Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Bài giảng - phương pháp thí nghiệm đồng ruộng - chương 2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.19 KB, 20 trang )


7

Chương II
THIẾT KẾ VÀ TRIỂN KHAI THÍ NGHIỆM
Đây là chương quan trọng nhất trong phần phương pháp thí nghiệm. Sau khi
học, người học phải biết xây dựng một đề cương nghiên cứu, biết cách triển khai
một thí nghiệm cụ thể.
A. THIẾT KẾ THÍ NGHIỆM
1. CÁC YÊU CẦU CỦA THÍ NGHIỆM ĐỒNG RUỘNG
“Thí nghiệm đồng ruộng là thí nghiệm nghiên cứu trong điều kiện tự nhiên,
trên những mảnh đất đặc biệt, có mục đích xác định về số lượng các điều kiện và
các biện pháp canh tác đến năng suất cây trồng” Naidin (1968).
Cây trồng và môi trường là một thể thống nhất, các quá trình diễn ra trong
cây đều có quan hệ chặt chẽ và có tác động qua lại với điều kiện ngoại cảnh. Nếu
như một nhân tố nào đó của ngoại cảnh thay đổi sẽ làm cho các nhân tố khác cũng
như hoạt động sống của cây trồng thay đổi theo.
Cây trồng nó thích nghi trong những điều kiện nhất định, mọi sự thay đổi khi
có tác động các yếu tố (có thể là yếu tố thí nghiệm) đều có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến cây trồng. Vì vậy, thí nghiệm đồng ruộng phải tôn trọng các yêu cầu
sau đây:
1.1. Yêu cầu về tính đại diện
 Đại diện về điều kiện sinh thái
Mục tiêu của thí nghiệm là kết quả cần được nhân rộng trong các điều kiện
cụ thể về đất đai, về khí hậu thời tiết . Thí nghiệm phải được thiết kế và làm cụ thể
tại một vùng đất đại diện, trong điều kiện khí hậu nhất định để sau này sẽ áp dụng
với quy mô lớn hơn (không thể kết luận được rút ra từ trồng cây trên đất cát mà
nhân rộng trên vùng đất đồi được).
 Đại diện về điều kiện kinh tế - xã hội
Tùy theo thời gian và tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể về mặt xã hội mà
người nông dân có nhận thức củng như khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật


vào sản xuất là khác nhau. Vì vậy, các nhà nghiên cứu phải có những thông tin từ
đó xây dựng biện pháp (nhân tố thí nghiệm) cho phù hợp để sau một thời gian
nghiên cứu thành công thì biện pháp đó có thể được sản xuất chấp nhận. Các yếu tố
thí nghiệm phải nằm trong xu thế phát triển, phải đi trước một bước để nắm bắt đón
đầu, tránh lạc hậu sau khi kết quả nghiên cứu được công bố. Nhiều khi thí nghiệm
còn tùy thuộc vào phong tục tập quán của từng vùng, vào trình độ dân trí của cộng
đồng.
1.2. Yêu cầu về sai khác duy nhất
Hiểu một cách cụ thể là trong thí nghiệm sẽ phân biệt hai loại yếu tố: yếu tố

8

thí nghiệm (dùng để nghiên cứu) và yếu tố không thí nghiệm (hay còn gọi là nền
thí nghiệm). Trong hai loại yếu tố này thì duy nhất chỉ có yếu tố thí nghiệm được
quyền sai khác (thay đổi). Còn yếu tố không thí nghiệm (không cần so sánh) thì
phải càng đồng nhất càng tốt.
Có triệt để tôn trọng nguyên tắc này mới tìm ra được sự khác nhau của kết
quả thí nghiệm là do nhân tố nào gây ra. Tuy nhiên, sự đồng nhất tuyệt đối trong thí
nghiệm là điều không thể có được.
Thí dụ: Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng supe lân tới năng suất lạc trên
đất cát pha. Trong thí nghiệm này lượng lân bón cho lạc ở các công thức phải khác
nhau, còn các biện pháp kỹ thuật khác là đồng nhất. Cụ thể giống lạc gì, gieo ở vụ
nào, mật độ bao nhiêu, tưới nước, chăm sóc, phòng trừ sâu hại đều phải đồng
nhất.
Song có một điều cần lưu ý: trong thí nghiệm đồng ruộng không thể loại trừ
hoàn toàn được một nhân tố nào đấy mà chỉ có khả năng hạn chế nó mà thôi. Trong
thí nghiệm nêu trên ta chỉ biết được lượng lân cho thêm vào là bao nhiêu ở các công
thức, còn trong phân chuồng hoặc các dạng phân tổng hợp khác và cả trong đất
cũng tồn tại một lượng lân nhất định. Tuy nhiên, điều này không có ảnh hưởng
nhiều vì các công thức có nền thí nghiệm như nhau.

Một đặc điểm khác nữa là trong tự nhiên hay trong thí nghiệm đồng ruộng
còn tồn tại mối quan hệ “kéo theo” có nghĩa là khi thay đổi nhân tố A thì nhân tố B
cũng thay đổi.
Thí dụ: Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng nước tưới khác nhau tới năng suất
mía. Như vậy nước là yếu tố thí nghiệm và được thay đổi ở mức độ khác nhau. Do
mức nước tưới khác nhau kéo theo những thay đổi khác như số lượng, chủng loại vi
sinh vật cũng như sinh vật đất, nhiệt độ đất, ẩm độ đất cũng thay đổi không giống
nhau. Từ đó có thể làm quá trình sinh học của cây sẽ không giống nhau
1.3. Yêu cầu về độ chính xác
Độ chính xác ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu và cả hiệu quả kinh tế. Song
không thể có một độ chính xác chung cho tất cả các nhóm phương pháp thí nghiệm.
Độ chính xác của thí nghiệm phụ thuộc vào rất nhiều mặt, có thể nêu ra một số khía
cạnh là:
a. Điều kiện tiến hành thí nghiệm (thí nghiệm trong phòng khác với thí
nghiệm trong chậu; thí nghiệm ngoài đồng lại khác với thí nghiệm trong phòng )
b. Những sai khác về kỹ thuật khi thực hiện thí nghiệm.
c. Độ đồng đều của đất thí nghiệm
d. Những vết thương cơ giới và tác hại của sâu bệnh
Những sai khác là không thể tránh được, song sai khác càng nhỏ thì càng tốt.
Vì vậy mỗi nhóm phương pháp thí nghiệm khác nhau cho phép có độ chính xác

9

khác nhau thể hiện qua hệ số biến động CV% (Coefficient of varriation).
- Nhóm thí nghiệm trong phòng cho phép sai số thí nghiệm CV% nhỏ hơn
hoặc bằng 1%.
- Nhóm thí nghiệm trong chậu, vại, nhà lưới CV% nhỏ hơn hoặc bằng 5%.
- Nhóm thí nghiệm ngoài đồng ruộng cho phép sai số thí nghiệm:
+ Các thí nghiệm giống CV% từ 6% - 8%
+ Các thí nghiệm phân bón từ 10% - 12%

+ Các thí nghiệm bảo vệ thực vật (BVTV) từ 13% - 15%
+ Các thí nghiệm cây ăn quả CV% nhỏ hơn hoặc bằng 20%
+ Thí nghiệm về lúa CV% khoảng 10%.
Theo các nguyên nhân đã nêu có thể coi các sai số thí nghiệm là sai số ngẫu
nhiên. Tuy nhiên, trong thực tế không chỉ có duy nhất sai số ngẫu nhiên mà còn tồn
tại hai loại sai số khác nữa là: sai số thô (hay còn gọi là sai lầm) và sai số hệ thống.
Khi gặp phải sai số thô thì phải loại bỏ các số liệu ra khỏi dãy kết quả nghiên
cứu, có khi hủy cả thí nghiệm (thí dụ như đo sai, cân sai, ghi nhầm). Sai số thô
không phải là phổ biến.
Sai số hệ thống là do dụng cụ thí nghiệm, do thiên hướng chủ quan của
người làm thí nghiệm: như cân nhẹ hơn hoặc nặng hơn tiêu chuẩn; thước đo chưa
chuẩn hoặc hóa chất pha không được chuẩn như hướng dẫn của hóa chất tiêu chuẩn
đặt ra Loại sai số này tuy không làm ảnh hưởng tới việc so sánh kết quả thí nghiệm
giữa các công thức với nhau nhưng khi công bố các giá trị cụ thể của từng chỉ tiêu
(ước lượng điểm, ước lượng khoảng của các tham số thống kê) thì không chính xác.
Vì vậy, có thể dẫn tới việc nhận định đánh giá sai lệch và điều này cũng không có
lợi, nhất là khi chuyển giao kết quả nghiên cứu cho sản xuất. Để tránh sai số này tốt
nhất trước khi làm thí nghiệm phải chuẩn hóa dụng cụ và vật tư theo tiêu chuẩn đo
lường cho phép. Hoặc nếu như đã mắc phải sai số hệ thống phải tìm cách hiệu chỉnh
giá trị quan sát (các số liệu) về giá trị có được với thước đo tiêu chuẩn.
1.4. Yêu cầu diễn lại
Khả năng diễn lại của thí nghiệm có nghĩa là: khi thực hiện lại thí nghiệm đó
với số lượng công thức, nội dung như cũ cùng trên khoảng không gian (mảnh đất cũ
với thời vụ tương tự) sẽ cho kết quả tương tự.
Tuy nhiên, không nên hiểu nguyên tắc này một cách cứng nhắc, bởi vì điều
kiện ngoại cảnh không thể hoàn toàn như nhau khi làm thí nghiệm. Chính vì vậy
phải làm lại thí nghiệm trong vài năm (hoặc vài vụ) liên tiếp, hy vọng từ đó sẽ tìm
ra tính quy luật của vấn đề nghiên cứu.
Thí nghiệm có khả năng diễn lại càng cao thì việc rút ra kết luận càng chắc
chắn. Có nghĩa là đã giải quyết được mối quan hệ giữa các nhân tố thí nghiệm (yếu


10

tố thí nghiệm) với ngoại cảnh trong sự biểu hiện của cây trồng thí nghiệm. Thí
nghiệm không có khả năng diễn lại thì không thể đưa ra được kết luận làm cơ sở
xây dựng các biện pháp kỹ thuật canh tác và lại càng không thể xây dựng được lý
thuyết khoa học. Kinh nghiệm cho thấy đối với thí nghiệm về kỹ thuật thường ít
nhất cần có 3 lần diễn lại, đối với thí nghiệm nghiên cứu cơ bản cần số lần diễn lại
nhiều hơn.
1.5. Yêu cầu về lịch sử khu đất canh tác
Thí nghiệm phải được đặt trên các khu đất có lịch sử canh tác rõ ràng. Đây là
yêu cầu hết sức cần thiết đối với mỗi thí nghiệm đồng ruộng. Một số biện pháp kỹ
thuật có ảnh hưởng tới đất cũng có thể làm cho đất tốt hơn, nếu như biết sử dụng và
ngược lại có thể làm cho đất bị thoái hóa. Vì vậy, cần phải biết rõ quá trình canh tác
của khu đất trước khi đặt thí nghiệm nghiên cứu.
Khi xem xét lịch sử canh tác của ruộng thí nghiệm cần lưu ý:
- Không đặt ruộng thí nghiệm nằm kề sát các trục đường giao thông lớn mà
nên cách từ 10 - 20m.
- Không đặt ruộng thí nghiệm nằm sát các hệ thống dẫn nước thải của các khu
dân cư, bệnh viện, các khu công nghiệp.
- Không đặt ruộng thí nghiệm trên đất mới khai hoang, đất này phải làm thí
nghiệm trắng vài vụ để san bằng độ đồng đều sau đó mới làm thí nghiệm.
2. CÁC LOẠI THÍ NGHIỆM
Hiện nay có nhiều cách phân loại thí nghiệm. Thông thường có thể phân
thành các loại sau:
2.1. Thí nghiệm thăm dò:
Thí nghiệm thăm dò hay còn gọi là thí nghiệm sơ bộ, thí nghiệm khảo sát.
Mục đích của loại thí nghiệm này là nhằm xây dựng những nhận thức ban đầu về
đối tượng nghiên cứu để có cơ sở xây dựng các nội dung nghiên cứu chính sau này
được tốt hơn. Do đó, thí nghiệm này thường làm trên diện tích nhỏ nhắc lại ít lần và

có thể không nhắc lại. Không đi sâu phân tích về cây và đất đai, chỉ quan sát, đánh
giá các biểu hiện của cây với các biện pháp thí nghiệm và theo dõi một số chỉ tiêu
có tính chất cơ bản về năng suất.
2.2. Thí nghiệm chính thức
Đây là thí nghiệm đặt ra nhằm giải quyết nội dung cơ bản của vấn đề nghiên
cứu. Do đó, thí nghiệm này phải thực hiện đúng như thiết kế đã xây dựng, phải tuân
thủ các yêu cầu đặt ra. Tùy thuộc vào loại cây trồng, loại hình thí nghiệm, mục đích
nghiên cứu có thể chia thí nghiệm chính thức thành các loại khác nhau theo số
lượng nhân tố, thời gian và khối luợng nghiên cứu.
2.2.1. Theo số lượng nhân tố thí nghiệm

11

+ Thí nghiệm một nhân tố: Là thí nghiệm chỉ có mặt một nhân tố tham gia (nhân tố
này có quyền thay đổi giữa các công thức) để nghiên cứu tác động của nó đến sự
thay đổi của kết quả thí nghiệm
Thí dụ: Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân lân đến quá trình sinh
trưởng, phát triển và năng suất lạc.
Như vậy yếu tố thí nghiệm ở đây là liều lượng lân nên được phép thay đổi ở
các mức bón khác nhau. Còn các nhân tố khác đều phải được thực hiện đồng đều
(yếu
tố không thí nghiệm)
+ Thí nghiệm nhiều nhân tố: Đây là thí nghiệm có mặt từ hai nhân tố thí nghiệm
trở lên. Trong thí nghiệm này người ta nghiên cứu ảnh hưởng đồng thời của các
nhân tố đối với cây trồng. Đây là những thí nghiệm phức tạp và thường là bước
nghiên cứu tiếp của các thí nghiệm một nhân tố.
Để giúp cho thí nghiệm này có kết quả rõ ràng phải chia cụ thể thí nghiệm 2
nhân tố, 3 nhân tố đểcó cách sắp xếp ngoài đồng cho phù hợp với số lượng nhân tố
thì mới xử lý kết quả bằng các mô hình thống kê tương ứng nhằm tăng tính chính
xác.

2.2.2. Chia theo thời gian nghiên cứu
+ Thí nghiệm ngắn hạn: Thường gọi là thí nghiệm ít năm. Đây là loại thí nghiệm
nghiên cứu trong thời gian ngắn đã có thể rút ra được kết luận.
Thông thường loại này được áp dụng để nghiên cứu tác dụng của một biện
pháp kỹ thuật cụ thể với cây trồng
Thí dụ: Nghiên cứu về mật độ cấy, về thời vụ của một giống cây trồng như
lúa, ngô, đậu đỗ, rau
+ Thí nghiệm dài hạn (thí nghiệm lâu năm): Đây là loại hình thí nghiệm cần có
thời gian hàng chục năm nghiên cứu liên tục mới có thể đưa ra kết luận, cá biệt có
thí nghiệm phải hàng trăm năm.
Thí dụ: nghiên cứu hiệu lực của phân lân đến năng suất và chất lượng của
nhãn vải, hay xoài; Nghiên cứu diễn biến của độ phì đất khi trồng sắn. Các loại thí
nghiệm này qua nhiều năm mới có thể rút ra được kết luận chính xác .
2.2.3. Theo khối lượng nghiên cứu
Có thể chia ra
+ Thí nghiệm đơn độc (độc lập): Các thí nghiệm làm ở nhiều nơi và không có liên
quan gì với nhau cả. Thường thì kết quả có tính chính xác cao, đúng cho một điều
kiện cụ thể. Song tính phổ biến lại hẹp, thậm chí rất hẹp.
+ Thí nghiệm hệ thống: Đây là những thí nghiệm làm ở nhiều nơi và có liên hệ với

12

nhau theo những khía cạnh nhất định mà người nghiên cứu đặt ra.
Thí nghiệm này có nhược điểm là khối lượng lớn, tốn công sức và vật chất,
tốn thời gian; có thể cách xa nhau về địa lý, khác nhau thời tiết và đất đai (điều kiện
sinh thái), về tập quán và điều kiện kinh tế - xã hội.
Ưu điểm của nhóm này là thí nghiệm mang tính đa dạng và khi kết quả thành
công có phổ áp dụng rộng rãi.
2.3. Thí nghiệm làm trong điều kiện sản xuất
Loại thí nghiệm này còn có tên gọi là thực nghiệm khoa học, thực nghiệm

đồng ruộng. Với chuyên ngành chọn giống và nhân giống còn gọi là thí nghiệm
khảo nghiệm hay khu vực hóa giống mới.
Đây là những thực nghiệm cần phải được thẩm định lại trong điều kiện tự
nhiên trước khi chuyển giao kỹ thuật sản xuất cho nông dân.
Loại này khối lượng lớn có thể nhắc lại nhiều hay ít tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế và đất đai. Không cần theo dõi quá chi tiết về chỉ tiêu về sinh trưởng của cây
mà chủ yếu là quan sát tình hình sinh trưởng, nhiễm sâu bệnh để đưa ra các nhận
định chung về phản ứng của cây với điều kiện tự nhiên, nhưng cần quan tâm cụ thể
đến năng suất và hiệu quả kinh tế.
3. XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH THÍ NGHIỆM
3.1. Một số vấn đề liên quan đến xây dựng chương trình thí nghiệm
3.1.1. Các loại công thức trong thí nghiệm
+ Loại công thức đối chứng hay còn gọi là công thức tiêu chuẩn: Công thức đối
chứng được đặt ra làm tiêu chuẩn cho các công thức khác trong thí nghiệm so sánh
để rút ra hiệu quả cụ thể của nhân tố (biện pháp) nghiên cứu.
Công thức đối chứng được xây dựng như sau:
- Nếu là thí nghiệm giống thì giống trong công thức đối chứng thường là
giống tốt đang được sản xuất của địa phương chấp nhận, cũng có thể là một giống
tiêu chuẩn của Nhà nước hay một vùng nhất định đã được chính thức công nhận (Bộ
Nông nghiệp và PTNT công nhận).
- Nếu là biện pháp kỹ thuật khác như mật độ, thời gian gieo cấy thì công thức
đối chứng là biện pháp đang được sủ dụng rộng rãi ở một vùng.
- Nếu là các nhân tố như phân bón, phun thuốc bảo vệ thực vật, tưới nước
thì công thức đối chứng thường được xây dựng ở mức 0.
Trong một thí nghiệm ít nhất phải xây dựng một công thức đối chứng. Còn
tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể khi làm thí nghiệm và nội dung nghiên cứu mà
có thể bố trí hai hay ba công thức đối chứng.
+ Loại công thức nghiên cứu: Công thức nghiên cứu là tình huống cụ thể được đặt

13


ra để nghiên cứu ( Các giống , các mức phân bón, các loại phân bón ). Kết quả của
công thức nghiên cứu được so sánh với kết quả của công thức đối chứng.
Cả hai loại công thức đối chứng và công thức nghiên cứu đều gọi chung là
các công thức thí nghiệm hay nghiệm thức.
Để xây dựng công thức thí nghiệm cần lưu ý những vấn đề sau:
Một là: Cần tạo điều kiện để các công thức thí nghiệm so sánh được với nhau
và so sánh được với công thức đối chứng.
Thí dụ: Nghiên cứu hiệu lực của supe lân đến sinh trưởng, phát triển, khả
năng nhiễm sâu bệnh và năng suất lúa.
Như vậy tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của thí nghiệm đất đai, thời vụ mà
xây dựng số luợng công thức thí nghiệm cho phù hợp. Song đối với thí nghiệm này
ít nhất cũng phải có 3 công thức, trong đó:
Công thức I: là không bón lân vào đất (0 P
2
O
5
) (CT I là đối chứng)
Công thức II: là bón lân ở mức 30 P
2
O
5
(CT II)
Công thức III: là bón lân ở mức 60 P
2
O
5
(CT III)
Bố trí như vậy sẽ so sánh được hiệu lực của việc có bón lân so với không bón
lân tới các chỉ tiêu nghiên cứu ở cây lúa. Sau đó cho phép so sánh hai mức bón lân

thì mức nào đạt năng suất cao hơn và mức nào đạt hiệu quả đầu tư lân cao hơn.
Để thí nghiệm thành công người nghiên cứu không những phải có kiến thức
chuyên môn mà còn phải có kiến thức tổng hợp và các hiểu biết thực tiễn trong điều
kiện cụ thể.
3.1.2. Xác định số lượng công thức trong một thí nghiệm
Số lượng công thức thí nghiệm được xác định tùy thuộc vào nội dung và mục
đích của người nghiên cứu. Thông thường thí nghiệm một nhân tố có số lượng công
thức ít hơn thí nghiệm hai nhân tố.
Nguyên tắc xác định: “Dựa vào giả thiết khoa học để lập ra công thức trung
tâm, từ công thức trung tâm sẽ xê dịch lên phía trên một số mức và xuống phía dưới
một số mức”.
Còn khoảng cách giữa các mức tùy thuộc vào tác động của nhân tố nghiên cứu
tới đối tượng được sử dụng trong thí nghiệm (vật liệu thí nghiệm).
Như vậy, với thí nghiệm một nhân tố có bao nhiêu mức thì có bấy nhiêu công
thức kể cả mức đối chứng có thể là mức 0.
Thí dụ: Nghiên cứu ảnh hưởng của phân N tới năng suất lúa
Đây là thí nghiệm một nhân tố. Nếu như lấy công thức trung tâm là 100 N thì các
công thức được xây dựng xung quanh công thức trung tâm như sau:
Công thức I: 0 N (đối chứng)

14

Công thức II: bón 50 N
Công thức III: bón 100 N
Công thức IV: bón 150 N
Công thức V: bón 200 N
Công thức VI: bón 250 N
Như vậy thí nghiệm có thể có 5 công thức (dừng lại mức 200N) hoặc có thể
có 6 công thức như ví dụ trên. Không nên đặt ít hơn 5 hoặc nhiều hơn 6. Độ rộng
hay hẹp của N giữa các công thức phụ thuộc vào vai trò của đạm (N) và đối tượng

nghiên cứu. Thí dụ đối với cây lúa và cây ngô độ rộng như thí nghiệm đã nêu là phù
hợp, còn nếu là cây họ đậu (đậu tương, lạc, ) thì độ rộng như thí nghiệm trên lại
cao và mức bón 250 N có thể là thừa.
Còn trong thí nghiệm nhiều nhân tố thì một nguyên tắc chung là: số lượng
công thức thí nghiệm là tích của số mức của mỗi nhân tố thí nghiệm.
Thí nghiệm: Nghiên cứu liều lượng của phân lân (4liều lượng) tới năng suất
của giống đậu tương (2 giống) vụ Đông tại Đồng bằng sông Hồng.
Đây là thí nghiệm hai nhân tố (nhân tố giống ký hiệu là A với số mức là L
a
),

nhân tố lân ký hiệu là B với số mức tham gia là L
b
Vậy số công thức nghiên cứu K = L
a
X L
b
(2.1)
Thí nghiệm có 8 công thức, số công thức K= 2 x 4 = 8
3.1.3. Một số chỉ tiêu kỹ thuật cho thiết kế thí nghiệm
+ Diện tích ô thí nghiệm: Ô thí nghiệm là thành phần cơ bản của thí nghiệm
trên đó các nhân tố thí nghiệm được thực hiện theo một nội dung đã được xây
dựng. Do đó, diện tích ô (cụ thể là kích thước ô) phải như nhau. Nếu lấy độ
chính xác của thí nghiệm là hệ số biến động CV% để khảo sát thì giá trị này phụ
thuộc vào những khía cạnh như sau:
- Diện tích ô thí nghiệm
- Hình dáng ô thí nghiệm (là vuông hay chữ nhật )
- Địa hình đặt thí nghiệm
- Loại đất thí nghiệm.
- Loại cây trồng

- Loại thí nghiệm
Diện tích ô thí nghiệm lớn hay nhỏ tùy thuộc vào:
1) Mục đích và yêu cầu của thí nghiệm: Những thí nghiệm so sánh giống
hoặc một biện pháp kỹ thuật nào đó để chuẩn bị phổ biến ra sản xuất thì diện tích ô

15

phải đủ lớn. Thí nghiệm trong điều kiện sản xuất (thí nghiệm khảo nghiệm) thì diện
tích ô thí nghiệm phải lớn hơn thí nghiệm thăm dò và thí nghiệm chính.
2) Phụ thuộc vào loại cây trồng và mật độ gieo cấy sao cho mỗi ô thí nghiệm
có khả năng tạo ra một quần thể cây trồng mang tính đại diện, ổn định và đảm bảo
số lượng cá thể trong quá trình nghiên cứu được đánh giá khách quan gần tương tự
như ngoài sản xuất.
3) Phụ thuộc vào phương tiện kỹ thuật khi thực hiện thí nghiệm. Nếu làm
bằng thủ công thì diện tích ô nhỏ, còn nếu làm bằng máy (cơ giới) diện tích ô phải
rộng hơn. Như vậy diện tích ô phải phù hợp để có thể hoàn thành công việc thí
nghiệm trong khuôn khổ thời gian mà yêu cầu thí nghiệm đặt ra.
+ Hình dạng ô thí nghiệm: Hình dạng ô thí nghiệm được xây dựng bởi tỷ lệ giữa
2 cạnh của ô thí nghiệm, nếu tỷ lệ là 1 (1:1) ô có dạng hình vuông. Còn các tỷ lệ
khác 1 là hình chữ nhật.
Whyte (1964) lại đề xuất: Nếu diện tích ô thí nghiệm nhỏ thì hình dạng ô nên
vuông để giảm diện tích phần bảo vệ.
Theo Phạm Chí Thành và Nguyễn Thị Lan (1983):- Ở điều kiện tương đối đồng đều
việc thay đổi hình dạng ô thí nghiệm không có ảnh hưởng đáng kể đến độ chính xác
của thí nghiệm.
- Ở điều kiện đất ít đồng đều khi ô hình chữ nhật thì độ chính xác sẽ càng cao
- Khi đất không đồng đều thì việc thay đổi hình dạng ô thí nghiệm không làm
cho độ chính xác của thí nghiệm nâng lên.
+ Hướng của ô thí nghiệm: Nhìn chung vấn đề này ít có liên quan tới độ
chính

xác của thí nghiệm nếu như đất thí nghiệm đồng đều. Còn khi đất thí nghiệm có độ
biến động lớn thì hướng ô thí nghiệm có ảnh hưởng đến độ chính xác của thí
nghiệm.
Ở đất dốc độ phì của đất thay đổi từ đỉnh đồi xuống chân đồi, vì vậy chiều
dài của ô nên vuông góc với đường đồng mức. Các lần nhắc lại cùng phải nằm ở
cùng một độ chạy vòng quanh đồi.
* Số lần nhắc lại: Nhắc lại của thí nghiệm có nghĩa là: mỗi công thức thí
nghiệm được thực hiện ở một số ô trong cùng mảnh đất thí nghiệm hoặc khu vực thí
nghiệm (gọi là nhắc lại không gian) trong cùng một thời gian thí nghiệm.
Thí nghiệm phải được nhắc lại là một tiêu chuẩn bắt buộc khi nghiên cứu.
Theo tác giả Remera dẫn từ Dospekhov (1979) thì:
- Khi tăng số lần nhắc lại độ chính xác của thí nghiệm tăng nhiều hơn khi
tăng diện tích ô thí nghiệm.

16

- Khi tăng số lần nhắc lại thì ban đầu độ chính xác tăng nhanh, nhưng nếu
tiếp tục tăng nhắc lại nhiều lần (lớn hơn 4 lần) thì độ chính xác có giảm, song giảm
chậm.
- Khi diện tích ô nhỏ thì nhắc lại nhiều hơn diện tích ô lớn.
* Dải bảo vệ và hàng biên:
+ Dải bảo vệ là phần diện tích bao quanh mảnh đất (khu đất) làm thí nghiệm.
Đây là nội dung đặt ra nhằm đảm bảo nguyên tắc"Sai khác duy nhất". Tùy thuộc
vào điều kiện của khu đất thí nghiệm mà độ rộng của dải bảo vệ có thay đổi.
+ Hàng biên: Hàng biên chính là phần bảo vệ của ô thí nghiệm nhằm loại trừ
ảnh hưởng giữa các ô với nhau (đặc biệt các ô khác công thức).
Tuyệt đối không lấy mẫu theo dõi tại các vị trí xung quanh rìa ô thí nghiệm
(hàng biên) để thí nghiệm mang tính chính xác và khách quan.
3.2. Xây dựng nền thí nghiệm
Nền thí nghiệm là bao gồm tất cả các điều kiện canh tác được thực hiện đồng

nhất giữa tất cả các công thức của thí nghiệm.
Nền thí nghiệm không phải là nhân tố so sánh giữa các công thức với nhau.
Tuy nhiên, nó giúp cho các công thức nghiên cứu thể hiện được tác dụng. Vì vậy,
chọn nền thí nghiệm căn cứ vào các điều kiện sau:
+ Phải đại diện về điều kiện kinh tế - xã hội của thời điểm các kết quả nghiên
cứu dự kiến sẽ được áp dụng vào sản xuất.
+ Phải là điều kiện để cho nhân tố thí nghiệm phát huy được hiệu lực của nó.
Do đó, phải hết sức cẩn thận khi xây dựng nền thí nghiệm, để nền thí nghiệm
không phải là một tác nhân làm giảm tác dụng của các nhân tố nghiên cứu.
3.3. Chọn đất thí nghiệm
Để đạt được các yêu cầu nêu trên, trước khi làm thí nghiệm phải có được các
thông tin về đất bao gồm các nội dung sau:
3.3.1. Chọn địa hình
Chọn đất thí nghiệm phải phẳng nhằm đảm bảo độ đồng đều. tuy nhiên thực
tế độ phẳng mặt ruộng khi gieo cấy có thể chênh lệch chút ít. Nếu làm thí nghiệm
lúa nước trên đất dốc phải làm trên các ruộng bậc thang. Còn với thí nghiệm về các
cây trồng cạn khác thì chênh lệch độ phẳng mặt ruộng cho phép đạt mức cm10

.
Với các thí nghiệm cây trồng trên đất dốc thì yêu cầu độ dốc cho phép để
làm thí nghiệm là 25% và mặt ruộng hay đồi phải dốc đều và tốt nhất cũng nên làm
đường đồng mức. Tùy thuộc vào đặc điểm sinh học của từng loại cây trồng mà chọn
đất dốc cho phù hợp. Nên bố trí gọn thí nghiệm trên một khu vực (có thể 1 lần nhắc
lại trên đất có độ dốc tương tự nhau).

17

3.3.2. Chọn lý tính đất và hóa tính đất
Chọn đất được đặt ra với mục đích là sau khi thí nghiệm thành công, các kết
quả sẽ được ứng dụng ở những vùng đất cùng loại tương tự.

Rất cần quan tâm đến lịch sử canh tác của đất trước lúc đặt thí nghiệm. Nhất
là các biện pháp kỹ thuật canh tác trước có khả năng làm thay đổi tới kết cấu và các
chỉ tiêu lý, hóa tính của đất.
Nhìn chung khi chọn đất thí nghiệm nên chọn xa các rừng cây; xa trục đường
giao thông, xa nơi chứa nước thải hay mương dẫn, nước thải của các khu dân cư,
nhà máy, bệnh viện với khoảng cách từ 40-50m.
Tránh làm thí nghiệm trên đất mới khai hoang. Tùy điều kiện cụ thể mà bố
trí thí nghiệm trắng vài vụ để san bằng độ đồng đều của đất thí nghiệm.
Ta có thể san bằng độ đồng đều của đất bằng cách: Gieo cấy cùng một loại
cây trồng trong vài vụ liên tục và thường dùng các loại cây trồng hàng dày như lúa
(đối với đất ngập nước), rau, đậu đỗ (đối với đất màu); Kỹ thuật chăm sóc bón phân
theo kiểu bón vá áo vào các chỗ cây trồng sinh trưởng xấu hoặc xấu nhiều bón
nhiều, xấu ít bón ít, chỗ tốt thì không bón nữa.
4. XÂY DỰNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở để xây dựng đề tài
Đề tài nghiên cứu khoa học được xây dựng trên cơ sở đã xác định được mục
tiêu nghiên cứu. Vì vậy, cơ sở để xây dựng đề tài dựa vào:
a) Yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
b) Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ
c) Xuất phát từ đơn đặt hàng
d) Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nơi nghiên cứu .
c) Từ nguồn kinh phí và thời gian nghiên cứu
4.2.Yêu cầu của đề tài nghiên cứu
Để có được nội dung của đề cương nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu
phải xác định cho được tên của đề tài nghiên cứu (có thể chi tiết tới tên thí nghiệm).
Yêu cầu của tên đề tài là: Ngắn gọn, chính xác, đầy đủ và có giới hạn. Trong
đề tài nghiên cứu phải thể hiện rõ các vấn đề sau:
1) Phải phản ánh được đòi hỏi của thực tiễn sản xuất. Thực tế rất đa dạng và
phong phú, song người chủ trì đề tài phải biết chọn lọc vấn đề cơ bản và thiết thực
để nghiên cứu.

2) Phải biết kế thừa một cách chọn lọc và đặc biệt phải nêu rõ mục đích và
yêu cầu đề tài đặt ra.

18

3) Thể hiện được sự phối hợp nghiên cứu giữa các cơ quan, phải xác định rõ
người chủ trì và người thực hiện.
4) Phải thể hiện rõ quy hoạch và quy trình thí nghiệm.
4.3. Nội dung của xây dựng đề tài nghiên cứu
+ Tên đề tài hay tên thí nghiệm: yêu cầu như phần trên
- Ghi cụ thể tên và mã chuyên ngành hoặc mã ngành
- Tên người chủ trì
- Tên người thực hiện
- Cơ quan quản lý khoa học của đề tài.
+ Nội dung đề cương nghiên cứu:(Bao gồm các phần)
Phần 1: Mở đầu
1. Đặt vấn đề: Ghi ngắn gọn nhằm nêu lên tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn
đề nghiên cứu.
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
a. Mục đích: Viết rõ ràng, không viết dài. Đây sẽ là cơ sở để bố trí thí
nghiệm được chặt chẽ và đầy đủ.
b. Yêu cầu: Phần này đòi hỏi viết thật cụ thể là đề tài nhằm đạt được những
gì.
Phần 2 : Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Phần này viết sơ lược cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài và tình hình
nghiên cứu trong nước và thế giới một cách ngắn gọn (tóm tắt) có liên quan tới vấn
đề nghiên cứu.
Phần 3: Nội dung và phương pháp nghiên cứu
1. Nội dung nghiên cứu
1.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu

(nếu có thể ghi thêm giới hạn của vấn đề nghiên cứu)
1.2. Nội dung nghiên cứu
+ Nêu số lượng và nội dung của các công thức thí nghiệm (viết rõ cho từng
công thức, đây là yếu tố thí nghiệm).
- Các biện pháp thuộc yếu tố không thí nghiệm (nền thí nghiệm) nên viết tỷ
mỷ, những biện pháp thứ yếu nên viết tóm tắt.
- Diện tích ô thí nghiệm (ghi cả diện tích và kích thước ô).
- Số lần nhắc lại.

19

- Cách sắp xếp các công thức (nếu vẽ sơ đồ thí nghiệm thì càng tốt).
+ Chỉ tiêu nghiên cứu: ghi các chỉ tiêu của từng nội dung, càng chi tiết càng
tốt
2. Phương pháp nghiên cứu: Ghi cụ thể các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu
đề tài như: phương pháp theo dõi, phân tích của từng chỉ tiêu, cách lấy mẫu
3. Dự trù kinh phí nghiên cứu: Gồm vật tư, công (hạch toán bằng tiền). Lưu ý các
vật tư nên có cùng nguồn gốc và thời hạn sử dụng là tốt nhất.
4. Phân công thực hiện và kế hoạch hợp tác: Ghi rõ tên người thực hiện các công
việc trong thời gian nào, cơ quan nào hợp tác nghiên cứu.
Phần 4: Dự kiến kết quả đạt được
B. TIẾN HÀNH THÍ NGHIỆM ĐỒNG RUỘNG
1. CHIA Ô THÍ NGHIỆM
Đây là việc chuyển thiết kế thí nghiệm trên sơ đồ đã xây dựng ra ngoài thực
địa nơi làm thí nghiệm. Vì vậy, phải thực hiện chính xác để tạo ra các ô thí nghiệm
có diện tích và kích thước giống nhau, đảm bảo đúng các vị trí đã sắp xếp như thiết
kế. Tuy nhiên, mức chênh lệch cho phép về chiều dài mảnh có thể dao động từ 5-
10cm/100m dài.
Dụng cụ: La bàn; thước vuông góc; thước (có thể thước dây hay thước mét);
cọc để cắm định vị trí.

Nguyên tắc chia ô thí nghiệm thường bắt đầu từ ô to về ô nhỏ (từ mảnh thí
nghiệm chia thành từng lần nhắc lại sau đó đến chia các ô trong lần nhắc lại).
Ví dụ bố trí thí nghiệm gồm 5 công thức (ký hiệu I, II, III, IV, V), 3 lần nhắc lại,
diện tích mỗi ô thí nghiệm là 30 m
2
(5x6). Các bước chia ô cụ thể như sau:
+ Xác định ranh giới khu thí nghiệm: Căn cứ vào thiết kế đã nêu và địa điểm
chọn cụ thể để đặt ruộng thí nghiệmc (Sơ đồ 4.2). Chiều dài mảnh thí nghiệm tính là
31.6m (kể cả khoảng cách giữa các ô trong lần nhắc lại cách nhau 0.4m). Dải bảo vệ
giữa 2 đầu ruộng sẽ có độ rộng 6.0 - 7.0m. Tùy điều kiện cụ thể, chiều ngang mảnh
thí nghiệm sẽ là 16m (kể cả 1m là 2 khoảng cách giữa 3 lần nhắc lại ).
Trong thí nghiệm này ô thí nghiệm sẽ có dạng gần vuông nhưng mảnh thí nghiệm
có hình chữ nhật.
+ Xác định ranh giới lần nhắc lại: Khi đã có vị trí chính xác của mảnh thí nghiệm
sẽ xác định được ranh giới giữa các lần nhắc lại (3 lần) như đã nêu ở trên, giữa các
lần nhắc lại chúng tôi để khoảng cách đắp bờ 0.5m rộng hơn so với khoảng cách
giữa các ô trong cùng lần nhắc lại (song khoảng cách giữa các lần nhắc phải có độ
rộng tối thiểu bằng khoảng cách các ô).
+ Xác định ranh giới các ô thí nghiệm: Phải chia mỗi lần nhắc lại làm 5 phần
bằng nhau(mỗi phần 6m và giữa các phần có khoảng cách 0.4m) cho 5 công thức.

20

+ Cắm biển tên các công thức và tên thí nghiệm: Sau khi đã hoàn thành việc chia
ô thí nghiệm xong ngoài đồng ruộng, người chủ trì thí nghiệm phải cắm thẻ tên các
A 45m B

A
'
31.6m B

' B

20m 16m
N


D
'
C
'
D C
Sơ đồ 4.2. Định vị khu thí nghiệm
công thức ở các ô theo như cách sắp xếp đã xác định. Thẻ đánh dấu ghi tên công
thức có thể được làm bằng gỗ, tre hoặc kim loại không gỉ. Tuy nhiên, với điều kiện
của Việt Nam thì phần lớn được làm bằng gỗ hoặc tre. Thẻ có chiều cao từ 70-80
cm, chiều rộng của thẻ từ 8-10cm. Trong đó, phần nhọn được cắm xuống đất (có thể
từ 15 - 20cm). Đầu trên của thẻ khoảng 15cm dùng để viết công thức, tên ký hiệu
công thức ghi theo số la mã (I, II, III ). Lần nhắc lại ghi số thường.
Còn biển ghi tên thí nghiệm nên có dạng hình chữ nhật kích thước tối thiểu (50
cm x 30cm). Trên đó có viết tên thí nghiệm, nền bảng sơn trắng còn chữ tên thí
nghiệm nên viết màu sơn đỏ. Biển tên thí nghiệm được cắm ở phía trước thí nghiệm
(giữa dải bảo vệ và hàng biên của ô thí nghiệm).
2. LÀM ĐẤT, BÓN PHÂN VÀ GIEO CẤY THÍ NGHIỆM
2.1. Làm đất
- Làm đất giống nhau trên cả ruộng thí nghiệm. Thường hay được sử dụng cho
nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác như (So sánh giống, bón phân, mật độ
và một số kỹ thuật gieo cấy khác, ).
- Loại làm đất riêng biệt cho từng ô (hay từng công thức). Thường được áp
dụng cho thí nghiệm về thời vụ, biện pháp làm đất.
2.2. Bón phân cho ruộng thí nghiệm

Yêu cầu trước hết của công tác này là đảm bảo số lượng và chất lượng theo
quy hoạch thí nghiệm đã quy định. Để đạt được yêu cầu trên cần phải tính toán
chính xác lượng phân bón cho mỗi ô thí nghiệm. Các loại phân công nghiệp được
quy ra lượng nguyên chất, như đạm, lân, kali (N, P
2
O
5
, K
2
O) /ha.

21

Lượng phân bón tính cho mỗi ô theo công thức sau:
X =
bx
cax
100
(2.3)
Trong đó: X: lượng phân bón cho một ô (kg)
a : lượng phân nguyên chất cho 1ha (kg/ha)
b: tỷ lệ chất dinh dưỡng(nguyên chất có trong loại phân nghiên cứu
(%).
c: diện tích ô thí nghiệm (m
2
)
Nếu như làm trong chậu vại (kể cả diện tích ô trên ruộng quá bé), lượng phân
bón được tính theo công thức:
X =
b

cxa100
(2.4)
(trong đó X lượng phân bón cho ô đó tính bằng gam)
Tùy lượng phân bón mà dùng loại cân có độ chính xác cho phù hợp. Sau khi
cân phải cho vào túi riêng có đánh dấu tên của công thức để tránh nhầm lẫn. Khi
đem ra ruộng nên để phân vào vị trí của ô sau đó kiểm tra cẩn thận toàn bộ các ô
theo công thức rồi mới bón. Còn phân hữu cơ tùy loại mà có thể quy ra chất lượng
dinh dưỡng của phân. Cách tính cũng như trên song lượng nhiều hơn nên đơn giản
hơn.
Cách bón, yêu cầu phải thật đều trên ô thí nghiệm. Nếu không thực hiện tốt
vấn đề này dễ tạo sai số ngay trong công thức. Nếu phân có lượng quá ít sợ khó bón
đều nên trộn với đất bột mịn để dễ bón đều.
Với thí nghiệm gieo hạt nên chú ý không để phân tiếp xúc trực tiếp với hạt giống.
2.3. Gieo, cấy thí nghiệm
Đây là khâu cuối cùng của bố trí thí nghiệm. Tùy theo yêu cầu của thí nghiệm
mà có thể :
- Gieo cấy giống nhau và đồng thời.
- Gieo cấy khác nhau và không đồng thời: Đây là kiểu gieo cấy của thí nghiệm
về thời vụ, mật độ. Làm lần lượt từng lần nhắc lại (tất cả các công thức), mỗi người
làm trọn vẹn một số lần nhắc lại nhất định.
Đảm bảo mật độ sau gieo cấy cũng như lấp hạt, đồng đều về số lượng dảnh
hay hạt gieo cấy. Nếu thí nghiệm về giống không được lẫn giống. Vì vậy, trước khi
gieo cấy cần xem lại tên giống cho đúng vị trí ô.
Công thức tính khối lượng hạt gieo:

22

P =
B
AxM100

(2.5)
Trong đó: P: là khối lượng hạt gieo (kg/ha)
M: số cây cần có trên 1ha
A: khối lượng 1000 hạt (gam)
B: sức sống của hạt ngoài đồng (tỷ lệ nảy mầm %)
Với cây hàng rộng (nhất là cây lâu năm) cần lưu ý có thể trồng giặm bổ sung
khi có cây chết ngay từ những ngày đầu gieo cấy trong thời gian cho phép.
Với một số cây hàng năm nên tính toán thận trọng để có thể giặm hoặc tỉa
định kỳ có kết hợp với chăm sóc càng sớm càng tốt.
2.4. Chăm sóc thí nghiệm
Đây là công việc thường xuyên gồm: tỉa cành, làm cỏ, xới xáo, vun gốc,
bấm ngọn, bón thúc, phòng chống sâu, bệnh Quá trình này yêu cầu làm đúng quy
định như thiết kế để kết quả thí nghiệm chính xác. Các công việc này cũng phải tiến
hành đồng thời cho cả dải bảo vệ.
3. THEO DÕI THÍ NGHIỆM
Đây là phần công việc hết sức quan trọng của thí nghiệm, nếu không thực
hiện đúng sẽ dẫn đến kết quả không đại diện và không chính xác.
3.1. Quan sát thí nghiệm
Mục đích chính của thí nghiệm đồng ruộng là thu hoạch năng suất (năng suất
sinh học, năng suất lý thuyết, năng suất kinh tế, ), song cũng phải có các thông tin
để giải thích cho sự khác nhau giữa các công thức nghiên cứu của thí nghiệm. Như
vậy cần phải có các thông tin quan sát được về cây, về điều kiện thời tiết nhằm trả
lời các câu hỏi sau: Cây trồng có phản ứng với điều kiện ngoại cảnh và các biện
pháp kỹ thuật nghiên cứu như thế nào? Sự khác nhau giữa các công thức thí nghiệm
với nhau, với công thức đối chứng là do nguyên nhân gì?(ở các chỉ tiêu nghiên
cứu).
Nội dung của các vấn đề quan sát bao gồm:
- Quan sát cây trồng gồm: quan sát các thời kỳ sinh trưởng, tình hình sinh
trưởng, phân tích diễn biến các quá trình sinh lý xảy ra trong các quá trình sinh
trưởng (chu kỳ sống) của cây, những thay đổi về kích thước, cấu tạo và giải phẫu

của cây (nếu thấy cần thiết). Tình trạng sinh trưởng của cây còn thể hiện ở sự hình
thành các cơ quan phát dục, tính lốp đổ, các yếu tố cấu thành năng suất và năng
suất.
- Phân tích quá trình sinh lý, trao đổi chất trong cây gồm: khả năng hút nước,
thoát nước của cây (rễ và lá ), hiệu suất quang hợp thuần, sự tích luỹ chất dinh
dưỡng như N,P, K, Quan sát các thời kỳ sinh trưởng của cây được bắt đầu ngay

23

sau khi gieo cấy ít ngày như: theo dõi cây mọc, cây sống, cây chết, lá, thân, cành, ra
hoa, đậu quả Các số liệu này được đối chiếu với số liệu về khí tượng, từ đó giúp
cho các nhà khoa học có nhận định toàn diện mối quan hệ giữa cây với môi trường
sống của chúng trong thí nghiệm.
- Quan sát ngoại cảnh gồm: Quan trắc các diễn biến về thời tiết, các nhân tố
khí hậu nông nghiệp. Quan sát các số liệu về khí tượng nông nghiệp (lấy từ đài khí
tượng gần nhất). Tùy điều kiện có thể lấy theo tần suất trung bình của một số năm
hay chỉ lấy trong thời gian làm thí nghiệm. Các số liệu khí tượng thường được lấy
theo tháng (từ tháng 1 đến tháng 12) của năm, các tiêu chí thường là: nhiệt độ bình
quân tháng, tổng số giờ nắng trong tháng, tổng lượng mưa của tháng sau đó tính
tổng lượng mưa cả năm (mm), ẩm độ không khí bình quân các tháng. Có thể lấy
theo bình quân 10 ngày như vậy thông tin khá chi tiết.
- Quan sát tình hình sâu, bệnh phải thường xuyên để có thể biết sự ảnh
hưởng của nó tới năng suất.
- Quan sát đất đai thường ở thí nghiệm về phân bón hoặc biện pháp làm đất,
tưới nước, luân canh Tuy nhiên, phải làm liên tục nhiều vụ, nhiều năm (nhóm thí
nghiệm lâu năm hay dài hạn) như vậy trước và sau thí nghiệm phải phân tích đất
mới có cơ sở để giải thích chính xác.
Từ kết quả quan sát đưa ra những nhận xét cho các công thức một cách logic
và khoa học. Tùy thuộc vào đề tài, nhân lực, kinh phí để lựa chọn các nhóm chỉ tiêu
quan sát cho phù với mục tiêu đề tài đặt ra.

Tóm lại, các thí nghiệm về sinh lý và sinh hóa cần quan sát về cây là chủ
yếu, các thí nghiệm có liên quan đến thổ nhưỡng thì nặng phân tích về đất. Các thí
nghiệm về phân bón (dinh dưỡng) cần quan sát hài hòa cả đất và cây. Các chỉ tiêu
nghiên cứu phải dựa hoàn toàn và thực hiện đúng như đề cương đã xây dựng cho thí
nghiệm, tránh làm tùy tiện.
3.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Mục đích là mẫu phải đảm bảo tính đại diện, khách quan, chính xác và dựa
trên quan điểm toán học, xác suất thống kê. Tuy nhiên, để đạt mục đích trên còn
phải kết hợp với cả độ lớn của mẫu nghiên cứu mới đầy đủ.
3.2.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên: Đây là phương pháp chọn mẫu mà các cá thể được
lấy ra quan sát, đo đếm là hoàn toàn ngẫu nhiên.
Cách thực hiện: toàn bộ các cá thể trong ô thí nghiệm được đánh số sau đó
gắp thăm hoặc tra bảng ngẫu nhiên để chọn ra được các cá thể của mẫu (loại trừ các
cá thể ở hàng biên).
* Ưu điểm: mẫu nghiên cứu mang tính khách quan và các giá trị thu được tuân theo
quy định của đại lượng ngẫu nhiên, do đó các tham số của mẫu mang tính đại diện,
nhưng các cá thể trong mẫu mang tính biến động (không đồng đều).

24

* Tồn tại: Khó làm với các tổng thể nghiên cứu lớn và khi dung lượng mẫu không
đủ lớn có thể dẫn đến kết quả không chính xác (tính đại diện thấp). Bên cạnh đó,
việc thực hiện lấy mẫu phức tạp và tốn thời gian.
3.2.2. Chọn mẫu phân phối đều: Chọn phân phối đều ở đây có thể thực hiện trên ô
thí nghiệm, hoặc trên khu vực điều tra. Phân phối đều có 2 dạng sau:
- Dạng thứ nhất: phân phối đều theo đường chéo: có thể đường 5 điểm, 4 điểm, 3
điểm, 2 điểm. Trong dạng này, việc lấy mẫu theo đường chéo phân phối đều tốt hơn
cả, vì nó đại diện cho nhiều vị trí trên mảnh thí nghiệm, do đó tính chính xác sẽ cao
và hiện nay các nhà khoa học Nông học đang áp dụng cách chọn mẫu này.
- Dạng thứ 2: phân phối đều kiểu mạng lưới: thường hay được áp dụng điều tra.

Ưu điểm: Các tham số thống kê thu được theo cách lấy mẫu này có độ chính xác
cao và khách quan. Cách này không phức tạp, vẫn đảm bảo tính ngẫu nhiên và tùy
vào số lượng các cá thể của thí nghiệm mà chọn mẫu có độ lớn khác nhau. Nếu mẫu
nhỏ vẫn ít tạo ra sự biến động của mẫu với hiện trạng thực trong thí nghiệm.
3.2.3. Lấy mẫu theo phân lớp: Dựa vào tình hình cụ thể của quần thể lấy mẫu để
phân các cá thể theo các lớp định tính khác nhau (Ví du: tốt, trung bình, xấu ).
Trên cơ sở phân lớp ta sẽ quy định lấy mẫu cụ thể với các lớp phân chia (tỷ lệ %).
Ưu điểm: đảm bảo tính khách quan, chính xác nhưng công tác chuẩn bị trước khi
lấy mẫu rất tốn thời gian. Dạng này thường áp dụng trong nghiên cứu về BVTV.
3.2.4. Độ lớn của mẫu: Hay còn gọi là "dung lượng" mẫu, độ lớn của mẫu (n) phụ
thuộc vào các điều kiện sau:
- Loại chỉ tiêu nghiên cứu.
- Độ chính xác của thí nghiệm.
- Số lượng cá thể có trong mỗi công thức thí nghiệm.
Về thời điểm quan sát được chia làm 2 loại:
Loại 1: Theo dõi cố định, nghĩa là chọn cố định các cây theo dõi dựa vào
mẫu đã xác định và sau đó theo dõi liên tiếp cả quá trình (lần theo dõi này cách lần
theo dõi khác ở một số ngày nhất định). Loại này thường áp dụng ở các chỉ tiêu
thuộc quá trình sinh trưởng (chiều cao cây, tốc độ ra lá, số nhánh đẻ ).
Loại 2: Theo dõi định kì (mẫu không cố định) có nghĩa là tùy theo từng thời
kì cần thiết mà quan sát hoặc lấy mẫu phân tích, loại này thường đặt ra với các chỉ
tiêu như: Cách xác định khối lượng tích lũy chất khô; xác định năng suất sinh học,
hàm lượng sắc tố, chỉ số diện tích lá; hiệu suất quang hợp; hàm lượng các chất N, P,
K Đây là những chỉ tiêu khi lấy mẫu theo dõi phải phá vỡ các đối tượng nghiên
cứu.
4. THU HOẠCH THÍ NGHIỆM.

25

Đây là công việc cuối cùng của quá trình thực hiện thí nghiệm trên ruộng

nhưng hết sức có ý nghĩa.
4.1. Công tác chuẩn bị.
Chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ phục vụ cho việc thu hoạch thí nghiệm như:
Các dụng cụ bao gói để đựng, phơi sấy nông sản và lưu giữ năng suất.
Thu dãy bảo vệ: Có thể tiến hành trước hoặc sau khi thu thí nghiệm, tránh
nhầm lẫn với các công thức thí nghiệm.
4.2. Lấy mẫu định yếu tố cấu thành năng suất và năng suất cá thể:
Công việc này phải làm trước thu hoạch và phải làm riêng rẽ từng cây từng
lần nhắc lại. Tùy thuộc vào mỗi loại cây mà có các chỉ tiêu năng suất khác nhau.
4.3. Thu hoạch năng suất.
Việc này phải làm riêng từng ô ở từng lần nhắc lại. Từ việc thu hoạch, tuốt
đập và cân đong, có thể cân năng suất tươi hoặc khô ở độ ẩm tiêu chuẩn, hoặc phơi
thật
khô (sấy khô) để cân năng suất.
4.4. Phương pháp điều chỉnh năng suất ô thí nghiệm.
Chỉ đặt ra khi số cây/ô bị khuyết do yếu tố khách quan, nếu không xem xét
để điều chỉnh sẽ làm cho kết quả nghiên cứu thiếu chính xác.Vì vậy, phải điều chỉnh
trước khi đánh giá kết quả nghiên cứu.
Hiện nay có nhiều cách để giải quyết vấn đề này:
- Điều chỉnh năng suất của ô theo năng suất cá thể trung bình.
Y
'
=
X
x N (2.5)
Trong đó:
X
: năng suất cá thể trung bình của ô
Y
'

: năng suất ô hiệu chỉnh
N : số cây trong ô
- Theo Zalemski
Y
'
= )]([
2
1
NxXY  (2.6)
ở đây:
X
: năng suất cá thể trung bình của ô
Y : năng suất thực của ô
Y
'
: năng suất ô hiệu chỉnh
N: số cây trong ô
- Theo Derevitski thì

26

Y
'
= Y
x
xx
2

(2.7)
Trong đó: x: số cây thực tế còn trong ô

x : số cây trung bình của ô
Y
'
và Y như công thức (2.6) đã nêu
Bài tập: Giáo viên sẽ ra bài tập cho sinh viên sau khi đã thực tập và quan sát các thí
nghiệm trên đồng ruộng. Có thể nêu một số tên thí nghiệm cho sinh viên tự thiết kế
và xây dựng đề cương cho thí nghiệm (có thể làm theo nhóm 5 sinh viên/ nhóm)
Bài tập2: Sinh viên thực tập trên ruộng

×