Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

"Trận đồ bát quái" vượt dãy Trường Sơn_1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.25 KB, 5 trang )

"Trận đồ bát quái" vượt dãy
Trường Sơn

"Sau 16 năm, đường Trường Sơn đã phát triển thành một hệ thống
phức tạp với tổng chiều dài 20.000 km. Các chuyên gia quân sự Mỹ
nhiều lần bị 'sốc' và gọi đây là trận đồ bát quái", trung tướng Đồng
Sỹ Nguyên kể về tuyến đường huyền thoại độc nhất vô nhị trên thế
giới.

Tuổi 90 cận kề và mang bệnh tim đã 2 năm nay, trung tướng Đồng Sỹ
Nguyên vẫn giữ được dáng vẻ oai phong và chất giọng hào sảng của vị
Tư lệnh. Sau chiến tranh hơn 30 năm, từng mét đất, từng con đường trên
dãy Trường Sơn vẫn rõ mồn một trong trí nhớ ông.

- Ý tưởng về tuyến đường chi viện vượt dãy Trường Sơn được hình thành
như thế nào, thưa trung tướng?

- Đề xuất ý tưởng về tuyến đường chi viện là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại
tướng Võ Nguyên Giáp là kiến trúc sư, chỉ huy việc thực thi. Ngày
1/1/1959, với Nghị quyết của Bộ Chính trị, chúng ta đã chuyển cuộc đấu
tranh thống nhất qua con đường chính trị thành vũ lực. 5 tháng sau, đúng
vào ngày sinh nhật lần thứ 69 của Bác, Đoàn 559 ra đời, đường chi viện
nối liền Bắc - Nam nhanh chóng hình thành. Đây là con đường chiến
lược mang sức mạnh từ miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa phối hợp
miền Nam thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ.

Tuy nhiên, cần lưu ý là cho tới năm 1970, khi chưa bị hải quân Mỹ ngăn
chặn, đường "Trường Sơn trên biển Đông" mới là tuyến hoạt động hiệu
quả và vận chuyển phần lớn hàng chi viện cho miền Nam.

Những năm đầu xây dựng, việc chi viện thực hiện bằng hình thức đi bộ,


gùi thồ. Ảnh tư liệu.

- Với hoàn cảnh khó khăn lúc bấy giờ, làm sao chúng ta có thể triển khai
xây dựng tuyến đường quy mô như vậy?

- Theo phác thảo ban đầu, chúng ta tổ chức chi viện bằng đi bộ, gùi thồ.
Nhưng sau một thời gian, phương thức này không hiệu quả. Đi bộ gần
2.000 km thì riêng việc nuôi quân vận tải đã quá vất vả nói gì đến
chuyện chi viện. Sau 2 năm như vậy, chúng ta bắt đầu chuyển sang vận
tải cơ giới.

Đến năm 1967, kết hợp các binh chủng phát triển thành tuyến chi viện
hoàn chỉnh. Cũng từ đây, tuyến đường không chỉ mang ý nghĩa là một
"đường dây vận tải chi viện" đơn thuần nữa mà đã chuyển thành một
chiến trường đúng nghĩa - "Chiến trường Trường Sơn đường Hồ Chí
Minh".

- Nhiều chuyên gia quân sự Mỹ đã đi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác
khi khám phá ra hệ thống chi viện phức tạp trên dãy Trường Sơn. Vậy
khó khăn lớn nhất để đảm bảo bí mật và an toàn cho tuyến đường là gì?

- Thực ra, con đường chỉ bí mật hoàn toàn được 2 năm đầu, tức là lúc ta
còn ở giai đoạn sơ khai đi bộ, gùi thồ. Khi chúng ta làm đường vận tải
cơ giới thì không thể bí mật được nữa. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là
đảm bảo an toàn cho các chuyến xe. Địch ra sức ngăn chặn bằng không
quân, hàng rào điện tử McNamara, chất độc hóa học Chúng tạo hàng
ngàn trọng điểm, tập đoàn trọng điểm trên tất cả đường dọc và đường
ngang.

Lúc đó ta cứ nghĩ đơn giản rằng "Địch đánh, ta sửa ta đi" nhưng cách

thức này càng về sau càng thiếu hiệu quả. Ví dụ như sau 2 giờ địch đánh
phá, ta phải mất ngần ấy thời gian để sửa đường để đi, rồi địch lại đánh
phá, ta lại sửa Tắc đường vì thế xảy ra thường xuyên, có khi cả tháng
không chi viện được. Phương thức này vừa như "dã tràng xe cát biển
Đông" vừa khiến quân ta thiệt hại nặng nề.

Đến năm 1967, sau khi tổ chức kiểm tra, rút kinh nghiệm trên toàn
tuyến, chúng ta rút ra bài học là chỉ khi thắng được cuộc chiến tranh
ngăn chặn tổng hợp thì mới chi viện hiệu quả được. Cũng từ đây, ta áp
dụng hiệp đồng binh chủng, vừa chi viện, vừa đẩy lui địch trên chiến
trường.

- Trung tướng nhắc nhiều đến "hiệp đồng binh chủng", vậy sự thay đổi
này có ý nghĩa như thế nào đối với tuyến chi viện đường Trường Sơn?

- Thay đổi này có thể coi là một bước ngoặt. Nếu không thực hiện hiệp
đồng binh chủng (hay binh chủng hợp thành), bảo vệ tuyến vận tải cơ
giới thì việc chi viện sẽ không thể nào thoát khỏi bế tắc. Đoàn xe chi
viện sẽ giống như những miếng mồi ngon dưới tầm ngắm của máy bay
địch.

Từ năm 1967, từ thế phòng ngự bị động, ta chuyển sang chủ động dùng
kế nghi binh, ngụy trang. Mỹ đánh bom trọng điểm, ta san lấp chuyển
thành hố nghi binh ngụy trang khéo léo, thỉnh thoảng cho xe chạy qua để
địch tiếp tục đánh phá. Địch thích đánh trọng điểm nào, ta càng tạo điều
kiện, "kêu gọi" địch đánh vào đấy. Trong khi đó, ta mở thêm 2 tuyến
song song bên cạnh, đoàn xe vì thế vô tư chạy qua.

Để làm được điều đó, ta đã tổ chức và phát triển binh chủng hợp thành
bảo vệ tuyến vận tải cơ giới. Pháo binh, tên lửa như "lưới lửa" bảo vệ

trên đầu đội hình tấn công của xe; công binh túc trực bên đường; bộ binh
liên tục mở các chiến dịch đẩy địch ra xa.

Sau chiến dịch đường 9 Nam Lào 1971 và "Điện Biên Phủ trên không"
1972, chúng ta trở thành người làm chủ hoàn toàn trên chiến trường
Trường Sơn. Tuyến chi viện trở nên thông suốt và cực kỳ hiệu quả. Lúc
cao điểm, trên toàn tuyến có tới 9 sư đoàn trong đó 8 sư đoàn trực thuộc
Bộ Tư lệnh quân khu Trường Sơn. Đội quân hùng hậu này không chỉ
đảm bảo chi viện thông suốt mà còn là lực lượng dự bị chiến lược để
tăng cường cho các chiến dịch khác.

×