Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Lịch Sử Việt Nam-nhà Hậu Lê (1418 - 1788)_2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.48 KB, 6 trang )

Lịch Sử Việt Nam-nhà Hậu Lê
(1418 - 1788)

Các ngành nghề thủ công truyền thống như ở các làng xã như kéo tơ,
dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm v.v ngày càng
phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng
Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất.

Các công xưởng do nhà nước quản lí gọi là Cục Bách tác sản xuất đồ
dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng ; các nghề khai
mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh.

Thương mại
Nhà vua khuyến khích lập chợ mới họp chợ ban hành những điều luật
cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ.

Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng
giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh
(Quảng Ninh), Hội Thống (Hà Tĩnh) và một số địa điểm ở Lạng Sơn,
Tuyên Quan được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành sứ, vải lụa,
lâm sảm quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa
chuộng.

Tuy nhiên, cùng với thủ công nghiệp, thương mại vẫn bị nhà nước ức
chế. Thời nhà Lê chính quyền dùng chính sách bế quan tỏa cảng. Nhà Lê
hạn chế ngoại thương hơn cả nhà Lý, nhà Trần. Các tàu ngoại quốc tới
buôn bán đều phải đậu ở Vân Đồn. Dân buôn muốn đi buôn bán thì
phải có giấy phép, về cũng phải có giấy phép. Quan lại vô cớ tới Vân
Đồn, dân chúng tự tiện đón tàu vào buôn bán cũng đều bị xử tội.

Giáo dục


Bài chi tiết: Giáo dục khoa cử thời Lê Sơ
Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám ở kinh
thành Thăng Long mở trường học các lộ mở khoa thi và cho phép người
nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học đi thi trừ
những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.

Ở các đạo phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi có đạo
đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là sách của nhà Nho. Thời
Lê sơ (1428-1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ 20
trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tổ chức được
12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ 9 trạng nguyên.

Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà
thường dân đi học như thời nhà Lý, nhà Trần. Tài liệu học tập thì gồm
mấy bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh tinh tuý, Bắc sử (Sử Trung Quốc). Phương
pháp giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là trừng phạt bằng roi vọt và
học thuộc lòng. Ngoài ra còn nguyên tắc lặp lại tư tưởng cổ nhân và
biểu diễn bằng những câu sáo rỗng.

Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu
- Quốc Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung
thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới,
Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài
Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ
quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa
sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có
tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái. Việc thi cử và
học tập thường xuyên và rất nhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và
thành danh.


Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn
chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho
giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới
nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó
chịu sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các
phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ.

Hệ thống Nho giáo này do phong kiến nhà Lê bắt chước theo nhà Minh
của Trung Quốc. Người học tuyệt đối không ai được phát huy ý kiến
riêng của mình, cấm chỉ tự do tư tưởng. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh
cho rằng kiểu người điển hình do phương pháp giáo dục này đào tạo là
người hủ nho hoàn toàn trung thành với chế độ quân chủ nhà Lê.

Luật pháp
Bài chi tiết: Luật Hồng Đức
Về luật pháp, Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn
thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với
bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi
và thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm
của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật
pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền
thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.

Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua hoàng tộc; bảo
vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị địa chủ phong kiến. Đặc
biệt bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến
khích phát triển kinh tế, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ.

Xã hội

Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư sống chủ
yếu ở nông thôn. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất phải cày ruộng
đất công nộp tô thuế đi phục dịch cho nhà nước (đi lính đi phu ) hoặc
phải cày cấy ruộng thuê của địa chủ quan lại và phải nộp một phần hoa
lợi (gọi là tô) cho chủ ruộng.

Nông dân là giai cấp bị bóc lột nghèo khổ trong xã hội. Tầng lớp thương
nhân thợ thủ công ngày càng đông hơn họ phải nộp thuế cho nhà nước
và không được xã hội phong kiến coi trọng.

Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội bao gồm cả người Việt
người Hoa dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc
bàn mình làm nô hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy số lượng nô tì
giảm dần[8]

Nhờ chính sách khuyến nông, cuộc sống của nhân dân được ổn định
dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới được thành lập. Các nhà nghiên
cứu Việt Nam tự nhận Đại Việt đã trở thành một quốc gia có uy thế
trong khu vực Đông Nam Á

×