Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Sông Hồng với lịch sử tiến hóa người Việt docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.1 KB, 6 trang )

Sông Hồng với lịch sử
tiến hóa người Việt








Không biết bao giờ ta đủ tài, đủ sức dựng một bộ phim lịch sử
đánh giặc phương Bắc để có thể tái hiện được quang cảnh ngày
9/10/1284 cả 13 trại, 61 phường dân Thăng Long và đất các vùng lân
cận đổ ra xem cuộc đại duyệt quân thủy và quân bộ ở Đông Bộ Đầu
trước khi ra trận với hai chữ “Sát Thát” trên tay, để tạc vào lịch sử
những trận đánh thắng giặc ở Chương Dương, Vạn Kiếp, Hàm Tử còn
lưu lại muôn đời trong câu thơ bất hủ:

Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù…

và thành địa danh trên bến Sông Hồng, Hà Nội hôm nay.
Đông Bộ Đầu là chiến trường chống quân Nguyên tấn công Kinh thành
của quân dân ta đời nhà Trần. Nó ở vào quãng từ Bãi Phúc Xá xuống
đến trước Cảng Phà Đen bây giờ. Trên đó có một đồn thủy quân, một
vị trí quân sự rất quan trọng, chỗ Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
ngày nay. Trước 1954, nó cũng vẫn là bệnh viện, bà con ta gọi là
Bệnh viện Đồn Thủy là vì thế. Rồi hai lần thắng quân Mông - Nguyên
trên Sông Bạch Đằng.

“Người ta không thể nào tắm hai lần trên một dòng sông”. Với ý nghĩa


triết học của sự vận động thì điều ấy là tuyệt đối. Nhưng bảo “lịch sử
không bao giờ lặp lại” thì… Cũng vẫn giặc ngoại xâm phương Bắc.
Cũng vẫn theo đường biển kéo vào. Cũng vẫn bị ta phục kích ở cửa
Sông Rút, Sông Chanh - hai nhánh của Sông Bạch Đằng. Cũng vẫn bị
thua bởi một cách đánh. Cũng vẫn chừng chiếc cọc lim ấy chọc thủng
thuyền giặc…: bạn hãy đến Bạch Đằng Giang để ngẫm nghĩ về lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc và nhớ tới hai câu thơ của Trương
Hán Siêu trong bài Phú Bạch Đằng:

Đỏ rực ráng chiều in đáy nước
Ngỡ rằng máu giặc vẫn còn đây.

Năm 1786, Nguyễn Huệ dẫn thủy quân ra Bắc, ngược Sông Hồng phá
đoàn thuyền chiến của Chúa Trịnh ở Bến Thúy ái. Cũng Nguyễn Huệ -
Quang Trung đã hành quân thần tốc ra Thăng Long phá tan hai mươi
vạn quân Thanh của tướng giặc Tôn Sỹ Nghị. Quân tướng giặc chạy
qua cầu phao Bắc ở Bến Tây Long (chỗ Đầm Trấu, ngoài Nhà máy xay
Lương Yên bây giờ). Cầu vỡ, đứt, quân sỹ chen lấn nhau rơi xuống
sông, không đếm xuể. Lại cái lần ta đánh tan hai mươi vạn quân
Thanh khiến chúng phải tranh nhau qua cầu phao trên Sông Hồng, rơi
xuống sông chết nhiều như sung rụng mặt ao.

Thế đấy! Không một chiến thắng nào của dân tộc ở phía Bắc mà Sông
Hồng (và các chi lưu của nó) không tham chiến, không góp công vào
thắng lợi.

Sông Hồng chính là lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân, của
Hà Nội.

Thêu sắc đỏ trên áo dài Hà Nội


Khi Hà Nội trở thành Kinh đô, thì ngoài vị trí là gương mặt, là đầu não
điều khiển toàn bộ hoạt động của đất nước, nó còn là trung tâm chính
trị, văn hóa, kinh tế. Nhưng trước hết là của tam giác châu thổ Sông
Hồng mà sự thông thương giữa Hà Nội - “thứ nhất Kinh kỳ” với “thứ
nhì Phố Hiến” (Hưng Yên) nhờ Sông Hồng để từ đó tỏa ra xung quanh
trở nên vô cùng nhộn nhịp, ấy là cảnh dòng sông trên bến dưới
thuyền, san sát tàu thuyền ra vào bốc dỡ hàng hóa.

Thời phồn thịnh Thế kỷ XVII khi ta mở cửa giao lưu thương mại với
các nước thì Hà Nội trở thành trung tâm sản xuất, đầu mối trung
chuyển.

Và hôm nay, trong sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, Hà Nội
được xác định là đỉnh của tam giác kinh tế mà hai góc đáy là Quảng
Ninh và Hải Phòng. Đường Quốc lộ số 5 đã được nâng cấp. Việc nâng
cấp Đường 18 đã hoàn thành. Cầu Bính, cầu dây văng Bãi Cháy đã đi
vào sử dụng. Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng vẫn đảm bảo tối đa năng
lực vận chuyển. Nhưng vận tải đường thủy trên Sông Hồng từ các nơi
về Hà Nội và từ Hà Nội đi các nơi vẫn có một vị trí quan trọng, nhất là
với tuyến Hà Nội đi Sơn La (phải bốc dỡ hàng qua đập của Nhà máy
Thủy điện Hòa Bình), đi Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai. Nhưng điều
quan trọng hơn cả là: hệ thống Sông Hồng (và Sông Thái Bình) vẫn
tiếp tục là nguồn thủy lợi cho nền nông nghiệp và cuộc sống của 11
tỉnh thuộc châu thổ Sông Hồng.

Hàng ngàn năm nay, Sông Hồng đã chảy thành một phần rất trọng
yếu của lịch sử nước Việt, trong đó có một ngàn năm chảy thành lịch
sử Hà Nội.


Nó trở thành một phần xương thịt của những miền đất nó đi qua, của
bao thế hệ, của mỗi con người từng gắn bó máu thịt với nó.

Mỗi người lại có một Sông Hồng của riêng mình. Bao nhiêu người Hà
Nội đi kháng chiến đã sống với Sông Hồng cùng Nguyễn Đình Thi mỗi
khi ngân nga “Hồng Hà ơi, ta nhớ mùa Thu xưa, nước về như sóng cờ
lên khi quân về Thủ đô…”. Sông Hồng trong Du kích Sông Thao là bản
tráng ca bằng ngôn ngữ âm thanh đẹp nhất của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Và cuối năm 1954, bao nhiêu người từ trong những khu
rừng Việt Bắc âm u cũng náo nức hồi cư về Hà Nội với lời mời rủ của
Tố Hữu:

Sông Thao náo nức sóng dồi.
Ai về Hà Nội thì xuôi cùng thuyền!.

Theo thư tịch cổ Trung Quốc thì khoảng trước Thế kỷ VI, người Trung
Hoa gọi con sông này là Diệp Du. Còn bây giờ, Trung Quốc gọi phần
thượng lưu Sông Hồng từ nơi phát tích là Nguyên Giang hay Mã Long
Giang. Gần đến vùng biên giới Việt Trung lại gọi là Liên Hoa hay Lê
Hoa.

Vào đất Việt, mỗi vùng quê lại có Sông Hồng của mình. Từ Lào Cai
đến Việt Trì con Sông như dải lụa đào uốn lượn giữa hai bên bờ rừng
cọ đồi chè nên người Phú Thọ gọi nó là Sông Thao (lụa). Thao còn là
một từ tố trong Lâm Thao, tên một huyện của Phú Thọ mà dòng sông
chảy qua. Từ Việt Trì về đến Hà Nội là Sông Bạch Hạc.

Bây giờ vẫn còn nhiều cụ già gọi sông này là Sông Cái, nghĩa là Sông
Mẹ. Mẹ của trăm ngàn con sông khác. Đấy là cái tên có từ xa xưa mà
người Việt cổ đã gọi, có lẽ theo nếp nghĩ của chế độ mẫu hệ.


Người Pháp thì rất lãng mạn và có lý khi nhìn dòng nước phù sa hồng
hào máu thịt mà gọi nó là Sông Hồng, cái tên được gọi chính thức cho
đến ngày nay. Sông Hồng cong mình ôm lấy Thăng Long để từ thời
Minh Mạng mới gọi đất này là Hà Nội (trong sông)./.

×