Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nguyễn Trãi - nhân tài kiệt xuất của Việt Nam - Những thăng trầm trong cuộc đời_2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.75 KB, 6 trang )

Nguyễn Trãi - nhân tài kiệt
xuất của Việt Nam - Những
thăng trầm trong cuộc đời






Cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, hiệu Nhị Khê, nhà thơ xuất
sắc cuối Trần đầu Hồ, đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới triều Trần, ra làm
quan dưới triều Hồ và đổi tên là Nguyễn Phi Khanh

Mẹ của Nguyễn Trãi là Trần Thị Thái, con của Trần Nguyên Đán và là
một học trò của Nguyễn Ứng Long.

Ông ngoại của Nguyễn Trãi là Trần Nguyên Đán, hiệu Băng Hồ, dòng
dõi tôn thất, nhà thơ và nhà chính trị nổi tiếng, làm tới chức Tư đồ (tể
tướng) cuối đời Trần.

Nguyễn Trãi đã sống qua tuổi thơ trong gia đình ông ngoại. Năm
1385, Trần Nguyên Đán về nghỉ hưu ở Côn Sơn, đem cả con gái và
cháu ngoại về theo. Được ít lâu, Trần Thị Thái qua đời, khi đó bà chưa
đầy 40 tuổi và Nguyễn Trãi lúc đó mới lên 5. Rồi đến năm 1390, Trần
Nguyên Đán cũng mất, Nguyễn Trãi phải trở lại nơi quê hương nghèo
khó là làng Nhị Khê để sống cùng cha.

Từ nhỏ được nuôi dạy trong nhà ông ngoại, lớn lên lại được theo học
với cha, cả cha và ông ngoại đều là những nhà nho uyên bác, Nguyễn
Trãi hồi trẻ đã nổi tiếng học giỏi.


Nguyễn Trãi ra đời và lớn lên giữa lúc đất nước rối ren về chính trị và
xã hội. Nhà Trần trong thời kỳ suy thoái, ngày một mục nát. Nhân
dân điêu đứng, lầm than. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nô tỳ và nông
dân nghèo nổ ra liên tiếp. Nhân hoàn cảnh đó, năm 1400 Hồ Quý Ly
cướp ngôi vua, lật đổ nhà Trần và lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại
Ngu. Lúc này Nguyễn Trãi đã 20 tuổi, ông thi đỗ thái học sinh, khoa
thi đầu tiên dưới triều Hồ. Năm 1401 ông được bổ dụng chức Ngự sử
đài chánh chưởng. Cùng năm này, Nguyễn Phi Khanh cha ông cũng ra
làm quan, nhận chức Hàn lâm học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám.

Nhà Hồ cầm quyền chưa được bao lâu đã phải đương đầu với họa xâm
lăng của phong kiến phương Bắc. Tháng 11 năm 1406, đội quân xâm
lược của nhà Minh ồ ạt kéo vào. Mặc dù đã có sự chuẩn bị đối phó và
không phải không có ý chí chống giặc, song nhà Hồ không chiếm được
lòng dân, không huy động được sức mạnh toàn dân chống giặc nên
chỉ sau nửa năm, cuộc kháng chiến nhà Hồ đã bị thất bại. Cha con Hồ
Quý Ly cùng nhiều quan chức trong triều bị sa vào tay giặc. Nguyễn
Phi Khanh cũng bị giặc bắt và đày đi Trung Quốc.

Theo bước chân tù đày của cha đến ải Nam Quan, Nguyễn Trãi muốn
đi tiếp để phụng dưỡng cha dọc đường, nhưng người cha khuyên con
hãy quay về “tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế
mới là đại hiếu”. Không may trên đường về, Nguyễn Trãi lại bị giặc
bắt và bị giam lỏng tại thành Đông Quan. Tại đây ông phải tạm thời
im hơi lặng tiếng để che mắt địch, tuy nhiên vẫn chăm chú theo dõi
thời cục, nát óc suy tính kế hoạch cứu dân, cứu nước.

Sau khi tìm cách ra khỏi Đông Quan, ông đã trải qua nhiều năm phiêu
bạt, qua rất nhiều vùng đất quê hương đã trở nên tiêu điều xơ xác
trong hoàn cảnh nước mất nhà tan. Ông thấu hiểu những nỗi cơ cực

khốn cùng của nhân dân, chứng kiến những tội ác tầy trời của lũ giặc
xâm lăng. Cuối cùng, vượt qua bao nhiêu gian nan vất vả, ông tìm
đến được Lam Sơn, kịp có mặt tại hội thề Lũng Nhai do Lê Lợi tổ chức
vào năm 1416 để chuẩn bị khởi nghĩa.

Sự nghiệp vinh quang bắt đầu từ đây để đưa ông lên đỉnh cao của thời
đại, ông dâng lên Lê Lợi tập Bình Ngô sách trong đó vạch rõ những
đường lối, phương châm cơ bản của cuộc chiến tranh chính nghĩa
giành độc lập. Ông trở thành nhà tham mưu chiến lược đầy tài năng,
giàu nhiệt huyết, giúp Lê Lợi trù tính mọi việc, cùng Lê Lợi và tướng
lĩnh nghĩa quân Lam Sơn đưa cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải
phóng phát triển ngày càng mạnh mẽ, vững chắc.

Tư tưởng chi phối toàn bộ hoạt động của Nguyễn Trãi là tư tưởng
nhân nghĩa. Nguyễn Trãi nói: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa
làm đầu”, mà theo Nguyễn Trãi thì yêu cầu đầu tiên của nhân nghĩa là
yêu dân, thương dân và giúp dân trừ bạo.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Và con đường đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi, chính
là con đường:

Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Nguyễn Trãi có ý thức rất sâu sắc về sức mạnh to lớn và vai trò quyết
định của nhân dân trong lịch sử. Sức mạnh của nhân dân như sức
mạnh của nước. Nước có thể đẩy thuyền đi, nhưng cũng có thể lật đổ

thuyền. Con đường cứu nhân dân chính là con đường nhân dân tự cứu
mình, bằng chính sức mạnh của mình. Bởi vậy Lê Lợi và Nguyễn Trãi
luôn luôn nhất quán chủ trương dựa vào dân để đánh giặc.

Giương cao ngọn cờ nhân nghĩa và chiến tranh chính nghĩa, Lê Lợi và
Nguyễn Trãi đã tập hợp được đông đảo quần chúng lao khổ trong toàn
quốc quy tụ lại, gắn bó mật thiết với nhau để cùng giết giặc, cứu
nước.

Dựng gậy làm cờ, tụ hợp bốn phương manh lệ,
Rượu hoà nước lã, dưới trên một dạ cha con.

Chính vì vậy mà suốt quá trình kháng chiến, lực lượng nghĩa quân
phát triển không ngừng. Quân tiến tới đâu, dân chúng nô nức đứng
lên hưởng ứng tới đấy. Quân dân đoàn kết. Trên dưới một lòng. Càng
đánh càng thắng.

Luôn đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu, Nguyễn Trãi từng tham gia
trực tiếp chỉ đạo nghĩa quân phá trận, diệt viện, vây thành. Đặc biệt
trên mặt trận đấu tranh chính trị - ngoại giao - địch vận mà ông đặc
trách, ông đề ra và trực tiếp thực hiện kế hoạch “tâm công” một cách
sáng tạo, linh hoạt và rất hiệu nghiệm. “Mưu đánh vào lòng, không
chiến mà thắng”, ông thay Lê Lợi viết nhiều thư từ gửi bọn chỉ huy
quân Minh, nhằm những đối tượng cụ thể và thời điểm cụ thể mà có
đối sách khác nhau. Ông nêu cao chính nghĩa tất thắng của quân dân
ta, phân tích bản chất phi nghĩa và nguy cơ bại vong của quân giặc,
vạch mặt gian tham, tàn bạo, ngoan cố của chúng, đồng thời chỉ
đường sống, mở lối thoát cho chúng. Nhiều bức thư này được các học
giả đời sau gom lại dưới cái tên Quân trung từ mệnh tập, một tập thư
luận chiến sắc sảo mà có người cho là “có sức mạnh của 10 vạn quân”

(Phan Huy Chú, trong Lịch triều hiến chương loại chí).
Nguyễn Trãi còn đích thân đi dụ hàng một số thành. Ông thuyết phục
được nhiều tướng giặc ra hàng, trong đó có Thái Phúc, Đô đốc trấn
thủ thành Nghệ An, về sau đã giúp nghĩa quân trong việc binh vận.
Có lần Nguyễn Trãi đã cùng Thái Phúc đứng dưới chân thành bắc loa
kêu gọi bọn chỉ huy ngoan cố ở thành Xương Giang. Khi quân ta, với
lực lượng áp đảo, vây hãm thành Đông Quan, sào huyệt lớn của giặc,
thì Nguyễn Trãi đã 5 lần đến thương thuyết với Tổng binh Vương
Thông, dụ hắn ra hàng. Kết quả là vào ngày 10-12-1427, tại hội thề
Đông Quan, Vương Thông với 10 vạn bại quân phải làm lễ cúi đầu
nhận tội, xin được khoan hồng và xin thề trước sông núi nước Nam là
không chỉ rút nhanh, rút hết mà còn thề sẽ không bao giờ quay trở
lại.

×