Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

TIẾP CẬN NỀN GIÁO DỤC KHOA CỬ THỜI LÊ SƠ _2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.2 KB, 7 trang )

TIẾP CẬN NỀN GIÁO
DỤC KHOA CỬ THỜI
LÊ SƠ





Lê Lợi, người anh hùng dân tộc đã đoàn kết toàn dân đánh đuổi giặc
Minh, bình định thiên hạ, thu non sông về một mối, mở ra triều đại
nhà Lê. Ngay từ buổi đầu, Lê Lợi đã chú trọng nâng đỡ hiền tài, tìm
người ẩn dật, mở các khoa thi, xây dựng nền văn học nước nhà, củng
cố chính sự quốc gia. Vua hết lòng chăm lo việc học hành, trực tiếp
định ra chương trình học tập cho trường Quốc Tử giám ở kinh đô và
các trường công, tư ở các lộ, phủ, châu.

Năm 1429, Lê Lợi đã xuống chiếu yêu cầu “những người văn võ hào
kiệt hoặc bị bỏ sót trầm trệ, không có chức tước, không ai tiến cử,
hoặc vì thù hằn mà bị đè nén che giấu thì đến ngay chỗ thiếu phó Lê
Văn Linh mà tự tiến cử, xét ra thực có tài đức thì tấu trình để cất
dùng, không kể là ngụy quan hay là sĩ thứ, lấy tài đức là hơn”(1). Vua
mở ra khoa thi minh kinh bác học để chọn người tài giỏi, thông thạo
kinh sử, đồng thời bắt các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống phải thi
kinh sử. Đến năm 1431, vua lại cho mở khoa thi hoành từ để chọn
những người văn hay, học rộng bổ làm quan.

Bằng những chiếu dụ đó, mặc dù Lê Lợi chưa mở được các khoa thi
tiến sĩ nhưng ông đã tập hợp được một tầng lớp nho sĩ trí thức tiến bộ
giúp triều đình dựng nước, an dân, ổn định xã hội sau nhiều năm binh
lửa chiến tranh.


Tiếp tục sự nghiệp của vua cha, Lê Thái Tông (1434-1442) đã không
ngừng củng cố nhà nước phong kiến mới được hình thành bằng cách
tăng cường đào tạo con cháu các quan văn võ từ lục phẩm trở lên, các
quan phù đạo, thủ lĩnh ở các phiên trấn thông qua hình thức ưu tiên
lập danh sách, cho đến Quốc Tử giám đọc sách chờ tuyển dụng. Cùng
với việc sử dụng con em trong gia đình quan lại, quý tộc, vua cũng tổ
chức ngay cuộc thi học sinh trong nước, lấy đỗ hơn 1.000 người và
chia làm 3 hạng: hạng nhất, nhì được vào Quốc Tử giám tiếp tục học
tập, hạng ba cho về học ở các nhà học địa phương, tất cả đều được
miễn lao dịch để toàn tâm, toàn ý học tập. Những nho sinh ở các nhà
lộ học từ 25 tuổi trở lên mà thi không đỗ phải về quê làm dân thường
và chịu mọi lao dịch. Năm 1437, vua cho khảo sát thi viết và tính lấy
đỗ 690 người bổ làm thuộc lại các nha môn. Nối theo chí hướng một
lòng cầu hiền và hết mực sùng nho, trọng đạo của tiền nhân, Lê Thái
Tông vẫn ngày đêm tìm kẻ anh tài, dùng người tuấn kiệt và ông nhấn
mạnh muốn có người giỏi trước hết phải chọn người văn học, trong đó
lấy khoa mục, thi tuyển làm đầu.

Sau 10 năm hòa bình, ổn định, vua Lê Thái Tông quyết tâm thúc đẩy
việc học hành thi cử vì chỉ có thông qua thi tuyển mới chọn được
người thực tài, đó là một nhân tố rất quan trọng giúp nhà vua dựng
xây đất nước. Năm 1438, vua cho tổ chức thi hương ở các đạo, năm
1439, thi hội tại sảnh đường kinh đô, ai trúng kỳ thi hội được gọi là
tiến sĩ xuất thân (đỗ tiến sĩ được ra làm quan). Vua cũng định lệ 3
năm mở 1 khoa thi.

Năm 1442, vua mở khoa thi đình tại kinh đô Thăng Long cho những
người thi hội đã đỗ 4 trường. Đề thi do nhà vua đích thân ra, ai đỗ kỳ
thi này được gọi là tiến sĩ và chia ra 3 bậc. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ
gồm 3 người xuất sắc nhất được vinh danh tam khôi: trạng nguyên,

bảng nhãn, thám hoa. Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân được gọi là hoàng
giáp và cuối cùng là đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân được gọi là
tiến sĩ. Cách phân cấp này gần giống như dưới thời vua Trần Duệ
Tông (1374) nhưng cụ thể, tỉ mỉ hơn, đánh giá trình độ tiến sĩ xác
đáng hơn.

Ở buổi đầu thời Lê sơ, vua tôi chăm lo việc nước, chú trọng việc học
hành thi cử, nhiều nhân tài được thể hiện và trọng dụng, tạo ra nền
tảng vững vàng cho đất nước phát triển. Khi vua Lê Thánh Tông lên
ngôi (1460-1497), việc học hành khoa cử càng được đề cao, nhà nước
phong kiến Đại Việt bước vào giai đoạn cực thịnh.

Nhằm kiểm soát chặt chẽ đạo đức của nho sinh và củng cố lòng trung
thành của quan lại với nhà nước phong kiến, năm 1462, vua Lê Thánh
Tông đặt ra lệ “bảo kết hương thí” và “cung khai tam đại”. Quy định
này yêu cầu các sĩ tử muốn tham dự các kỳ thi phải có sự đảm bảo và
cam kết của quan lại địa phương về tư cách của thí sinh, đồng thời
mỗi thí sinh phải có một bản khai lý lịch 3 đời. Nếu ai xuất thân trong
những gia đình làm nghề cầm ca hát xướng thì không được dự thi.

Quy chế tuyển chọn từ địa phương này đã chặt chẽ hơn trước và góp
phần ổn định trật tự xã hội bởi vì nó đã loại bỏ được những người yếu
kém về nhân cách và bắt buộc các gia đình muốn cho con cháu được
học hành tấn tới thì phải tự giác chấp hành những quy định của nhà
nước và của hương thôn, làng xã. Người nào bị xếp vào loại bất hiếu,
bất mục, bất nghĩa, loạn luân, điêu toa thì tuy có học vấn, giỏi văn bài
cũng không được tham dự các kỳ thi. Tiếc rằng, quy định mang tính
tích cực đó của Lê Thánh Tông sau này đã bị các quan lại địa phương
lợi dụng để nhũng nhiễu người dân, mặt khác quy định đó cũng thể
hiện những hạn chế vì nó đã phân biệt đẳng cấp quá khắt khe, coi

thường những người làm nghề ca hát và có nhiều trường hợp ông, cha
làm sai mà con con cháu phải gánh tội nên có nhiều nhân tài lỡ mất
cơ hội cống hiến cho dân, cho nước.

Vua Lê Thánh Tông tích cực cải cách chế độ giáo dục khoa cử để tạo
ra sự nghiêm túc trong các kỳ thi nên tuyển chọn được những người
thực sự tài đức. Vua đã xuống chiếu quy định bắt buộc các thí sinh
phải trải qua kỳ thi Hương để loại bớt những người yếu kém về văn
chương, chữ nghĩa. Nếu ai mang theo tài liệu vào trường thi hoặc
mượn người thi hộ sẽ bị tội theo pháp luật. Từ nay, các kỳ thi hương ở
các lộ, phủ do quan lại địa phương tổ chức nhưng phải theo quy định
thống nhất về nội dung do vua ban hành như sau: Trường nhất, thi 5
đoạn kinh nghĩa; trường nhì, thi chiếu, chế, biểu dùng thể tứ lục hay
cổ thể; trường tam, thi thơ theo thể Đường luật, phú dùng cổ thể và
văn tao tuyển (dạng Ly tao của Khuất Nguyên) dài 300 chữ trở lên; tứ
trường, thi văn sách, hỏi về kinh sử và thời vụ dài 1000 chữ trở lên.

Nếu ai phạm húy (2) của quốc triều sẽ không được đỗ. Nếu ai đỗ cả 4
trường trong kỳ thi hương gọi là hương cống (cử nhân thời Trần), nếu
chỉ đỗ 3 trường gọi là sinh đỗ (tú tài thời Trần). Vua định bệ cứ 3 năm
triều đình tổ chức thi hội một lần vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Tháng 201462, vua cho thi hội, các cử nhân trong nước có 4.400
người tham dự nhưng chỉ chọn đỗ được 44 người (xấp xỉ 1%).

Trong các kỳ thi hội và đình do triều đình tổ chức, bao giờ vua Lê
cũng cử các quan lại cao cấp (thượng thư), có uy tín, đạo đức tốt và
đỗ đạt học vị tiến sĩ làm quan đề điệu (chủ khảo), giám thí (phó chủ
khảo) và độc quyển. Nhà vua đích thân ngự ra điện Kính Thiên, tự tay
ra đề thi văn sách cho các sĩ tử, thường hỏi về đạo trị nước của các đế
vương hoặc cách dùng nho sĩ. Đề thi thiết thực gắn với việc dựng

nước, trị dân; các sĩ tử đã được tự do tư tưởng, hết lòng bộc bạch,
trình bày một cách thoải mái những suy nghĩ của mình về những vấn
đề lớn mà nhà vua quan tâm. Sự hiểu biết và những chính kiến cá
nhân đó đã trở thành những gợi ý hay và cũng là sự hiến kế cho nhà
vua cách thức làm cho dân giàu, nước mạnh.

Các giám sinh lúc đó chỉ chú tâm họa Kinh thi, Kinh thư mà không
quan tâm đến Lễ ký, Chu dịch, Xuân thu nên vua bắt đầu cho đặt
chức ngũ kinh bác học để cho mỗi người chuyên trị đi sâu vào một
loại kinh sách để dạy học trò một cách toàn diện.

Sang năm 1466, vua định lệ truyền lô xướng danh người đỗ, bộ lễ
treo bảng vàng, ghi tên các tân tiến sĩ ở cửa Đông Hoa. Tiến sĩ được
nhà vua trực tiếp đãi yến tiệc ở vườn Thượng uyển, ban phát áo, mũ,
xiêm, đai, ngựa tốt để vinh quy bái tổ, sau đó được vua bổ nhiệm vào
các chức vụ quan trọng trong triều hay ngoài lộ, phủ. Năm 1472, vua
cũng định phẩm hàm, chức tước cho các tân tiến sĩ đỗ đệ nhất giáp:
Người đỗ đầu cho chức tước chánh lục phẩm 8 tư, người đỗ thứ hai
cho tòng lục phẩm 7 tư, người đỗ thứ ba cho chánh thất phẩm 6 tư
(3). Chế độ ban cấp bổng lộc và chức tước cao cho những người đỗ
đạt đã khuyến khích việc học tập ở thời Lê và vì sự trọng dụng hết
lòng của nhà vua mà các nho sĩ cũng hết lòng tận tụy giúp triều đình
chấn hưng đất nước.

Đặc biệt, vào năm 1484, vua Lê Thánh Tông đã quyết định khắc tên
tiến sĩ khoa thi từ 1442 đến năm 1481 lên bia đá nhằm ca ngợi công
đức, sự nghiệp nhà Lê, đề cao việc học hành thi cử, răn dạy các tiến sĩ
đỗ đạt làm quan phải phục mệnh vua làm điều hay, việc thiện có ích
cho dân, cho nước, chớ làm điều xằng bậy, tham nhũng, làm khổ
muôn dân. Từ đây, vua cũng định lệ cứ 3 năm thi 1 lần theo trật tự

thi hương, thi hội, thi đình và cho đổi cách gọi tam khôi thành tiến sĩ
cập đệ (3 người đỗ cao nhất), chính bảng gọi là tiến sĩ xuất thân, phụ
bảng là tiến sĩ đồng xuất thân. Năm 1489, vua cho tu sửa, mở rộng
và phát triển Quốc Tử giám, đổi tên thành nhà Thái học, xây thêm
nhà học và bí thư các để làm phòng học và kho chứa kinh sách, ván
in. Vua Lê Thánh Tông chủ yếu tuyển dụng quan lại thông qua khoa
bảng nhưng ông cũng chú trọng tìm kiếm hiền tài nhờ sự tiến cử và
quy trình tiến cử đã được bổ sung một cách chặt chẽ, khách quan,
tránh việc gây bè kéo cánh, tham nhũng trong bộ máy chính quyền.
Năm 1484, vua ra sắc chỉ rằng: từ nay trở đi, quan các nha môn
trong ngoài có khuyết mà vâng lệnh bảo tiến cử thì người tiến cử phải
ghi rõ về tài năng, kiến thức, đức độ và đề xuất đáng bổ vào chức gì.
Sau này người được tiến cử mà không có tài đức, bỉ ổi, tham nhũng
thì người tiến cử sẽ bị truy xét, trị tội nặng.

Trước khi Lê Thánh Tông lên ngôi, việc thi tuyển có một số tiến bộ
nhưng chưa đi vào nề nếp, hiện tượng mang theo tài liệu hoặc nhờ
người thi hộ còn phổ biến cho nên nhiều người học mà chất lượng còn
rất kém, gây ra sự nhiễu loạn trong học đường.

×