m
3
/ha).


0
d
AH10
W


A: độ xốp của đất ( tính theo % thể tích đất).
H: chiều sâu tầng đất tưới (mm)

0
: độ ẩm ban đầu của đất tưới ( tính theo % độ xốp)
W
n
: lượng nước do nước mạch cung cấp bằng mao dẫn ( theo Cốtchiacốp) khi nước
mạch sâu không quá 2,5m thì lấy khoảng 5- 25% của E. Nếu sâu quá 2,5m thì lấy bằng
0,05E.
- Tiêu chuẩn tưới
)(AH10
0max
i
M



(m
3
/ha)
Trong đó:
M
i
: mức tưới lần thứ i
29

max
: độ ẩm đất lớn nhất thích hợp với cây trồng (tính theo % của độ xốp).


0
: độ ẩm đất luc bắt đầu tưới
b. Đối với lúa nước
- Tổng lượng nước nước tưới:
M = M
a
+M
d
(m
3
/ha)
Trong đó:
M
a
: lượng nước tưới ngã ải ( kể từ khi bắt đầu đưa nước vào làm đất cho đến khi
cấy).
M
d
: lượng nước tưới dưỡng lúa.
* Cách tính:
+ M
a
:
h
M
M
M
M
M

a4a3a2a1aa
10







trong đó:
M
a1
: lớp nước trữ trên mặt ruộng cần thiết cho việc làm đất(m
3
/ha).
M
a1
= 10.a
a: lớp nước trữ trên mặt ruộng trong thời gian ngã ải (mm).
M
a2
: lượng bốc hơi mặt nước tự do trong thời gian ngã ải(m
3
/ha).
M
a2
= 10.e.t
1
e: lượng bốc hơi mặt nước tự do ngày đêm.
t

1
: thời gian ngã ải kể từ khi đưa nước vào ruộng đến khi cấy ( ngày đêm).
M
a3
: nước làm bảo hoà tầng đất mặt ruộng (m
3
/ha)
t
k
M
1
b03a
10



k
0
: hệ số ngấm hút bình quân trong đơn vị thời gian thứ nhất (mm/ngày).
T
b
: thời gian ngấm hút (ngày)

: chỉ số ngấm hút của đất.
Ngoài ra M
a3
: có thể xác định theo công thức
)1(A.H.10
0
3a

M



H: chiều dày tầng đất trên mực nước ngầm cần bảo hoà nước (m).
A: độ rỗng của đất tính theo % của thể tích đất.

0
: độ ẩm có sẵn trong đất tính theo % độ rỗng.
M
a4
: lượng nước ngấm ổn định trong thời gian làm ải (m
3
/ha).
)(
H
aH
10
ttKM
ba
C4a




trong đó:
K
c
: hệ số ngấm ổn định (mm/ngày).
H: chiều dày tầng đất trên mực nước ngầm.

t
b
: thời gian bảo hoà lớp đất trên mặt ruộng (ngày)
30













1
1
0
)1(.
k
t
AH
b

10.

.h
a

: lượng mưa được sử dụng trong thời gian làm ải (m
3
/ha).
+ M
d
: lượng nước cần đưa vào ruộng từ khi cấy đến khi thu hoạch(m
3
/ha).
M
d
= M
d1
+ M
d2
+ M
d3
+ M
d4
- 10.

.h
d

Trong đó:
M
d1
: lượng nước ngấm ổn định(m
3
/ha), được xác định theo công thức:
t

a
kM
i
i
e1d
H
H
10



t
i
: thời gian tính toán (ngày).
k
e
: hệ số ngấm ổn định trên ruộng lúa
H: chiều dày tầng đất trên mực nước ngầm (m)
a
i
: lớp nước mặt ruộng cần phải giữ trong thời gian t
i
(m).
M
d2
: lượng nước bốc hơi mặt ruộng trong thời gian t
i
(m
3
/ha).

E
M
oi
i
2d
10




i
: hệ số Cácpop trong thời gian t
i
.
E
0i
: tổng lượng bốc hơi mặt thoáng tự do trong thời gian t
i
(mm).
M
d3
: lượng nước nâng cao lớp nước mặt ruộng trong thời gian t
i
(m
3
/ha).
M
d3
=10( a
i

- a
i-1
)
a
i
: lớp nước mặt ruộng cần phải giữ ở thời gian t
i
(mm)
a
i-1
: lớp nước mặt ruộng giữ ở thời gian trước đó (mm).
M
d4
: lượng nước thay trong thời gian t
i
(m
3
/ha).
Thay nước là để nâng cao hoặc hạ thấp mực nước trên ruộng, là biện pháp để điều
hoà lượng nhiệt độ lớp nước ruộng và làm giảm nồng độ chất khoáng của lớp nước trên
ruộng.
Giả sử trong thời gian t
i
nào đó, lớp nước mặt ruộng là a
i
, nhiệt độ ruộng lúa là C
1
,
cần hạ nhiệt độ nước xuống C
2

và nhiệt độ nước thay vào là C
3
.
- Hình thức 1: giữ nguyên lớp nước trên mặt ruộng là a
i
, cho lượng nước thay vào là
M
d4
, nhiệt độ nước ruộng sẽ hạ xuống thành C
2
, sau đó tháo bớt nước ruộng để trở về mức
a
i
tương ứng nhiệt độ C
2
.
Theo nguyên lý cân bằng nhiệt ta có thể viết phương trình:
M
d4
C
2
+ 10.a
i
.C
2
= 10.a
i
.C
1
+ M

d4
C
3

Từ đó ta có:
C
C
CC
a
M
32
21
i4d
10



31
- Hình thức 2: tháo lớp nước mặt ruộng a
i
xuống đến a
0
nào đó để khi thêm lượng
nước nước M
d4
vào thì lớp nước mặt ruộng vẫn là a
i
nhưng nhiệt độ ruộng lúa vẫn thấp
hơn hoặc bằng C
2

.
Trong trường hợp này phương trình cân bằng nhiệt được viết như sau:
10( a
i
- a
0
).C
3
+ 10a
0
.C
1
= 10. a
i.
C
2

Khi đó lượng nước M
d4
chính là lớp nước 10( a
i
- a
0
)
như vậy:
C
C
CC
a
M

31
21
i4d
10




Nhiệt độ C
1
>C
2
đại lượng C
1
- C
3
> C
2
- C
3
nên hình thức thay nước thứ 2 sẽ tiết kiệm
hơn hình thức thay nước thứ nhất.
Việc thay nước để giảm nồng độ nước ruộng từ S
1
xuống S
2
bằng nồng độ nước thay
là S
3
. Khi đó lượng nước thay là:


S
S
SS
a
M
31
21
i4d
10




10

h
d
: lượng mưa sử dụng trong thời kỳ dưỡng lúa.
2.2. Chế độ tưới cho một số cây trồng chính
2.2.1. Chế độ tưới nước cho lúa
Lúa là cây trồng ưa nước. Lịch sử trồng lúa của các nước trên thế giới đều cho thấy
rằng sự phát triển diện tích lúa gắn liền với quá trình mở rộng và xây dựng hệ thống tưới
tiêu nước. Trên thực tế hầu hết diện tích trên thế giới đều áp dụng phương pháp tưới ngập.
Đó là biểu hiện đặc thù nhất của cây lúa so với cây trồng khác. Vì vậy, chế độ tưới nước là
một khâu quan trọng của kỹ thuật trồng lúa. Cũng chính vì vậy mà nhiều vùng không đủ
nguồn nước để mở rộng diện tích trồng lúa mặc dầu các điều kiện khác vẫn thuận lợi.
Qua nghiên cứu của rất nhiều tác giả, đã đi đên kết luận: lúa trồng trong điều kiện đất
khô hoặc ẩm ướt rõ ràng sự hấp thụ chất dinh dưỡng và năng suất không tốt bằng trong
điều kiện tưới ngập. Điều này cũng giải thích tại sao 85% diện tích trồng lúa trên thế giới

được tưới ngập. Nhưng trong điều kiện tưới ngập không phải lúc nào cũng có thể tìm được
mối quan hệ xác định giữa độ sâu lớp nước và năng suất. Thường độ sâu lớp nước thích
hợp ở cây lúa thay đổi phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, đất đai và kỹ thuật nông nghiệp.
Về tưới ngập, tuỳ theo từng vùng mà sử dụng các hình thức sau:
- Thường xuyên tưới ngập một lớp nước trên đồng ruộng trong suốt quá trình sinh
trưởng của lúa. Hình thức này được sử dụng từ cổ xưa ở những nước trồng lúa lâu đời trên
thế giới.
- Ngập liên tục một thời gian từ thời kỳ mạ đến lúc chín sữa hay từ khi lúa đẻ nhánh
đến chín sáp. Hình thức này được sử dụng ở những vùng thiếu nguồn nước tưới. Một số
vùng do điều kiện khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều và chưa có hệ thống tưới nhân tạo thì lúa
được tưới theo chế độ ẩm tự nhiên.
a. Chế độ tưới cho lúa cấy
32
- Thời kỳ mạ
Mạ có phẩm chất tốt sẽ tạo điều kiện cho lúa sinh trưởng và phát triển thuận lợi. Thời
gian sinh trưởng của mạ không dài nhưng cần được chăm sóc đúng kỹ thuật mới có chất
lượng tốt. Chế độ tưới nước cho mạ phải xuất phát từ đặc điểm sinh lý và điều kiện sinh
sống của mạ trong những mùa vụ khác nhau mà thay đổi, đảm bảo điều khiển mạ có chất
lượng tốt.
Cây mạ từ khi gieo đến có 3 lá chủ yếu sử dụng các chất dinh dưỡng dự trữ trong hạt
lúa để xây dựng nên cơ thể của mình, chuẩn bị cho giai đoạn tự dưỡng về sau. Điều kiện
cần thiết nhất cho sự sinh trưởng của mạ ở thời kỳ này là nhiệt độ, độ ẩm và ôxi. Có đủ 3
yếu tố này thì mạ có khả năng tận dụng tốt các chất dự trữ trong hạt lúa. Vì vậy, chế độ
tưới trong thời kỳ này phải tạo điều kiện để cung cấp tốt các yếu tố đó. Muốn thế, phải gieo
thành líp và cần giữ mặt líp ẩm ướt bằng cách giữ nước ngập trong các rãnh, mặt líp mạ ẩm
ướt sẽ tạo điều kiện để đất giữ nhiệt tốt, biên độ nhiệt độ đất ngày đêm ít chênh lệch, đất
thoáng khí, đủ hàm lượng ôxi cần thiết cho sự hô hấp của bộ rễ. Đất ẩm ướt cũng là điều
kiện để cung cấp kịp thời nhu cầu nước cho mạ khi khả năng hút nước của bộ rễ còn yếu.
Ruộng mạ bị ngập nước trong thời gian này sẽ làm cho bộ rễ phát triển kém và mạ bị yếu,
không thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây lúa ở giai đoạn sau. Tuy vậy, tuỳ theo sự biến

đổi của thời tiết mà chế độ nước có thể bị thay đổi để giúp cho mạ chống chịu được điều
kiện ngoại cảnh bất thuận.
Từ khi mạ có 3 lá thật trở về sau: cần giữ bảo hoà nước hay có một lớp nước nông 2 -
3 cm để đất nhuyễn, bộ rễ lúa dễ phát triển và hút thức ăn thuận lợi. Khi mạ đã được 5 - 6
lá thì tuỳ tình hình sinh trưởng của chúng và điều kiện thời tiết trong từng vụ mà có biện
pháp tưới nước khác nhau để nâng cao phẩm chất mạ.
+ Đối với mạ chiêm: nếu gặp nhiệt độ cao, mạ sinh trưởng nhanh dễ dẫn đến hiện
tượng mạ già, ống vì vậy lúc này cần rút nước trong ruộng mạ để khống chế sự sinh trưởng
phát triển của chúng. Hiện tượng thiếu nước sẽ ảnh hưởng đến sự hút dinh dưỡng của bộ
rễ, sinh trưởng bị đình trệ, cây tích luỹ nhiều hydrat carbon làm cho mạ cứng cây, đanh
dãnh, phẩm chất tốt.
+ Đối với mạ mùa: cũng có thể sử dụng biện pháp rút nước. Khi mạ có hiện tượng bị
lốp hoặc dinh dưỡng quá mạnh.
+ Đối với mạ xuân: thường là giống có năng suất cao, rất mẫn cảm với nước, sau khi
mạ được 3 lá nên giữ một lớp nước 2 -3cm trên mặt ruộng để mạ sinh trưởng nhanh về
chiều cao và tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển trên lớp đất màu, không gây khó khăn cho
công việc nhỗ mạ.
- Thời kỳ cây đẻ nhánh
Đây là thời kỳ quyết định số bông trên đơn vị diện tích nhiều hay ít, chi phối đến
năng suất lúa sau này. Tạo điều kiện thuận lợi nhất để lúa đẻ sớm và có tỷ lệ đẻ nhánh hữu
hiệu cao là yêu cầu của kỹ thuật thâm canh lúa. Mức tưới ngập khác nhau trong thời kỳ
này có ảnh hưởng lớn đến quá trình đẻ nhánh. Nhưng cả 3 vụ, mức tưới từ 5 -10cm là có
lợi nhất cho lúa đẻ nhánh và đạt dãnh hữu hiệu cao. Không có lớp nước ngập hoặc mức
nước sâu hơn đều hạn chế khả năng đẻ nhánh và thành bông về sau.
33
+ Đối với vụ chiêm và vụ xuân: tưới mức nước nông tốt hơn mức nước sâu. Ở
những ngày nhiệt độ thấp cần giữ một lớp nước từ 5 -10cm để tăng cường khả năng chịu
rét cho lúa.
+ Trong vụ mùa: mức tưới 10cm có chiều hướng tốt hơn so với các mức tưới khác.
Nguyên nhân là do điều kiện nhiệt độ và ánh sáng. Vụ mùa thường gặp lúc nhiệt độ không

khí cao làm cho nhiệt độ đất vùng rễ cao, vượt quá phạm vi nhiệt độ giới hạn sinh lý nên
đã ức chế quá trình hút dinh dưỡng và sinh trưởng của lúa. Ngược lại khi lớp nước sâu quá
15cm lại làm giảm cường độ ánh sáng chiếu vào gốc lúa, làm cho khả năng đẻ nhánh bị
đình trệ.
Mặt khác, ở mức tưới nông, độ dẫn điện của đất ở vùng rễ và vùng ngoài chênh lệch
nhau ít hơn nên sự cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng tương đối thuận lợi hơn ở mức
nước sâu. Nhiệt độ thấp, ánh sáng yếu thì ảnh hưởng xấu của mức tưới sâu đến quá trình
đẻ nhánh càng biểu hiện rõ. Chính vì thế mà trong vụ chiêm, vụ xuân với mức nước tưới
từ 10cm trở lên đều làm giảm sức đẻ nhánh và dãnh hữu hiệu.
- Thời kỳ cuối đẻ nhánh đến phân hoá đồng:
Gần đây, trong kỹ thuật trồng lúa ở nhiều nước trên thế giới và nước ta đã chú ý đến
vấn đề dùng nước để điều tiết sự sinh trưởng, phát triển của lúa. Qua kết quả nghiên cứu
của nhiều tác giả ( Trần Hoa Niên - Trung Quốc, Zamagiu- Nhật Bản. . .) thì rút nước phơi
ruộng ở cuối thời kỳ đẻ nhánh và trước lúc phân hoá đồng lúa sẽ cho năng suất cao hơn,
trọng lượng hạt cũng tăng lên. Rút nước phơi ruộng có các tác dụng sau:
+ Rút nước phơi ruộng dẫn đến cây lúa bị thiếu nước, các hoạt động sinh lý, trao đổi
chất cũng như sinh trưởng thân lá, đẽ nhánh đều bị kìm hãm so với lúa không bị rút nước.
Thời gian rút nước càng dài, sự thiếu hụt nước bảo hoà càng lớn, mức độ bị kìm hãm càng
mạnh.
+ Trên ruộng bón nhiều phân hữu cơ hoặc ruộng giàu mùn, bị ngập nước thường
xuyên, rút nước phơi ruộng tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình phân giải các chất hữu
cơ của vi sinh vật háo khí. Sau khi ngập nước trở lại, đất trở nên giàu thức ăn dễ tiêu để
cung cấp cho cây lúa ở thời kỳ làm đồng, trổ bông. Vì vậy, có thể xem rút nước phơi ruộng
trên những chân ruộng này là một biện pháp bón thúc đòng cho lúa.
Từ đó cho thấy biện pháp rút nước phơi ruộng ở cuối thời kỳ đẻ nhánh đến phân hoá
đồng chỉ nên áp dụng trong các trường hợp sau:
+ Trên các chân ruộng trũng, nhiều chất hữu cơ hoặc bón nhiều phân chuồng, thường
không chủ động khống chế được mực nước tưới. Ruộng bị ngập nước sâu từ 10 -20 cm trở
lên.
+ Trên các chân ruộng lúa sinh trưởng quá tốt có chiều hướng bị lốp ( do bón nhiều

đạm), sinh trưởng lấn át phát dục có thể dẫn đến làm bông, làm hạt kém hoặc bị các loại
nấm bệnh xâm nhập phá hại nghiêm trọng như: đạo ôn, bạc lá, khô đầu lá. . .trong những
trường hợp mức độ nguy hại lớn nếu cần thiết có thể phải rút nước ở cả những thời kỳ quan
trọng khác.
Ngoài những trường hợp trên thì không nên rút nước phơi ruộng, nhất là đối với các
giống lúa có năng suất cao, chịu phân và có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn.
- Thời kỳ làm đồng đến trổ bông
34
Ở thời kỳ này, nhu cầu nước của cây lúa rất cao. Thiếu nước dù chỉ một thời gian
ngắn cũng làm giảm năng suất rõ rệt. Theo nghiên cứu của Bộ môn Thủy nông trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội: khi tưới lớp nước sâu có khả năng hạn chế sự đẽ nhánh vô hiệu.
+ Lớp nước 10 -15 cm đến 20 -25cm, lúa mùa trổ bông sớm hơn 2 -3 ngày và thời
gian trổ bông cũng rút ngắn được 2 -3 ngày so với lớp nước tưới nông hơn.
+ Lúa chiêm, xuân khi mức tưới sâu 22 -25cm thời gian trổ bông lại kéo dài hơn.
Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do đặc tính đẽ nhánh không tập trung
trong điều kiện nhiệt độ thấp của thời tiết. Khi ngập nước sâu, sinh trưởng phát dục của
một số dãnh lúa đẻ sau có khả năng thành bông bị kìm hãm. Lớp nước sâu các đốt sâu ở
phía gốc kéo dài hơn, cây vươn cao. Không có lớp nước hoặc có lớp nước nông nhánh vô
hiệu kéo dài thời gian sinh trưởng, luá trổ bông chậm và thời gian trổ bông kéo dài hơn.
+ Mức nước tưới khác nhau cũng dẫn đến khả năng tích luỹ chất khô giảm. Không có
lớp nước trên ruộng, trọng lượng khô và bông hạt đều giảm rõ rệt so với có lớp nước. Điều
này chứng tỏ ở thời kỳ làm đồng lớp nước trên mặt ruộng là cần thiết cho quá trình dinh
dưỡng và tích luỹ chất khô. Mức nước tưới 25cm, trọng lượng khô của thân lá, bông hạt
bắt đầu giảm sút.
+ Mức nước tưới khác nhau ở thời kỳ này còn dẫn đến sự tích luỹ các chất đạm, lân,
kali trong các bộ phận của cây lúa thay đổi. Không có lớp nước, hàm lượng đạm, lân tổng
số trong thân thấp, trong lá đòng cao nhưng trong bông, hạt lại thấp. Có thể do sự thiếu
nước đã ảnh hưởng đến sự hút dinh dưỡng, sự vận chuyển các chất dự trữ từ lá vào bông,
hạt. Mức nước tưới 25 cm hàm lượng lân tổng số trong các bộ phận giảm, nhất là ở lá đòng
và bông, hạt. Ở mức tưới 10 - 15 cm hàm lượng lân trong lá đòng, đạm, lân trong bông, hạt

có chiều hướng cao hơn và hàm lượng đạm trong lá đòng lại giảm.
+ Sự khác nhau về mức nước tưới ở thời kỳ này đã dẫn đến sự chênh lệch về năng
suất hạt lúc chín. Mức nước 20 - 25 cm, số hạt trên bông ít, trọng lượng hạt và năng suất
thấp, do mức nước sâu đã ảnh hưởng đến sự phân hoá đòng và tập trung chất dinh dưỡng
sau này vào bông, hạt. Không có lớp nước, trọng lượng hạt giảm. Mức nước 5 - 15 cm lúa
có số bông nhiều. Đối với mức nước 10 - 15 cm số hạt trên bông lớn, trọng lượng 1000 hạt
cao dẫn đến năng suất cao.
- Thời kỳ trỗ đến chín
Sau khi lúa trổ bông, các sản phẩm quang hợp tích luỹ ở thân lá được chuyển vào
bông hạt. Vì vậy, ở thời kỳ này cây thiếu nước sẽ ảnh hưởng lớn đến độ mẫy của hạt và
trọng lượng hạt, năng suất giảm. Nhưng nếu giữ nước dài thì lúa chín chậm, hàm lượng
nước trong hạt cao và chất lượng hạt kém. Vậy rút nước vào lúc nào để lúa tích luỹ chất
dinh dưỡng vào hạt tốt nhất, chín sớm, thuận lợi cho công tác thu hoạch trên đồng ruộng và
chuẩn bị làm đất vụ sau là một vấn đề có ý nghĩa lớn trong sản xuất.
Rút nước sớm hay muộn trong thời kỳ này phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, khả
năng giữ ẩm của đất và đặc tính của các giống lúa khác nhau.
+ Rút nước lúc chín sữa thì hàm lượng đạm, lân, kali trong thân lá, hạt đều thấp do
lúc này cây vẫn còn hút các chất dinh dưỡng.
+ Rút nước lúc chín sáp gây trở ngại cho sự vận chuyển các chất đạm, lân, kali từ
thân lá vào hạt.
35
+ Rút nước lúc lúa cứng hạt đối với lúa chiêm vẫn làm giảm khả năng vận chuyển
đạm từ lá đồng vào hạt. Đối với lúa mùa rút nước lúc này hàm lượng đạm, lân, kali trong
hạt đạt trị số cao nhất.
+ Giữ lớp nước trên ruộng cho tới lúc chín hẳn: đối với lúa chiêm thì hàm lượng
đạm, lân, kali trong lá cao nhất. Đối với lúa mùa vẫn đạt cao nhất nhưng trọng lượng hạt
lại giảm hơn so với với rút nước lúc cứng hạt.
Về các yếu tố năng suất cũng cho thấy rõ là đối với lúa chiêm rút nước trước lúc chín
hẳn đều làm tăng số hạt lép, giảm trọng lượng 1000hạt và dẫn đến giảm năng suất từ 6,3 -
18%. Đối với lúa mùa, rút nước lúc lúa cứng hạt không ảnh hưởng gì đến năng suất, rút

nước lúc chín sữa, chín sáp giảm 2 - 11% năng suất.
b. Chế độ tưới cho lúa gieo thẳng

Gieo thẳng là một hình thức thâm canh lúa tiên tiến, vừa nâng cao được năng suất
lúa, vừa tiết kiệm được công lao động, có điều kiện tốt để cơ giới hoá sản xuất.
Hiện nay gieo thẳng được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới có nền nông
nghiệp phát triển. Tuy nhiên, gieo thẳng lúa phải cần có những điều kiện cơ sở vật chất và
kỹ thuật nhất định. Trước hết đồng ruộng phải chủ động về tưới tiêu, có giống lúa thích
hợp với kỹ thuật gieo thẳng
Trên cơ sở đó cần nắm vững kỹ thuật thâm canh lúa gieo thẳng mà khâu chủ yếu, có
ý nghĩa quyết định là phòng trừ cỏ dại. Để giải quyết vấn đề cỏ dại cạnh tranh dinh dưỡng
trong điều kiện không làm cỏ bằng cơ giới, cần xác định đúng đắn chế độ tưới nước và sử
dụng hợp lý các loại thuốc trừ cỏ hoá học.
Khác với lúa cấy, lúa gieo thẳng đòi hỏi một chế độ nước, không khí để thoả mãn
nhu cầu nước theo yêu cầu sinh lý của chúng, điều hoà ôn, ẩm độ đồng ruộng, tạo điều
kiện cho lúa dinh dưỡng tốt mà con có tác dụng tiêu diệt, ngăn ngừa, kìm hãm sự sinh
trưởng của cỏ dại.
Về mặt sinh lý, lúa gieo thẳng chia làm 2 giai đoạn yêu cầu nước.
- Từ lúc gieo hạt xuống đất cho đến khi bắt đầu đẻ nhánh:
+ Cây lúa không ưa tưới ngập mà tốt nhất là được sinh trưởng trên đất ẩm. Nếu trên
thực tế cần phải tưới ngập ngay sau khi gieo hoặc là sau khi nãy mầm, cũng là nhằm mục
đích đảm bảo chế độ nhiệt trong đất phù hợp với yêu câu của cây để hạt lúa nãy mầm hoặc
để khống chế cỏ dại.
+ Hạt lúa nãy mầm tốt trong điều kiện nhiệt độ từ 18 - 20
0
C và độ ẩm đất 95 - 98%
độ chứa ẩm tối đa. Mầm bắt đầu phát triển khi hạt lúa đã hút được 20 - 25% nước so với
trọng lượng của nó. Vì vậy gắn liền với những mục đích trên, trong điều kiện cơ giới hoá
cao ngay sau khi gieo hạt khô xuống thì tưới ngập một lớp nước 10 - 15 cm. Sau 3 - 5 ngày
để đất bảo hoà nước và lớp nước trên ruộng đã thấm hết xuống đất thì mầm lúa cũng bắt

đầu phát triển.
+ Ở khu vực miền Trung, do điều kiện nhiệt độ khi gieo còn thấp, không thuận lợi
cho sự nãy mầm của hạt khô, thời gian nãy mầm kéo dài dẫn đến thu hoạch muộn, cỏ dại
lấn át. Vì vậy phải ủ cho hạt giống nãy mầm rồi gieo trên đất ẩm nhiều bùn.
+ Với nhiệt độ 20
0
C trở lên, thì sau khi gieo khoảng 20 ngày lúa bắt đầu đẻ nhánh.
Trong thời gian này giữ đất ẩm ướt, không bị nứt nẻ là điều kiện tốt nhất cho lúa sinh
36
trưởng nhưng cũng là điều kiện lý tưởng cho cỏ dại nãy mầm. Vì vậy phải sử dụng lớp
nước tưới ngập để kìm hãm chúng. Sử dụng lớp nước để ngăn ngừa cỏ dại sinh trưởng có
thể tuỳ theo loại cỏ dại và điều kiện chủ động của nước tưới mà áp dụng chế độ tưới.
+ Khi lúa 5cm, cho ruộng ngập một lớp nước cao từ từ nhưng không quá 2/3 chiều
cao cây. Lúa được 5 - 6 lá và bắt đầu đẻ nhánh phải từ từ rút nước xuống 3 - 5 cm để thuận
lợi cho lúa đẻ nhánh. Trường hợp làm đất kỹ, ruộng ít cỏ dại thì chỉ cần ruộng ngập thường
xuyên một lớp nước 3 - 5 cm cũng có thể đảm bảo khống chế hạt cỏ nãy mầm và sinh
trưởng. Mặt khác lớp nước nông như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cây mạ sinh trưởng
dinh dưỡng.
- Giai đoạn từ khi lúa đẻ nhánh đến khi lúa chín sáp:
Ở giai đoạn này lúa cần một lớp nước ngập thường xuyên trên mặt ruộng. Lớp
nước ở thời kỳ đẻ nhánh chỉ cần 3 - 5 cm để lúa đẻ sớm, đẻ tập trung , về sau đảm bảo số
bông hữu hiệu cao. Lớp nước còn có tác dụng tiếp tục kìm hãm sự sinh trưởng của cỏ dại,
giảm bớt sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm của đất và giữ cho đất luôn luôn ở tình trạng
bảo hoà nước phù hợp với nhu cầu sinh lý nước ở thời kỳ này.
+ Thời kỳ làm đòng trổ bông vẫn giữ lớp nước sâu 5 - 15 cm tới khi chín sữa thì
cây lúa không cần lớp nước trên mặt ruộng, nhưng cần đủ ẩm để quá trình chín của hạt
được thuận lợi. Khi lúa chín thì cần rút nước để đất khô ráo tạo điều kiện thuận lợi cho thu
hoạch nhanh chóng, dễ dàng nhất là trong điều kiện cơ giới hoá.
2.2.2.Chế độ tưới cho ngô
Theo nhu cầu sinh lý nước của cây ngô, ngô cần ít nước ở thời kỳ sinh trưởng đầu

và cần rất nhiều nước khi bắt đầu phân hoá cờ cho đến khi chín sữa. Nhưng nhìn chung,
qua từng thời kỳ sinh trưởng, đảm bảo được nhu cầu độ ẩm đất thích hợp cho chúng thì có
thể đạt được năng suất cao.
- Độ ẩm đất thích hợp để ngô nãy mầm thường trên 65% độ ẩm tối đa. Độ ẩm thấp
, ngô kéo dài thời gian nãy mầm, nhưng độ ẩm cao, quá trình hô hấp của hạt cũng ức chế
quá trình nãy mầm.
+ Trong vụ đông xuân giữ độ ẩm 70 - 80% thì chỉ sau 6 ngày ngô đã mọc 100%,
độ ẩm 50 - 60% là 9 ngày, độ ẩm 30 - 40% là 12 ngày mới mọc và thời gian mọc kéo dài
đến 15 ngày, độ ẩm 100% sau 8 ngày ngô đã mọc nhưng sinh trưởng của rễ mầm không
khoẻ như ở độ ẩm 70 - 80%.
+ Khi gieo ngô, đất cần đủ độ ẩm, nếu độ ẩm đất thấp dưới 60% thì cần phải tưới
trước khi gieo bằng phương pháp tưới mưa nhân tạo hay tưới rãnh với khoảng cách bằng
khoảng cách giữa hai hàng ngô (0,6 - 0,8m), rãnh tưới được bố trí theo chiều dài của các
hàng ngô để sâu khi tứơi nước thấm đều vào đất thì có thể cày rạch hàng gieo giữa các rãnh
tưới. Trường hợp gieo bằng máy thì sau khi tưới nên bừa lại rồi mới gieo hạt.
+ Lượng nước tưới trước khi gieo thay đổi từ 250 - 350 m
3
/ha tuỳ theo tính chất đất
để độ ẩm đất đạt đến 90 - 100% độ ẩm tối đa.
- Từ khi mọc đến 3 - 4 lá: ngô có khả năng chịu hạn. Nếu ở thời gian này đất có độ
ẩm thấp, rễ ngô phát triển xuống sâu hơn, thuận lợi cho sự dinh dưỡng về sau. Hơn nữa
đối với vụ đông xuân ( xuân), nhiệt độ không khí còn thấp, ánh sáng ít, khả năng sinh
trưởng và tích luỹ chất khô còn chậm, nhu cầu nước của cây ngô còn thấp, do đó không
37
cần phải tưới. Trường hợp hạn kéo dài, trong suốt thời kỳ này không mưa và trước khi gieo
độ ẩm đất trên dưới 65% thì nên tưới vào lúc 3 lá để đảm bảo cho quá trình sinh trưởng
dinh dưỡng được bình thường. Lượng nước tưới có thể từ 300 - 400m
3
/ha để độ ẩm đất đạt
90 - 100%.

- Thời kỳ 3 - 4 lá đến 7 - 8 lá: ngô bắt đầu sinh trưởng mạnh hơn. Độ ẩm đất thích
hợp 70 - 80%, độ ẩm đất ở thời kỳ này có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của ngô về sau.
Khi độ ẩm đất 50 - 60% giảm năng suất ít hơn độ ẩm 30 - 40% hay 90 - 100%. Điều đó
chứng tỏ rằng trong thời kỳ này cây ngô chịu hạn giỏi hơn chịu úng. Nhưng không có
nghĩa là không cần nước, mà phải đảm bảo độ ẩm 70 - 80% ngô mới phát triển bình
thường.
- Thời kỳ 7-8 lá đến 13 - 14 lá: nhu cầu nước và sinh trưởng của ngô tăng dần. Đây
là thời kỳ đầu của quá trình phát dục, thời kỳ phân hoá cờ của ngô và cũng là thời kỳ cần
cung cấp đầy đủ nước, dinh dưỡng để ngô tăng trưởng về số lượng, tạo điều kiện cho trổ
cờ và phun râu tốt về sau. Trong thời kỳ này ngô dùng khoảng 20% tổng lượng nước cần
trong suốt quá trình sinh trưởng và lượng cần trung bình hàng ngay khoảng 35 - 38m
3
/ha.
Độ ẩm 70 - 80 % vẫn là giới hạn thích hợp nhất cho ngô ở thời kỳ này. Nếu độ ẩm giảm
xuống 50 - 60% hoặc giữ ở mức chứa ẩm tối đa 100% thì sẽ gây tác hại lớn đến khả năng
phát triển diện tích lá, tích luỹ chất khô và năng suất cuối cùng.
- Từ khi ngô 13, 14 lá đến trổ cờ phun râu: đây là thời kỳ khủng hoảng nước của
cây, lượng nước trong thời kỳ này chiếm hơn 60% tổng lượng nước cần trong suốt quá
trình sinh trưởng của nó. Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây cũng rất nhanh, trung bình 5 - 6
cm ngày và lượng chất khô tích kuỹ khoảng 3 - 3,5 tạ/ha/ngày. Lượng nước cần trung bình
hàng ngày cao nhất 65 - 70m
3
/ ha / ngày. Độ ẩm thích hợp từ 80 - 85%. Thiếu nước trong
thời kỳ này làm giảm năng suất nhiều hơn so với các thời kỳ trước. Đủ nước trong thời kỳ
này có tác dụng tốt đến quá trình hình thành các cơ quan sinh sản, rút ngắn thời gian từ trổ
cờ đến phun râu, làm cho quá trình thụ phấn thụ tinh được thuận lợi, bắp ngô nhiều hạt và
ít bị hiện tượng “đuôi chuột”. Mặt khác, đây cũng là thời kỳ tích luỹ chất khô lớn nhất của
cây ngô và có ý nghĩa quyết định đến hàm lượng các chất dinh dưỡng được tích luỹ vào hạt
ở thời kỳ sau.
- Từ lúc ngô thâm râu đến chín: nhu cầu nước của ngô giảm dần. Tuy nhiên, đất

thiếu độ ẩm thì ảnh hưởng lớn đến quá trình vận chuyển các chất dự trữ vào hạt dẫn đến
năng suất kinh tế thấp, tuy năng suất sinh vật học có thể lớn. Ngược lại nếu quá thừa độ
ẩm, đất bảo hoà nước hay ngập nước thì quá trình hô hấp của cây ngô tăng lên rất mạnh
nhưng quá trình quang hợp và vận chuyển vật chất vào bắp, hạt bị đình trệ, lá xanh trên cây
héo nhanh chóng, cây ngô sớm bị chết và giảm năng suất nghiêm trọng. Trong trường hợp
đất thiếu độ ẩm thì năng suất ngô bị giảm ít hơn so với bị ngập. Giữ độ ẩm đất 50 - 60% ở
thời kỳ này làm giảm 9 % năng suất so với độ ẩm đất 70 - 80%.
Tóm lại, trong suốt quá trình sinh trưởng, cây ngô yêu cầu độ ẩm đất thích nằm
trong giới hạn 70 - 85%, thấp hoặc cao hơn giới hạn đó đều không thuận lợi cho dinh
dưỡng, sinh trưởng của ngô.
Ở khu vực Miền Trung, vào đầu vụ đông xuân từ tháng 12 đến tháng 3, lượng mưa
tương đối lớn, từ 200 - 400mm và mỗi tháng mưa chừng 10 - 13 ngày trong khi đó lượng
38
bốc hơi chỉ từ 30 - 50mm/tháng và độ ẩm không khí cao, chỉ số hạn < 1hoặc xấp xỉ bằng 1.
Do đó đất đủ ẩm không cần phải tưới cho ngô. Nhưng sang tháng 4, 5, 6 những đợt gió lào
dần dần xuất hiện đem theo thời tiết khô nống, có những đợt gió lào kéo dài 15 ngày đêm,
độ ẩm không khí giảm xuống dưới 50% và nhiệt độ không khí lên trên 35
0
C. Trong thời
gian này, hàng năm có 20 - 50 ngày khô nống, có gió lào. Vì vậy lượng nước bốc hơi rất
lớn, trung bình 80 - 160 mm/tháng nhất là trong tháng 6, 7. Lượng mưa trong thời gian này
5- - 150mm/tháng nhưng phân bố không đều, thường là mưa rào và mỗi tháng có thể có từ
1 - 2 trận mưa. Ngô bị hạn đất và hạn không khí nghiêm trọng ở thời kỳ trổ cờ, phun râu,
chín sữa. Tưới nước cho ngô trong lúc này có ý nghĩa rất lớn, tạo điều kiện để giảm nhiệt
độ, nâng cao độ ẩm không khí, làm giảm được nhu cầu bốc hơi mặt lá, đủ nước cho cây để
tiến hành các hoạt động sinh lý bình thường, vận chuyển, tích luỹ chất dinh dưỡng vào hạt.
Điều quan trọng nhất là tưới nước để duy trì sự phát triển của cơ quan sinh sản, hạt phấn
đủ sức sống, bắp ngô có thể phun râu và quá trình thụ phấn thụ tinh được thuận lợi ( hạt
phấn chỉ có thể nãy mầm tốt khi chứa hơn 60% nước và nhiệt độ không khí < 35
0

C, ẩm độ
không khí trên 60%).
Trong điều kiện khí hậu miền Trung, tưới nước cho ngô lúc trổ cờ 10 - 15 ngày có
tác dụng giúp cờ trổ đều, thời gian chênh lệch giữa trổ cờ và phun râu ngắn lại, giúp cho
quá trình thụ tinh được dễ dàng và bắp ngô nhiều hạt. Tưới nước lúc chín sữa làm tăng khả
năng tích luỹ đường bột vào hạt, cây ngô kéo dài sinh trưởng, trọng lượng hạt và trọng
lượng bắp đều tăng.
2.2.3. Chế độ tưới cho lạc
Ở khu vực miền Trung một năm có thể trồng được 2 vụ lạc: lạc xuân và lạc thu. Đối
với lạc xuân thường bị hạn nghiêm trọng ở giai đoạn hình thành qủa đến chín. Còn lạc thu
thì bị hạn ở giai đoạn nãy mầm. Phải nắm vững được điều kiện khí hậu thời tiết và nhu cầu
sinh lý của cây lạc để xây dựng chế độ tưới thích hợp.
- Ở giai đoạn gieo mọc: cây lạc yêu cầu độ ẩm đất 70 - 80%. Nhưng nó vẫn có thể
nãy mầm được ở điều kiện ẩm độ 80 - 90% hoặc 30 - 40%. Độ ẩm càng thấp, lac nãy mầm
càng chậm. Độ ẩm cao 90 - 100%, một số hạt bị thối mầm, dẫn đến tỷ lệ hạt nãy mầm thấp
hơn. Vì vậy, trước khi gieo cần chú ý đến độ ẩm đất, nếu độ ẩm < 50% và gieo hàng thì
cần phải tưới trước khi gieo bằng phương pháp tưới rãnh với khoảng cách giữa các rãnh
0,7 - 0,9m hoặc tưới mưa nhân tạo. Nếu gieo luống thì gieo xong, tưới nước vào rãnh xen
kẻ giữa các luống. Lượng nước tưới chỉ cần 150 - 250m
3
/ha tuỳ theo độ ẩm đất trước khi
tưới và phương pháp tưới.
- Lạc 3 lá đến phân cành: không cần độ ẩm cao, vì đầy đủ nước lạc sinh trưởng
mạnh, các đốt trên cành vươn dài, lạc ra hoa ở các vị trí quá xa mặt đất , tia lạc không phát
triển được dài để đâm xuống đất làm củ, thường dễ bị héo khô trên mặt đất. Đất có độ ẩm
50 - 60% hay thấp hơn, lạc sinh trưởng tuy có chậm nhưng các đốt ngắn, về sau các vị trí
ra hoa đều gần mặt đất, thuận lợi cho quá trình đâm tia làm củ và củ chín đều. Sự sinh
trưởng nhanh hay chậm ở thời kỳ này không có ảnh hưởng đến năng suất.
- Thời kỳ lạc ra hoa đến hình thành tia củ: đây là thời kỳ quyết định năng suất của
lạc. Thời kỳ này lạc cần tới 48 - 59% tổng lượng nước cần trong suốt quá trình sinh trưởng

và yêu cầu độ ẩm đất không thấp hơn 70% độ ẩm tối đa. Độ ẩm dưới 50% quá trình ra hoa
39
bị ức chế, hoa ít, nở không tập trung, đâm tia xuống đất khó khăn. Đủ nước, lạc ra hoa
sớm, nhiều và tập trung. Độ ẩm đất ở thời kỳ này còn quyết định lượng chất khô cây tích
luỹ được. Độ ẩm đất càng thấp, lượng chất khô của thân lá càng ít và có ảnh hưởng rất lớn
đến năng suất củ vì đây là thời kỳ cây lạc tích luỹ chất dinh dưỡng nhiều để về sau vận
chuyển về củ. Nhưng quá thừa nước thì dễ bị chết úng và làm giảm tốc độ tích luỹ chất
khô. Vì vậy, trước lúc lạc ra hoa cần được tưới nước nhất là khi độ ẩm đất dưới 70%.
Lượng nước tưới có thể từ 250 - 300m
3
/ha để sau khi tưới, độ ẩm đất có thể lên tới 100%.
Tuỳ theo điều kiện thời tiết và lượng mưa từng năm, ở trong thời kỳ này có thể tưới 1 -2
lần. Sau khi tưới xong nên xới xáo và vun gốc để đất thoáng khí và giữ ẩm lâu hơn, mặt
khác tạo điều kiện thuận lợi cho tia củ đâm xuống đất Tuỳ theo điều kiện của từng vùng
mà có phương pháp tưới khác nhau.
- Thời kỳ hình thành củ đến chín: đây là thời kỳ cây lạc vận chuyển và tích luỹ chất
dinh dưỡng vào hạt. Độ ẩm đất thích hợp 70 - 80%. Độ ẩm thấp hoặc cao hơn đều ảnh
hưởng đến năng suất củ.
Tóm lại:
Khu vực trung du và đồng bằng Bắc Bộ lạc xuân cần tưới ở thời kỳ gieo mọc, thời
kỳ ra hoa đến hình thành tia củ. Lạc thu tưới nước ở thời kỳ hình thành tia củ đến chín.
Khu vực Miền Trung, lạc xuân tưới nước từ thời kỳ ra hoa , hình thành tia củ đến
chín. Lạc thu tưới nước ở thời kỳ gieo mọc.
2.2.4. Chế độ tưới cho mía
Mía là cây hàng năm nhưng có thời gian sinh trưởng dài 10 - 12 tháng. Do đó bất
cứ trồng ở vùng nào, mía cũng sinh trưởng qua vụ hanh khô, thiếu lượng nước cần thiết để
đạt được năng suất cao.
Mía là cây trồng chịu hạn và chịu úng hơn các cây trồng khác nhưng tưới nước cho
mía vẫn là điều kiện cần để đạt năng suất cao.
Theo nhu cầu sinh lý của cây mía, thời kỳ sinh trưởng đầu và cuối, mía cần ít nước

hơn thời kỳ làm đốt vươn cao.
- Thời kỳ nãy mầm: độ ẩm thích hợp nhất là 70 - 80%. Độ ẩm 90 - 100% mía nãy
mầm nhanh, mầm khoẻ , nhất là trên các loại đất nhẹ, thoáng khí tốt. Độ ẩm 40 - 50% thời
gian nãy mầm của mía kéo dài và chậm tới 6 - 8 ngày, đồng thời không đạt được 100% tỷ
lệ nãy mầm. Ở thời kỳ này nếu độ ẩm đất thấp dưới 70% thì nên tưới nước cho mía ngay
sau khi trồng. Lượng nước tưới vào khoảng 350 - 400m
3
/ha để đảm bảo sau khi tưới, đất
đạt đến giới hạn độ ẩm tối đa. Đối với mía nên áp dụng phương pháp tưới rãnh . Rãnh tưới
cũng chính là rãnh đặt hom. Sau khi bón phân, đặt hom xong thì tưới.
- Thời kỳ mía đẻ nhánh: đây là thời kỳ quyết định mật độ cây trên đơn vị diện tích
và cũng là thời kỳ mía cần điều kiện dinh dưỡng tốt từ môi trường. Đủ phân, đủ nước mía
đẻ sớm, đẻ tập trung, về sau mía sinh trưởng tốt và chín đều, phẩm chất tốt. Độ ẩm đất 70
- 80% mía đẻ sớm và sức đẻ nhánh cao, độ ẩm 90 - 100% mía đẻ chậm, độ ẩm đất 40 -
50% không thuận lợi cho mía đẻ nhánh. Khi độ ẩm < 70% tiến hành tưới. Mức tưới 400 -
500m
3
/ha. Sử dụng phương pháp tưới rãnh xen kẽ giữa các hàng mía. Nên tưới sau khi đã
bón thúc để phát huy hiệu lực của phân bón. Nếu sau khi tưới 20 ngày mà không có mưa
có thể tưới lần thứ 2.
40
- Thời kỳ mía làm đốt, vươn lóng: là thời kỳ quyết định trọng lượng cây cao hay
thấp. Thời kỳ này lượng nước cần cho mía chiếm trên 60% tổng lượng nước cần trong suốt
quá trình sinh trưởng và hiệu suất sử dụng nước cao nhất. Để tạo nên 1 kg chất khô ở thời
kỳ đẻ nhánh, mía cần 500kg nước, nhưng ở thời này mía chỉ cần 350kg. Độ ẩm đất thích
hợp trong thời kỳ này nằm trong giới hạn 70 - 80% đến 90 - 100%.
+ Thời kỳ vươn lóng là thời kỳ khủng hoảng nước của cây mía, do đó khi thiếu
nước ở thời kỳ này cần phải tưới. Khu vực Miền Trung, do ảnh hưởng của gió lào khô
nống, nhiều khi kéo dài hàng tháng, độ ẩm đất vầ độ ẩm không khí xuống rất thấp, mía cằn
cỗi, các lóng ngắn biểu hiện thiếu nước nghiêm trọng. Tưới nước trong thời kỳ này có thể

là tăng suất mía tới 100%.
Mía là cây trồng hàng rộng, khoảng cách hàng từ 1,3 - 1,5 m sau khi vun gốc giữa
các hàng mía hình thành những rãnh sâu, rộng sử dụng làm rãnh tưới rất tốt. Nước tưới dẫn
vào ngập 2/3 rãnh và để nước từ từ thấm đều vào đất. Lượng nước tưới mỗi lần 400 - 500m

3
/ha, sau 20 ngày nếu trời không mưa thì tưới lần 2.
- Thời kỳ chín: yêu cầu nước giảm dần, độ ẩm đất thích hợp khoảng 50 - 60%. Thời
kỳ này không cần phải tưới.
2.2.5. Chế độ tưới cho các loại rau
a. Bắp cải
Bắp cải là cây trồng yêu cầu nước nước lớn. Ở Miền Bắc trong vụ đông xuân chỉ
trong điều kiện được tưới thì bắp cải mới cho năng suất cao.
Lượng nước cần cho bắp cải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, nhiệt độ, độ
ẩm không khí, lượng mưa.
Để năng suất đạt 400tạ/ha thì bắp cải cần một lượng nước tưới như sau:
- Bắp cải sớm cần 4500m
3
/ha
- Bắp cải chính vụ cần 6000 m
3
/ha
- Bắp cải muộn cần 3500m
3
/ha
Đối với bắp cải sớm, trồng đầu vụ trong thời tiết khô hanh, độ ẩm đất cần đảm bảo
không thấp hơn 80% và duy trì như vậy cho tới lúc thu hoạch. Độ ẩm thấp hơn 60% làm
giảm 50% năng suất và độ ẩm 70% tuy không làm giảm trọng lượng của cây nhưng làm
giảm trọng lượng của phần bắp cuộn dẫn đến làm giảm năng suất kinh tế. Giảm độ ẩm đất
ở bất cứ thời kỳ nào trong quá trình sinh trưởng cũng làm giảm năng suất bắp cải.

Để duy trì độ ẩm cần thiết cho bắp cải, trong điều kiện thời tiết ở khu vực đồng
bằng Bắc bộ, phải thực hiện chế độ tưới nước như sau:
- Sau khi trồng cần tưới nước ngay để đảm bảo bắp cải sớm hồi xanh, bén rễ và cứ
cách 10 - 12 ngày sau lại tưới lần 2, lần 3 Lượng nước tưới tăng dần theo sự sinh trưởng
của thân lá kể từ lúc trồng cho đến lúc bắt đầu cuộn bắp. Trong thời kỳ này lượng nước
tưới góp phần quyết định sự phát triển diện tích lá. Ở thời kỳ này có thể tưới lần thứ nhất
250 - 300m
3
/ha và những lần tưới sau tăng dần từ 350 - 450m
3
/ha để đảm bảo làm ẩm được
lớp đất 30 - 40cm, phù hợp với sự phát triển của bộ rễ và nhu cầu nước ngày càng tăng của
bắp cải.
41
- Sau khi bắp cải đã cuộn, đối với bắp cải chính vụ và cuối vụ: khoảng cách giữa
các lần tưới nên kéo dài 13 - 15 ngày để nâng cao chất lượng hàng hoá, nhất là bắp cải
trồng muộn và cần bảo quản lâu.
- Phương pháp tưới được sử dụng rộng rãi nhất trong sản xuất đối với bắp cải là
tưới rãnh, khi tưới kết hợp với bón phân và xới xáo để nước thấm vào đất dễ dàng và nâng
cao được hiệu lực của phân bón.
b. Cà chua
Cà chua là cây thu hoạch quả, yêu cầu nước không cao lắm và thân lá của nó được
bao phủ một lớp lông tơ có tác dụng chống bốc hơi. Cà chua là cây trồng có khả năng sinh
trưởng mạnh nhưng sức hút nước của bộ rễ yếu nên cần có độ ẩm đất trong một giới hạn
thích hợp. Vì vậy, cần phải tưới nước để tạo điều kiện cho cà chua sinh trưởng tốt.
Tưới cho cà chua để đảm bảo sự cần thiết cho sinh trưởng thân lá và phát triển của
quả nhưng mặt khác phải thuận lợi cho sự hình thành hoa và quả chín với chất lượng cao.
Cà chua thích hợp với nhiệt độ không khí không thấp hơn 15
0
C, tốt nhất là 22 -

24
0
C; với ẩm độ 70% có thể thu hoạch được 58% năng suất, trong khi độ ẩm 50 - 60% chỉ
thu hoạch được 36% năng suất. Độ ẩm đất thích hợp cà chua sớm cho thu hoạch.
Cây cà chua khủng hoảng nước ở thời kỳ ra hoa đến quả chín, kéo dài khoảng 2
tháng, không đủ độ ẩm trong giai đoạn này có thể làm tăng tỷ lệ hoa rụng, quả nhỏ, sinh
trưởng bị đình trệ.
- Ở thời kỳ phát triển thân la: cần duy trì độ ẩm thích hợp để cây sinh trưởng bình
thường. Độ ẩm thích hợp tuỳ vào điều kiện thời tiết. Ở vùng khô hạn, độ ẩm đất không
được thấp hơn 70%, nhưng trong vùng độ ẩm không khí cao, độ ẩm đất không được vượt
quá 70%.
- Thời kỳ quả chín: ở vùng khô hạn cần giữ độ ẩm đất không thấp hơn 60% và tiến
hành tưới cho đến cuối thời kỳ sinh trưởng thân lá, nếu không năng suất quả chín bị giảm,
sản phẩm hàng hoá sẽ kém. Nếu độ ẩm lớn hơn 80% thì phẩm chất quả chín bị giảm.
- Khu vực Miền Bắc, cà chua trồng trong tháng 9, thu hoạch vào tháng 11 - 12
thường bị khô hạn ở thời kỳ phát triển quả, làm cho quả bé, năng suất thấp, vì vậy cần phải
tưới trong thời kỳ này.
- Cà chua trồng đầu tháng 10 thu hoach tháng 1 - 2 đều sinh trưởng trong thời tiết
hanh khô, ít mưa. Giai đoạn phát triển thân lá, độ ẩm đất tự nhiên còn tương đối cao, chỉ
cần tưới 1 - 2 lần sau khi trồng 15 - 20 ngày, kết hợp tưới nước, bón phân và vun gốc. Giai
đoạn ra hoa, phát triển quả và quả chín cần đảm bảo độ ẩm đất không thấp hơn 70%. Vì
vậy, cần tưới cho cà chua một lần khi xuất hiện chùm hoa đầu tiên, sau 20 ngày thì tưới lần
thứ hai.
- Cà chua trồng đầu tháng 2 và thu hoạch vào tháng 4 - 5 sinh trưởng vào lúc thời
tiết đã ấm dần và đã có mưa khá lớn, chỉ cần tưới 1 - 2 lần ở thời kỳ sinh trưởng thân lá
ban đầu, nếu độ ẩm đất dưới 70%.
Ở khu vực miền Trung, nhìn chung cà chua sinh trưởng trong điều kiện khá thuận lợi, vụ
xuân thì nên tưới vào giai đoạn phát triên thân lá và ra hoa kết quả. Vì ở thời điểm này
một số nơi đã có gió tây nam.
42

Tưới nước cho cà chua nên áp dụng phương pháp tưới rãnh, mỗi lần từ 200 -
250m
3
/ha, đảm bảo sau khi tưới độ ẩm trung bình trong lớp đất 0 - 30cm đạt đến độ ẩm 90
- 95%.
2.2.6. Chế độ tưới nước cho cây bông
Bông vải là loại cây rất "háo" nước, nhất là trong giai đoạn đơm hoa kết trái. Thực
tế cho thấy, nơi nào chủ động được nguồn nước tưới thì năng suất bông sẽ rất cao. Cho nên
vấn đề thủy lợi được xem là ưu tiên số 1 trong việc đầu tư sản xuất cây bông vải. Vì vậy,
sẽ không có gì phải bất ngờ khi nghe nông dân bông đầu tư tiền triệu để lo khâu này.
Bông là cây chịu hạn tốt do bộ rễ phát triển và nhờ tính thẩm thấu của các mô. Tuy
cây bông có khả năng chịu hạn nhưng nhu cầu nước của nó khá lớn.
Nhu cầu nước của cây bông thay đổi rất lớn tùy theo thời kỳ sinh trưởng và phát
triển. Theo kết quả nghiên cứu của Liên Xô cũ, Ai Cập, Ấn Độ…
- Thời kỳ cây con: 18,75 – 22,5m
3
/ha/ngày trong đó thoát hơi nước của cây chiếm
10 – 20%.
- Thời kỳ ra nụ đầu tiên đến khi ra hoa: 33 – 37,5m
3
/ha/ngày. Trong đó lượng nước
bốc hơi từ mặt đất và thoát hơi nước của cây bằng nhau.
- Thời kỳ ra hoa: 70 – 90m
3
/ha/ngày. Trong đó cây thoát hơi nước là 70 – 90%.
- Thời kỳ kết quả: 37,5 – 45m
3
/ha/ngày. Cây thoát hơi nước 10 – 20%.
Tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và thời gian sinh trưởng của cây bông, nhu cầu
nước của nó khoảng 700 – 1.300mm. Trong thời kỳ cây con nhu cầu nước của cây bông

thấp, chỉ chiếm 10% tổng nhu cầu nước. Từ khi ra nụ đến khi ra hoa yêu cầu nước tăng lên,
đến khi ra hoa rộ cây bông cần nhiều nước nhất vì cây có diện tích lá lớn nhất, chiếm
khoảng 50 – 60% tổng nhu cầu nước. Khi cây bông chín nhu cầu nước giảm dần.
a. Cung cấp nước và năng suất bông
Bông là cây chịu hạn tốt do bộ rễ khá phát triển và nhờ tính thẩm thấu của các mô.
Tuy cây bông chịu hạn nhưng nhu cầu tưới của cây bông khá lớn. nói chung vùng có lượng
mưa hàng năm dưới 350mm cần tưới nước bổ sung.
Cây bông yêu cầu tưới nước thích hợp đặc biệt ở thời kỳ trước ra nụ và trong thời
gian ra hoa kết quả. Trong thời kỳ này cây bông được tưới nước thích hợp, thời gian sinh
trưởng của cây sẽ kéo dài và sản lượng bông sẽ cao. Nhưng nếu tưới nước nhiều, các phần
trên mặt đất phát triển mạnh, có thể làm cho bông ra hoa chậm, rụng nụ làm ảnh hưởng đến
năng suất.
Ở thời kỳ hình thành hoa nếu thiếu nước nghiêm trọng có thể làm cho cây phát
triển cây phát triển không hoàn chỉnh, nhưng sau đó tưới nước đầy đủ cây bông được hồi
phục và sự hình thành hoa lại được tiếp tục.
Thiếu nước bắt đầu từ ra hoa đến ra hoa nở rộ ảnh hưởng đến năng suất hơn là thiếu
nước ở cuối thời kỳ ra hoa rộ. Nếu thiếu nước nghiêm trọng ở cuối thời kỳ ra hoa và đầu
thời kỳ hình thành quả có thể làm quả bị rụng nhiều,. Tuy nhiên trong thời kỳ ra hoa đất
thiếu ẩm một chút sẽ hạn chế được sinh trưởng dinh dưỡng, sự hình thành quả thuận lợi và
năng suất cao hơn, tuy số hoa có ít hơn.
Mặt khác, khi đất thiếu ẩm thì thời gian sinh trưởng của cây bông bị rút ngắn lại
nên năng suất cũng bị giảm. Cây bông thiếu nước màu sắc ở thân thay đổi và lá có màu
xanh đậm hơn.
Ở thời kỳ quả chín nhu cầu nước giảm xuống. Nếu độ ẩm đất cao có thể làm cho
quả bông nở chậm, hàm lượng nước cao trong quả dễ bị thối.
Tưới liên tục cho cây bông sẽ làm giảm năng suất bông .
Một số nơi nước tưới cho bông phụ thuộc vào nguồn nước tưới cho cây lúa. Vì vậy,
khi cây bông bước vào giai đoạn quyết định nhất đến năng suất (rộ quả) thì lại rơi vào thời
43
điểm đất lúa nghỉ giữa 2 vụ, bị cắt nước hoàn toàn. Không chịu được khô hạn, cây bông rơi

vào tình trạng thiếu nước gây thiệt hại năng suất hoặc chết, quả và lá rụng trơ cành
b. Sự hút nước của cây bông
Bông có bộ rễ ăn sâu và khá phát triển. Rễ chín có thể ăn sâu 2-3m, rễ con rộng
0,6-1m nếu tầng đất canh tác sâu. Thông thường khi bộ rễ phân bố ở lớp đất từ 0-90m có
trọng lượng rễ trên 90% trọng lượng của cây thì có thể hút được 70-80% lượng nước sẵn
có trong đất. khi cây bông phát triển hoàn chỉnh có bộ rễ ăn sâu 1,0-1,7m thì có thể hút
được 100% lượng nước có trong tầng đất.
c. Chế độ tưới cho cây bông
Các thời kỳ quan trọng cần cung cấp nướ cho cây bông là ra nụ , ra hoa kết quả. Có
thể dựa vào thời gian sinh trưởng phát triển để tưới nước:
- Tưới nước khi gieo : nhằm cung cấp đầy đủ nước cho hạt nảy mầm hoặc dự trữ
nước trong đất cho cây con sinh trưởng.Nếu đất khô hạn lượng nước tưới có thể 1500m
3
/ha
.
- Tưới nước trong thời gian sinh trưởng : là tưới sau khi cây bông mọc. Số lần tưới
và lượng nước tưới trong thời gian này tùy thuộc tình hình mưa, đọ ẩm đất và tình hình
sinh trưởng của cây bông. Thời kỳ cây con đến trước khi ra nụ, nếu không hạn nặng không
nên tưới nước, để cho rễ bông phát triển sâu, tăng sức chống hạn. Nếu độ ẩm ở thời kỳ cây
con khoảng 60% độ ẩm đồng ruộng ở độ sâu 0.7m thì tiến hành tưới với lượng nước thưới
1300-1500m
3
/ha.
Trước khi ra hoa tưới 1- 2 lần, khi ra hoa tưới 2- 3 lần cách nhau 7- 10 ngày. Đây là
thời kỳ cây bông cần nhiều nước nhất, không được để hạn nhưng cùng không được để úng,
nụ dài sẽ rụng nghiêm trọng. Khi bông chín nếu trời hạn, có thể tưới thêm một lần nữa. Kết
quả nghiên cứu một số vùng bông trồng trên thế giới cho biết: suốt thời gian sinh trưởng
lượng nước cây bông tiêu thụ 6000 -9000m
3
/ha. Trước khi gieo nếu đất khô hạn nặng có

thể tưới lượng nước 1500m
3
/ha. Khi quả chín nói chung không cần tưới.
- Dựa vào độ ẩm đất để tưới: trong suốt đời sống của cây bông trong tầng đất hoạt
động của rễ có độ ẩm khoảng 55- 75% độ ẩm tối đa đồng ruộng thì cần phải tưới. Khi ra
hoa kết quả nếu độ ẩm 65- 70% và khi quả chín độ ẩm 55- 60% độ ẩm tối đa thì cần phải
tưới.
Theo ngành chuyên môn, nhờ nhiệt độ trong đất cao, nhiều ánh nắng nên bông
Xuân Hè mọc nhanh và ít bị chết cây con. Đặc biệt, cây bông sinh trưởng và phát triển rất
tốt, tỷ lệ đậu quả cao hơn vụ Đông Xuân. Thực tiễn cũng cho thấy, nếu ruộng bông xuân
hè được phun PIX (chất điều tiết) đúng kỹ thuật thì những trận mưa dông trong tháng 5 đến
tháng 8 không những không ảnh hưởng đến chất lượng bông mà còn là nguồn cung cấp
nước tưới rất hiệu quả.
d. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp có tác dụng tiết kiệm
lượng nước tưới cho cây bông:
Việc sử dụng các biện pháp có tác dụng tiết kiệm nước tưới trong sản xuất nông
nghiệp cho phép hạn chế lượng nước tưới ở các vùng khô hạn. Từ năm 1996 Viện Nghiên
cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố đã tiến hành nghiên cứu việc trồng bông phủ
màng PE để nhằm tiết kiệm lượng nước tưới đồng thời tăng thu nhập cho người dân. Do
lợi ích mang lại của việc phủ màng PE trong sản xuất bông, nên sau khi có kết quả nghiên
cứu năm 1996, từ năm 1997 toàn bộ diện tích sản xuất hạt bông lai ở Việt Nam và một số ít
diện tích bông sản xuất trong vụ đông xuân ở một số vùng đã tiến hành phủ màng PE. Tuy
nhiên, do giá thành màng PE còn cao, để giảm chi phí cho sản xuất, đến năm 1998 chúng
tôi tiến hành nghiên cứu việc phủ rác cho cây bông, và kết quả đã được nông dân chấp
nhận và ứng dụng rộng rãi vào sản xuất bông thương phẩm ở nhiều vùng như Đông Nam
Bộ, Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Từ những kết quả đã đạt được trong những
năm trước, chúng tôi trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật có tác
44
dụng tiết kiệm lượng nước tưới cho cây bông nhằm đưa ra một biện pháp thích hợp. Thí
nghiệm được tiến hành trên đồng ruộng, gồm 4 công thức: 1) Đối chứng; 2) Phủ màng PE;

3) Phủ rơm; 4) Tưới nhỏ giọt. Kết quả thu được như sau:
Áp dụng biện pháp phủ rơm và phủ màng PE trong tưới nước đã có tác dụng làm
giảm 50% số lần tưới nước so với đối chứng (tính từ khi gieo đến 50% số cây có quả đầu
tiên nở) so với đối chứng. Áp dụng các biện pháp kỹ thuật có tác dụng tiết kiệm nước tưới
cho cây bông đã tiết kiệm được lượng nước tưới từ 3.211 đến 3.425m3 nước tưới/ha, tương
ứng 32,25 % đến 47,71% so với đối chứng. Trong đó công thức tưới nhỏ giọt có khả năng
tiết kiệm lượng nước tưới cao nhất, với 3425,5 m3 nước/ha/vụ tương ứng 47,71%.
Việc phủ màng PE và phủ rơm đã có tác dụng duy trì ẩm độ đất trong ruộng bông
tốt hơn so với đối chứng. Kết quả là số quả/m2, năng suất bông cao hơn hẳn so với đối
chứng và các công thức cùng tham gia nghiên cứu. Như vậy việc phủ màng PE không chỉ
có tác dụng tiết kiệm lượng nước tưới mà còn làm nâng cao năng suất bông.
e. Nghiên cứu kỹ thuật tiết kiệm nước có sử dụng chất giữ ẩm AMS-1:
Hiện nay, chất giữ ẩm đã sử dụng và có hiệu quả cao trên nhiều loại cây trồng. Việc
sử dụng chất giữ ẩm trong sản xuất cho phép sử dụng nước hiệu quả ở các vùng khô hạn.
Nghiên cứu trên các cây đậu tương, ngô cho thấy khi sử dụng chất giữ ẩm sinh trưởng,
phát triển của cây được tăng cường, chiều cao cây cao hơn và thời gian cây héo kéo dài
hơn so với đối chứng. Từ những kết quả trên chúng tôi tiến hành thí nghiệm gồm: 1) Đối
chứng tưới 7 ngày/lần; 2) Tưới rãnh 10 ngày/lần; 3) Tưới rãnh 10 ngày/lần + 30 kg AMS-
1/ha; 4) Tưới cách rãnh 10 ngày/lần + 30 kg AMS-1/ha; 5) Tưới cách rãnh 10 ngày/lần; 6)
Tưới cách rãnh 7 ngày/lần. Kết quả thu được như sau: các công thức bón chất giữ ẩm
AMS-1 có tác dụng làm tăng khả năng giữ nước của đất, vì vậy lượng nước tưới cho các
công thức này thấp hơn so với công thức không bón chất giữ ẩm. Các công thức nghiên
cứu có khả năng tiết kiệm từ 1.013,5 m3 nước/ha đến 2.733,7 m3 nước/ha, so với đối
chứng chúng có khả năng tiết kiệm được từ 14,05 đến 37,9 % lượng nước. Tuy các công
thức tưới tiết kiệm nước đã tiết kiệm một lượng nước tương đối lớn nhưng năng suất thực
thu ít bị suy giảm. Trong đó cùng điều kiện tưới nước như nhau, việc bón chất giữ ẩm cũng
AMS-1 có tác dụng cải thiện năng suất bông so với không bón.
2.2.7. Chế độ tưới nước cho cây cà phê
Căn cứ vào yêu cầu sinh lý của cây cà phê, đặc điểm khí hậu từng vùng có thể thực
hiện tưới nước theo các giai đoạn sinh trưởng phát triển như sau :

a. Giai đoạn vườn ươm
Đây là giai đoạn kể từ khi gieo hạt đến khi cây con đạt yêu cầu ở vườn ươm (6-8
tháng), cây cao 20 - 25 cm. Cây con thường được trồng trong các bầu túi nilông có chứa
đất và dinh dưỡng và không yêu cầu ánh sáng mạnh, nên vườn ươm thường che bóng
khoảng 30-50% ánh sáng.
Do đó, cà phê cần được tưới nước thường xuyên với lượng nước nhỏ, khi cây cà phê
lớn có thể tưới lượng nước lớn và giảm số lần tưới. Vì vây, vườn ươm phải được bố trí ở
gần nguồn nước, kín gió và có hệ thống tiêu thoát nước.
Dựa vào tình hình khí hậu, thời tiết và tình trạng cây mà công thức tưới thích hợp cho
cà phê ở giai đoạn này theo phương pháp tưới phun mưa thủ công ( bằng ô doa) như bảng
dưới:







45
Tuổi
(tháng)
Giai đoạn sinh trưởng Khoảng cách
tưới (ngày)
Mức tưới

Lít/ gốc m
3
/ ha
1 Nảy mầm - đội mủ 1 – 2 5 – 6 50 - 60
2 Có lá sò 2 – 3 8 - 10 80 - 100

3 - 4 1+3 cặp lá thật 3 – 4 12 - 16 120 - 160
5
-

6

Có 4 c
ặp lá thật trở l
ên

4


5

18
-

20

180
-

200

Nếu tưới bằng hệ thống phun mưa thì mức tưới cần tăng thêm 10 -15% so với trị số mức
tưới ở bảng trên để bù vào lượng hao nước khi tưới. Vì thế cần dùng vòi phun có tia ngắn,
áp lực phun thấp, cường độ thấp và hạt nhỏ.
b. Giai đoạn kiến thiết cơ bản
Giai đoạn này được tính từ khi bắt đầu trồng trên ruộng sản xuất đến vụ thu hoạch đầu

tiên. Thời gian sinh trưởng của cây cà phê có thể từ 2 - 4 năm tùy điều kiện chăm sóc. Giai
đoạn này rất quan trọng vì cây cà phê sinh trưởng và phát triển về bộ rễ, thân, cành, lá,tạo
tán cây; là tiền đề để tạo năng suất về sau. Sự thiếu hụt độ ẩm đất sẽ làm cây cà phê sinh
trưởng và phát triển thân, cành, lá kém. Khi thiếu nước tuổi thọ của lá giảm xuống, tác
dụng tạo hoa nuôi quả kém, vì vậy thời gian kiến thiết cơ bản kéo dài.
- Đối với cà phê mới trồng, phải tưới cho mỗi gốc 20 - 30 lít nước. Nếu hạn kéo dài
như Tây Nguyên thì phải tưới liên tục 4 - 5 lần với lượng nước như trên cho tới khi cây bén
rễ, phát triển lá mới.
- Đối với cà phê đang ở thời kì chăm sóc kiến thiết cơ bản thì cần kết hợp các biện
pháp giữ ẩm, chống hạn cho cây. Với phương pháp tưới gốc thì lượng nước tưới mỗi gốc
cà phê từ 30 lít / cây (năm thứ 2) – 50 lít/cây (năm thứ 3) cho một lần tưới. Số lần tưới từ 5
- 6 lần, mỗi lần cách nhau 20 ngày.
Nếu có trồng xen hoa màu giữa các hàng cà phê, sử dụng phương pháp tưới phun để
tưới. Với số lần tưới là 4 - 6 lần, khoảng cáh tưới từ 10 -15 ngày và mức tưới mỗi lần là
400 - 500 m
3
/ha trong mùa khô.
c. Giai đoạn kinh doanh
Giai đoạn này tính từ khi cà phê cho vụ thu hoạch chính thức đến già cỗi. Giai đoạn
này cà phê có thời gian sinh trưởng dài nhất (20 - 25 năm). Cà phê lúc này ở giai đoạn vừa
phát triển mạnh cơ quan dinh dưỡng, vừa thực hiện nhiệm vụ ra hoa, thụ phấn hình thành
và phát triển quả. Tán lá dường như che phủ toàn bộ mặt đất. Lượng bốc hơi – thoát nước
chủ yếu là thoát hơi nước từ cây.
Quá trình nở hoa đòi hỏi một năng lượng lớn, cây hô hấp mạnh, nhu cầu nước ở thời
kỳ này gấp 6 - 7 lần mức bình thường. Nếu thiếu hụt nước vào thời kì này không những
hoa cà phê bị cháy khô, không thụ phấn mà còn làm chết những cành tơ mang hoa nhiều.
Do đó, cần tập trung tưới nước để đón hoa và nuôi quả.
Nếu có đầy đủ thiết bị, dụng cụ tưới thì có thể tiến hành tưới phun mưa ngay từ đầu
mùa khô, để bảo vệ lá non không bị héo và để nuôi dưỡng cây. Sau đó tiếp tục tưới nước
20 ngày 1 lần cho tới khi có những trận mưa đầu mùa. Lượng nước tưới là 400 – 500

m
3
/ha/lần, số lần tưới là 4 – 6 lần.
Nếu không có điều kiện nước tưới đầy đủ thì chỉ tập trung tưới đón hoa và nuôi quả.
Bắt đầu tưới khi những lứa hoa ra tập trung. Tưới 15 ngày 1 lần cho đến hết mùa khô, tưới
3 – 4 lần, mức tưới mỗi lần là 400 – 500 m
3
/ha



×