Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

NƯỚC VIỆT NAM DƯỚI MẮT CÁC GIÁO SĨ VÀ NGƯỜI TÂY PHƯƠNG HỒI THẾ KỶ 17 - 18_2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.28 KB, 8 trang )

NƯỚC VIỆT NAM DƯỚI MẮT CÁC
GIÁO SĨ VÀ NGƯỜI TÂY PHƯƠNG
HỒI THẾ KỶ 17 - 18

Trịnh Tráng thấy vậy bèn quyết ý đánh họ Nguyễn từ đó. Lần nào vào
đánh chúa Nguyễn, chúa Trịnh cũng đem vua Lê đi, mượn tiếng nhà vua
thân chinh để lấy lòng dân và cho cuộc chinh phạt hợp với đại nghĩa.
Trong tất cả bảy lần đánh nhau, họ Nguyễn chỉ ra đánh họ Trịnh có một
lần, lấy được 7 huyện ở phía nam Lam Giang, nhưng vì các tướng họ
Nguyễn không đồng lòng, nên lại phải rút về giữ đất cũ.

Về thế lực, binh lương thì họ Trịnh mạnh hơn họ Nguyễn. Trịnh có độ 5,
6 vạn quân, còn Nguyễn chỉ có độ hơn 3 vạn, nhưng quân Bắc phải đi
đánh xa xôi, vận tải khó khăn, còn quân Nam thì chỉ phòng giữ đất nhà,
có đồn luỹ chắc chắn, tướng ta lại nhiều người tài giỏi và trung thành,
như Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật và Đào Duy Từ. Trong hồi hai
bên Nguyễn Trịnh đánh nhau vẫn lấy sông Linh Giang (sông Gianh) làm
địa giới. Chính ông Đào Duy Từ đã xây đồn Trường Dục ở huyện Phong
Lộc (Quảng Bình) và đắp cái lũy dài ở cửa Nhật Lệ tứclà Trường Thành
ở Quảng Bình bây giờ. Người ta thường gọi luỹ đó là luỹ Thầy Nghĩa là
luỹ do ông Đào Duy Từ đắp ra và người Pháp gọi là “Mur de Đồng Hới”
[2]. Bức Trường Thành kiên cố này đã giúp cho công cuộc phòng thủ
của giang sơn chúa Nguyễn ở phía Nam sông Linh giang và dãy Hoành
sơn rất nhiều.

Các nhà hàng hải và các giáo sĩ Âu châu từng qua xứ này vào hồi hai thế
kỷ 17 và 18 đã để lại nhiều tập ký sự rất có giá trị có thể giúp ích nhiều
cho chúng ta về việc khảo cứu lịch sử Việt Nam trong hồi đó.

Cố Giuliano Baldinotti người Ý, sinh ở Pistoria gần Florence là vị giáo
sĩ dòng Tên (compagnie des Jésuites) thứ nhất đã đến truyền giáo ở Bắc


Kỳ vào khoảng tháng 3 có tả xứ Bắc như sau này: “Quân lính vác giáo
dài và gươm trần trên vai. Đó là những người rất dễ cảm, có thể điều
đình được, trung thành, vui vẻ và không có những nết xấu của người
Tàu… Vua xứ Bắc Kỳ làm bá chủ chín nước; ba ông vua phải cống hiến
nhà vua đó là vua nước Lai [3] chúa xứ Đàng Trong và chúa xứ Bàu [4].
Chính vua Bắc Kỳ lại phải cống hiên vua Tàu và hằng năm phải đem
cống ba pho tượng bằng vàng và ba pho bằng bạc [5]. Số lợi tức hằng
năm của nhà vua có độ hai triệu. Nhà vua có thể có một đội quân lớn
trong lúc chiến tranh. Dưới quyền vua có 600 vị thượng quan, lúc cần
kíp thì các ông quan đó bắt buộc phải mộ cho nhà vua, ông thì một ngàn,
ông thì hai ngàn lính cho đến lúc hết chiến tranh mới thôi. Các quan to
đều được cai trị những khoảng đất rộng do nhà vua cấp cho, để lúc chiến
tranh thì phải mộ lính. Nhà vua lại có 4000 chiến thuyền đóng ở nhiều
nơi. Các chiến thuyền đó, mỗi bên đều có 26 tay chèo, và mỗi lúc thao
diễn hay đi tuần đều có đặt trọng pháo (hạng súng 14 livres), cổ chiến
thuyền và đầu mũi cũng thiếp vàng rất đẹp. Có một lần tôi đã thấy 500
chiến thuyền tu tậl một chỗ về dịp ngày kỵ đức Thượng hoàng hồi mười
năm trước đã bị người còn nhỏ tuổi nhất giết chết để dịch cướp ngôi vua;
nhưng sau ông hoàng bất hiếu đó đã bị ông hoàng Cả là ông vua đang trị
vì ngày nay tức là vị Thái tử chính thức được quyền nối ngôi giết đi.
Nhà vua rất hiếu chiến, thường tập bắn bia và cưỡi ngựa cùng voi luôn.
Nhà vua lại thích xem chiến thuyền thao diễn nhiều cách, và tiến lui theo
nhịp của người cầm hiệu lệnh.

Kinh đô Bắc Kỳ ở vào vĩ tuyến 21 độ. Lúc không có gió thổi thường vào
hồi tháng sáu, thì khí hậu rất nóng. Kinh đô không có thành trì và cơ
quan phòng thủ gì cả. Ngoài cung vua ra xây bằng đá từng tảng lớn và
lợp ngói, thì các nhà cửa đều bằng tre lợp tranh và không có cửa sổ.

Trong thành phố có nhiều hồ ao để đến lúc có hỏa hoạn cho dễ chữa

cháy. Có đám hỏa tai thiêu tới 5, 6 ngàn nóc nhà, nhưng chỉ bốn năm
hôm sau lại dựng lại ngay. Thành phố chu vi độ 5, 6 dặm và dân cư thì
đông vô kể. Gần thành phố có một con sông lớn thuyền bè có thể đi lại
được. Sông đó chảy ra bể, ở chỗ cách kinh thành độ 18 dặm. Nước sông
rất đục, nhưng ai cũng phải uống vì trong thành phố không có giếng và
thùng chứa nước. Mỗi năm thường nước sông tràn bờ hai lần vào đầu
tháng sáu và tháng 11 ngập đến nửa thành phố, nhưng nước lụt đó rất
chóng rút ra. [6]
Cố Alexandre de Rhodes cũng là một giáo sĩ về Dòng Tên đã đến xứ
Đàng Trong (Cochinchine) lần thứ nhất vào năm 1624 và ra giảng đạo ở
Bắc Kỳ vào năm 1627 đã viết về kinh đô “Kẻ Huế” và người Nam như
sau:

“Nơi kinh đô của nhà vua gọi là “Kẻ Huế”. Triều đình nhà vua rất lộng
lẫy và số các quan to khá nhiều. Các quan ăn mặc rất đẹp nhưng nhà cửa
thì không được lộng lẫy lắm, vì chỉ làm bằng gỗ. Tuy vậy các nhà đó
cũng rất tiện và khá đẹp vì cột nhà chạm trổ rất tinh xảo. Số dân cư ở
kinh thành rất đông và tính tình họ rất hiền hậu. Tuy vậy dân đó là
những tên lính rất tốt và rất kính trọng nhà vua. Nhà vua có độ 150 chiến
thuyền đóng ở ba cửa bể. Người Hà Lan đã thí nghiệm một cách thiệt hại
cho họ và biết rằng các chiến thuyền đó có thể thắng nổi các tàu chiến
lớn mà họ vẫn tưởng có thể dùng để giữ quyền bá chủ trên mặt bể.

“Tôn giáo của người Nam cũng giống tôn giáo người Tàu. Trước kia cả
Nam kỳ và Bắc kỳ đều phụ thuộc về nước Tàu, và đến luật lệ và cả
phong tục cũng giống người Tàu. Họ cũng có những ông Tiến sĩ như ở
Tàu và các quan rất có quyền đối với dân. Nhưng tôi cho rằng họ không
kiêu ngạo như người Tàu, còn có thể điều đình được và là những binh
lính tốt hơn.
“Ngừơi Nam rất giàu vì đất đai ở xứ họ phì nhiêu. Trong xứ có 24 sông

con rất tiệc cho việc giao thông bằng đường thuỷ khắp trong nước và
cho việc buôn bán. Thường mỗi năm cứ đến tháng 11 hoặc 12 thì nước
sông lại tràn ngập; có năm lụt tới ba lần, nước lụt thì khắp trong xứ toàn
dùng thuyền để đi lại. Nhà cửa của họ rất vững chãi đến nỗi có thể mở
phía dưới để làm cống cho nước chảy và cũng vì thế nên các nhà cửa
đều làm kiểu nhà sàn xây trên những cột lớn”. [7]

Cố Giovanni Filippo Marini người Ý đến Bắc kỳ sau cha Alexandre de
Rhodes và ở đến 1658 đã viết trong cuốn “Relation nouvelle et curieuse
des Royaumes du Tonkin et de Lào” tả rõ thành phố Kẻ Chợ và xứ Bắc
kỳ, xứ “Báu” và nói rõ cả về lục quân và thuỷ quân của vua Lê, chúa
Trịnh trong hồi đó.

“… Đội thuỷ quân của nhà vua rất là lớn lao. Tôi muốn nói rõ về số
chiến thuyền, sự đẹp đẽ và các khí giới trên những chiến thuyền đó;
nhưng thế cũng chưa đủ vì cần nói để độc giả rõ sự lộng lẫy nhất là
trong khi chúa và vua đem cả một hạm đội đi đón sứ Tàu, và khi bắt các
chiến thuyền sắp hàng trên giòng sông để giải trí. Cuộc đón tiếp của nhà
vua thường rất lộng lẫy và lại có nhiều nghi lễ nữa.

Thực thế trong cuộc hội kiến thứ nhất, vua và chúa mặc y phục Tàu và
đi ủng (một thứ giày mà mũi cong lên như những chiếc thuyền con)
cùng đội một thứ mũ rất lạ trên đầu, đã đến vái chào trước để tỏ lòng
kính trọng đạo Sắc của Hoàng đế Tàu do sứ thần mang theo.

Bao giờ cũng phải nhường cho viên sứ đi bên hữu và các quan trong
triều đều phải đến chào sứ thần của Thiên triều.
Trong các nghi lễ đón tiếp sứ Tàu, có lễ dàn chiến thuyền từng hàng 5
chiếc một, từ hàng nầy đến hàng kia đều cách bằng nhau và chiến thuyền
đều tô điểm rất đẹp. Hai bên bờ sông đều cắm cờ nhiều màu sắc khác

nhau và bay phất phới trước gió. Các toán bộ binh đứng ở nhiều chỗ, chỗ
thì đánh trống, chỗ thì đánh nao bạt, lại có chỗ lại thổi kèn và các thứ âm
nhạc khác.

Khi viên sứ thần đến gần thì các đội quân đó đều kêu lên to, để tỏ vẻ
hoan nghênh và mừng rỡ, lại bắn súng để chào đại biểu của Thiên triều”.

Dưới đây là một đoạn trong cuốn “Relation des Missions et des voyages
des Evéques vicaires apostoliques et de leurs occiesiatiques Années
1676 et 1677” nói về cuộc chiến tranh giữa chúa Nguyễn và chúa Trịnh.

“Hai nước đó (Đàng Ngoài và Đàng Trong) vẫn đánh nhau mãi, nhưng
hình như người Bắc đã bớt hăng hái trong khi tiến đánh kẻ thù vì họ đã
thiệt hại nhiều trong các trận chiến đấu. Tuy quân xứ Bắc đông hơn quân
xứ Nam, nhưng bao giờ quân Bắc cũng gặp sự bất lợi và mỗi lần tiến
vào lại bị thua. Năm 1676, bên Nam đã đem 40.000 quân đợi quân Bắc ở
đường biên giới, nhưng sau không thấy quân Bắc đến; quân Nam lại có
ý tiến vào xứ Bắc, nếu vị Hoàng tử thứ hai con vua xứ Nam, tổng tư lệnh
bô binh, không chết một cách bất ngờ, cái chết đó đã hoãn hết mọi việc
dự bị để tiến đánh quân Bắc. Vì đó mà bên Nam đành phải giữ thế thủ
cho đến lúc trong triều mãn tang. Phải nên nhận rằng người Đàng Trong
vốn sẵn có thiên tài về việc binh bị, tất cả các nước đã biết người nước
đó đều cho rằng phần nhiều người xứ đó đều ra lính và làm tướng, lúc
cần rất can đảm và rất khôn ngoan trong cách cư xử. Cứ thường đến tuổi
25 thì dân xứ đó đã sung vào cơ ngũ và họ phải ở lính cho đến 60 tuổi;
ngày nào cũng chỉ tập luyện về nghề đó. Ngày nào họ cũng phải đến cửa
các viên tướng từ 6 giờ sáng để luyện tập cho đến quá 10 giờ, rồi buổi
chiều lại phải tập luôn từ 2 giờ đến 6 giờ mới thôi. Họ tập bắn súng, bắn
tên, tập giáo, tập kiếm, tập ném tạ cả ở trên bộ và trên chiến thuyền.
Trong khắp cả miền Đông phương không có dân tộc nào thích các thứ

khí giới tốt bằng dân xứ này. Các khí giới của họ dùng, làm rất cẩn thận,
cái thì mạ vàng, cái thì mạ bạc, một thanh kiếm xấu nhất cũng bọc hết
hơn 12 đồng tiền bạc không pha trộn với thứ kim khí nào khác.

“Khi nhà vua ra chỗ công chúng, cứ thường mỗi ngày hai lần, thì quân
lính đi sắp hàng mang khí giới ở hai bên. Chính trong lúc đó là lúc ai
cũng có thể đệ đơn khiếu nại lên nhà vua.


×