Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

TIẾP CẬN NỀN GIÁO DỤC KHOA CỬ THỜI LÊ SƠ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.91 KB, 9 trang )

TIẾP CẬN NỀN GIÁO
DỤC KHOA CỬ THỜI
LÊ SƠ






Năm 1485, vua ra lệnh tổ chức cho khảo thí trước kỳ thi hương
phải nghiêm để chọn người văn hay, chữ tốt. Nếu thi phúc hạch mà có
ai bỏ quyển trắng hoặc văn chữ quá kém thì sẽ niêm phong để tra
xét. Nếu để lọt từ 1 đến 4 người dốt nát mà được đỗ do tiêu cực thì
quan thừa hiến ở các lộ phủ bị cách chức. Từ đời Hồng Đức, quy chế
học hành, thi cử được thắt chặt, chất lượng được nâng cao, nhân tài
được quan tâm nuôi dưỡng, có điều kiện được phát triển. Vua cho
những học trò thi đỗ trong các đợt khảo thí, có đạo đức tốt thì được
giảm 1/2 phần thuế và tha lao dịch, và cũng định luật khảo khóa theo
định kỳ 3 năm, 6 năm, 9 năm cho quan lại cấp thấp ở các nha môn,
nếu ai đỗ cả 3 đợt khảo xét thì mới được thăng chức. Các quan lại già
yếu, kém cỏi sẽ bị thải về quê. Nếu ai cố tình chạy chức, chạy quyền
sẽ bị trị tội nặng. Nhà vua đề ra chức nhất phẩm tân quan (chức quan
danh dự) để truy tặng cho các vị công thần khai quốc có mặt trong
hội thề Lũng Nhai bị hy sinh mà chưa được nhận chức tước, bổng lộc
gì của triều đình. Từ 1492, vua tăng cường các quan trong Hàn lâm
viện (mỗi ty 4 người) làm khảo quan tại các ty thừa tuyên: Hải
Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc trong các kỳ thi hương để
tránh những sự thông đồng, tiêu cực của các quan địa phương. Lê
Thánh Tông là một minh quân, ông luôn đề cao trí thức, trọng đãi
người tài đức, khoa bảng. Năm 1496, sau quy định cấp chức của quan
lại, các cấp phải căn cứ vào bằng cấp, đạo đức và thử thách qua quá


trình làm việc. Nhất thiết phải đỗ đạt mới được bổ làm quan.

Năm 1497, vua Lê Thánh Tông băng hà, vua Lê Hiến Tông được nối
ngôi. Ngay khi nhận chức, ông đã chú ý cải cách giáo dục, xuống
chiếu cầu hiền và có sắc chỉ phải chọn tiến sĩ xuất thân liêm khiết,
siêng năng, cương trực, làm việc giỏi để bổ nhiệm vào cấp sự trong 6
khoa. Những chức vụ quan trọng như giám sát ngự sử hoặc tổng binh
không được trao cho người yếu kém, dù xuất thân quý tộc. Từ đây,
thể lệ trường thi được quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn. Trường thi
thời này được chia ra 4 khu rộng, có rào bao quanh xen kẽ những
tháp có lính canh suốt ngày, nếu có họ hàng dự thi thì quan chấm
trường không được làm khảo quan. Bài thi của thí sinh được khảo
quan chép lại sau đó các quan chấm thi chấm theo bài chép lại đó để
đề phòng việc các thí sinh đánh dấu bài thi. Thí sinh nào vi phạm quy
định trường thi phải xung vào quân bản phủ 3 năm và suốt đời không
được dự thi.

Dưới thời các vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, nền giáo dục khoa
cử đạt đến đỉnh cao, tạo ra một tầng lớp trí thức nho học rất giỏi kinh
sử. Ngoài các khoa thi lớn mang tầm quốc gia để tuyển chọn cử nhân,
tiến sĩ, nhà Lê còn có nhiều khoa thi đột xuất để tìm kiếm nhân tài:
Khoa hoành từ là khoa thi trên cấp thi hương, dưới cấp thi hội, khoa sĩ
vọng (tuyển cử) chọn người để bổ tri huyện như người đỗ hương
cống. Đặc biệt, nhà Lê còn mở khoa đông các để tuyển chọn những
tiến sĩ giỏi nhất bổ vào các sảnh, viện, cục trong triều đình.

Từ năm 1502, Lê Hiến Tông quy định bảng vàng được treo ở nhà Thái
học Quốc Tử Giám chứ không treo ở cửa Đông Hoa nữa. Từ đây, bảng
vàng bia đá được gắn với nhau ngay trong khuôn viên Quốc Tử Giám,
có tác dụng thôi thúc, nhắc nhở tầng lớp trí thức phải rèn luyện không

ngừng về tài và đức để không làm hổ thẹn cái danh kẻ sĩ và không
phụ lại sự trọng đãi của nhà vua.

Từ khi Lê Uy Mục và Lê Tương Dực lên ngôi, phong tục suy đồi, kỷ
cương rối loạn vì vua bạo ngược, gian dâm, giết người tôn thất,
chuyên quyền độc đoán, chèn ép các sĩ phu, bọn gian nịnh được tin
dùng, triều Lê dần sa sút. Năm 1527, Mạc Đăng Dung đã cướp ngôi
nhà Lê. Thời Lê sơ trải 100 năm, qua 10 đời vua, kết thúc.

Mặc dù vậy, thời Lê sơ được xem là một thời thịnh trị của chế độ
phong kiến Việt Nam, được đánh dấu bởi những chiến công cực kỳ
hiển hách của quân dân Đại Việt đánh tan giặc Minh xâm lược, xây
dựng nên một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững
mạnh, đạt nhiều đỉnh cao sánh ngang với các vương triều phương Bắc
trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, trong đó chế độ học tập, khoa
cử và trọng dụng hiền tài được đặc biệt chú trọng và trở thành mẫu
mực cho thời sau.

Trước đây, khi nói đến nền giáo dục, khoa cử thời Lê sơ, có người nghi
ngờ tính chất độc lập, sáng tạo của nó và cho rằng nền giáo dục đó
nhiều lắm cũng chỉ là sự sao chép, mô phỏng của nền giáo dục Trung
Hoa. Việc đồng nhất hai nền giáo dục như trên là thiếu cơ sở khoa học
và thiếu tính thuyết phục. Bản thân nền giáo dục nước ta dựa trên
những quy luật phát triển riêng của nó mà thời đại Lý-Trần được xem
là thời kỳ dựa trên tư tưởng của tam giáo đồng nguyên. Thời Lê sơ
đánh dấu sự kết thúc của quá trình tiếp thu, thâu hóa các khuynh
hướng giáo dục từ bên ngoài sau khi đã vượt ra khỏi cái bóng của
nho, phật, lão để dựng nên một cột mốc mới trong lĩnh vực tri thức
hết sức phức tạp và thường xuyên biến động để nền giáo dục, khoa
cử Đại Việt có một nội dung riêng, một vị trí độc lập ngang bằng với

các quốc gia.

Dẫu rằng vua tôi nhà Lê sùng nho, trọng đạo, nhưng thời Lê sơ được
xem là giai đoạn mà nền giáo dục khoa cử đã chín muồi về nội dung
và hình thức. Cũng như sự nghiệp giáo dục của bất kỳ quốc gia nào
thời đó, giáo dục, thi cử nước ta tập trung thực hiện mục tiêu dạy làm
người và truyền bá đạo làm người mà cái đạo đó nhất định phải
hướng tới xây dựng những chuẩn mực đạo đức vừa mang tính chất
riêng của con người gia đình, vừa mang tính chất con người xã hội
phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam và phù hợp
với những giá trị văn hóa thời đại. Chính vì lẽ đó mà một số nội dung
tích cực của đạo nho đã được các ông vua thời Lê tiếp thu triệt để
nhưng theo một nhân sinh quan và một hệ quy chiếu hoàn toàn khác,
đó là: Lấy con người Việt Nam và tổ quốc Việt Nam là trung tâm, lấy
dân tộc Việt Nam làm gốc.

Thông qua việc dạy con người học trong sách vở, học qua sự trao
truyền giữa các thế hệ, học ở đời kết hợp với việc học qua thầy, qua
bạn mà nền giáo dục khoa cử thời Lê sơ đã hướng con người đến chữ
nhân, đưa con người về chữ hiếu, dẫn con người đến chữ trung,
khuyên con người về chữ nghĩa, đó là những giá trị hằng xuyên và bất
biến của bất kỳ xã hội nào.

Chẳng những thế, nền giáo dục đó đã dạy và rèn luyện con người
sống một cách hướng thiện, chính trực, thẳng thắn, công minh, thanh
cao, trong sạch dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Vượt qua chiều rộng của
không gian, chiều sâu của thời gian, tinh thần nhân văn và nhân đạo
trong nền giáo dục đã trở thành sức mạnh vô song để củng cố lòng
tin, điều chỉnh hành vi của con người, cung cấp cho họ những chuẩn
mực để rèn luyện ý chí, nghị lực hình thành thái độ trước cuộc đời, thể

hiện sự yêu - ghét và khí phách, cốt cách của những con người có tri
thức, có khả năng nhận thức được chân lý.

Ở một quốc gia quân chủ chuyên chế phương Đông, các vua nhà Lê là
người đứng đầu và trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục, khoa cử. Triều
đình coi việc giáo dục, mở khoa thi kén kẻ sĩ là việc làm đầu tiên
trong phép trị nước, là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
hoạt động của nhà nước phong kiến, gắn với sự hưng vong của triều
đại, đồng thời là lĩnh vực trọng yếu để giữ vững cơ đồ, mở mang giáo
hóa, sắp xếp chính sự, gìn giữ kỷ cương, xây dựng, củng cố nền tảng
chính trị của chế độ, do đó phải được thực hiện nghiêm chỉnh, công
khai, nghiêm ngặt, thường xuyên, nhằm lựa chọn được những người
tài đức xứng đáng.

Mục tiêu cuối cùng của nền giáo dục, khoa cử đó là khẳng định, bảo
vệ củng cố, ca ngợi và duy trì chủ nghĩa tôn quân phong kiến, chứng
minh cho sự trường tồn của chế độ phong kiến là hợp quy luật, làm
cho hệ tư tưởng phong kiến và những giá trị tốt đẹp trong truyền
thống văn hóa dân tộc cùng những tinh hoa của văn hóa nhân loại
chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần; củng cố, tăng cường sự
thống nhất về tư tưởng, tạo ra sự đoàn kết toàn dân, giữ vững và mở
rộng sự ảnh hưởng của chế độ phong kiến Việt Nam, đào tạo được
một tầng lớp quan lại từ trung ương đến địa phương có đủ năng lực,
đạo đức, bản lĩnh để trị quốc. Giáo dục thời Lê luôn luôn gắn liền với
việc thi cử để chọn lựa nhân tài và mở nền nhân văn, khai hóa thiên
hạ. Triều đình hết lòng chuộng kẻ sĩ và tin dùng kẻ sĩ, giao cho họ
nhiều trọng trách lớn lao để họ thỏa chí trung thành cống hiến cho đất
nước. Những bài giảng, đề thi trong các cuộc thi đình thường gắn với
những nội dung bàn về việc trị quốc, bình thiên hạ.


Kết cấu giai cấp trong xã hội thời Lê sơ đã có sự thay đổi rõ nét, vì với
một nền giáo dục, khoa cử phát triển mạnh mẽ, sau hàng trăm năm
đã tạo ra một tầng lớp trí thức nho sĩ đông đảo được trang bị một nền
học thuật mới, phần lớn trong số họ đã được bổ sung vào bộ máy nhà
nước và trở thành một lực lượng quan trọng góp phần giải quyết
những vấn đề mà thời đại đặt ra.

Đặc biệt, từ năm 1484, vua Lê Thánh Tông đã cho dựng bia tiến sĩ ở
nhà Thái học, đó là một việc làm chưa từng có và có ý nghĩa nhân văn
hết sức to lớn. Xuất phát từ việc coi hiền tài là nguyên khí của quốc
gia, quyết định vận mệnh thịnh suy của đất nước cho nên các bậc đế
vương triều Lê đều chú trọng đến việc gây dựng hiền tài, kén chọn kẻ
sĩ, coi bồi dưỡng nguyên khí là việc đầu tiên của sự nghiệp trị quốc.
Sau mỗi kỳ thi tiến sĩ, thì dựng bia ghi danh tiến sĩ là một sự kiện
quan trọng của triều đình vì nó không chỉ nhằm khuyến khích nhân
tài, đề cao học vấn, lưu truyền thiên thu cho hậu thế, tạo truyền
thống khoa bảng ham học cho muôn đời con cháu mà còn củng cố
huyết mạch cho đất nước, chỉ đường dẫn lối cho các sĩ phu, răn đe
những thói xấu, ca ngợi những điều hay, khuyên con người rèn luyện
tâm tính, tu nhân, tích đức, không làm điều gì hổ thẹn đến danh tiết
của người quân tử-kẻ sĩ.

Với một nền kinh tế nông nghiệp, tiểu nông lạc hậu tự cấp tự túc là
chủ yếu, trong đó kinh tế thương mại và thủ công nghiệp rất kém
phát triển, ở thời Lê sơ (TK XV), con đường duy nhất và cũng là danh
giá nhất cho người nông dân có thể thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn
là học tập và thi cử. Nếu may mắn đỗ đạt thì được trọng dụng, được
bổ nhiệm làm quan, được “xuất thân” khỏi lũy tre làng hòa nhập vào
xã hội rộng lớn hơn. Một ước mơ rất chính đáng và tốt đẹp nhưng rất
nhiều người không thực hiện được.


Có thể nói rằng, nền giáo dục, khoa cử thời Lê sơ đã được định hình
và phát triển rực rỡ từ năm 1442 đến năm 1526. Trong thời gian đó,
tổ chức được 26 kỳ thi, tuyển được 998 tiến sĩ (4), đó là những người
tài giỏi và một số trong những tiến sĩ này là những nhân tài kiệt xuất
(Nguyễn Trực, Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận), góp
phần làm rạng rỡ lịch sử và văn hóa Việt Nam. Chính họ là những
người trao truyền, giữ gìn và phát triển những giá trị văn hóa tinh
thần của cha ông để lại và biến chúng trở thành bất tử. Những tiến sĩ
ấy là sản phẩm của một thời thịnh trị và phát triển đến đỉnh cao của
nền văn hóa, giáo dục dân tộc.

Tuy nhiên, do hạn chế tất yếu của thời đại phong kiến mà nền giáo
dục, khoa bảng của triều Lê sơ cũng chỉ phát huy được trong một
chừng mực nhất định, bởi vì nó chỉ được phát triển tập trung ở đô thị,
hướng vào đào tạo con quan, nhà giàu là chủ yếu. Trong nền giáo dục
phong kiến đó, luôn luôn có sự phân biệt đẳng cấp, cấm phụ nữ và
con cháu những người làm nghề cầm ca được tham gia; nội dung đào
tạo chủ yếu nhằm vào thi, thư, Bắc sử, chú trọng nhiều đến dạy đạo
lý mà chưa quan tâm đúng mức đến truyền đạt kiến thức khoa học.
Cách truyền đạt cổ điển, thiếu tính sáng tạo, chủ yếu dùng cách đối
thoại, lục vấn, hoài nghi, trọng từ chương, học thuộc lòng, khuôn sáo,
ưa hư văn. Có những giai đoạn bị lũng đoạn, tiêu cực trong giáo dục
thi cử. Số tiến sĩ đỗ đạt thấp (khoảng 1%), số còn lại không được
trọng dụng, chủ yếu làm nghề dạy học ở các hương thôn, làng xã và
nhiều nhà nho nghèo mang trong lòng tâm trạng bất mãn với triều
đình. Chính những nhà nho nghèo đó sẽ là một lực lượng đáng kể
trong các cuộc đấu tranh với triều đình phong kiến sau này.

Sau thời Lê sơ, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào thời kỳ suy

thoái, các thế lực phong kiến (Mạc, Lê, Trịnh, Nguyễn) tranh giành
nhau quyền bính, đưa đất nước vào cảnh nội chiến tương tàn, nền
giáo dục khoa cử thời hậu Lê diễn tiến theo một chiều hướng đa dạng
và phức tạp hơn.

×