Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sự tương tác giữa mã của người gửi và mã của người nhận trong tiếp nhận văn học_2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.59 KB, 7 trang )

Sự tương tác giữa mã của
người gửi và mã của người
nhận trong tiếp nhận văn học





Có thể nói, cuộc cách mạng trên lĩnh vực lý luận phê bình văn học diễn ra ở phương
Tây, kéo dài gần suốt thế kỉ XX,thực chất là tiến trình chuyển dịch trung tâm chú ý từ tác
giả sang văn bản đến người đọc. Trong quá trình đó, tư duy lý luận văn học đã soi sáng bản
chất của tác phẩm từ nhiều góc nhìn khác nhau, qua đó, ngày càng tiếp cận sâu hơn vào bản
chất của nó. Trên nền tảng những thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học hiện đại và các
khoa học lân cận như cấu trúc - kí hiệu học, lý thuyết thông tin, triết học Hiện tượng luận ,
lý luận văn học từ hiện đại đến hậu hiện đại đã phát hiện ra bản chất đối thoại của tác phẩm
văn học, từ đó khai mở một hướng tiếp cận mới để khám phá bản chất và phương thức tồn
tại của tác phẩm văn họctrong mối quan hệ với người đọc, với hoạt động tiếp nhận.
Từ góc nhìn của lý thuyết thông tin, có thể thấy, bản chất của văn bản văn học là một
hệ thống kí hiệu; bởi vậy, để có tác phẩm văn học, không chỉ cần đến văn bản với đầy đủ
các đặc trưng văn học mà còn phụ thuộc vào người đọc - người giải mã kí hiệu văn bản
nữa. Việc nghiên cứu bản chất của tác phẩm trong mối quan hệ với người đọc cũng như sự
tương tác giữa lập mãvà giải mã sẽ làm sáng tỏ thêm những vấn đề quan trọng trong bản
chất và phương thức tồn tại của tác phẩm mà lý luận từ phía sáng tác không giải thích được,
giúp soi sáng những yếu tố gây nên tính khả biến của tác phẩm trong tiếp nhận văn học.
Trong giới hạn của bài biết này, chúng tôi sẽ nghiên cứu bản chất của tiếp nhận văn
học trong mối quan hệ tương tác, đối thoại giữa mã của người gửi với mã của người nhận.
Trong sự tương tác này, văn bản là sự mã hoá thông tin thẩm mỹ của nhà văn; đến lượt
mình, người đọc thực hiện một qui trình ngược lại: giải mã văn bản để tiếp nhận thông điệp
thẩm mỹ.
Theo lẽ thông thường, sự hiểu nhau là mục đích cuối cùng và là cứu cánh của mọi
hình thức thông tin - giao tiếp. Theo đó, một hành vi giao tiếp chỉ có thể đạt được hiệu quả


tối ưu khi thông tin thu được từ người nhận trùng khớp với thông tin phát đi từ người
gửi. Bởi vậy, trong các hành vi thông tin - giao tiếp thông thường, người gửi tin và người
nhận tin phải cùng chung một bộ mã, tức sự giao tiếp chỉ có thể diễn ra khi người phát tin
và người nhận tin cùng ở trong một “kênh” giao tiếp, trong một hoàn cảnh cụ thể, với một
“vốn chung” về lịch sử, xã hội… Trái lại, khám phá tính chất kí hiệu của văn bản văn học,
các nhà kí hiệu học đều không phủ nhận rằng, “trong quá trình truyền thông tin, trên thực tế
không phải là một, mà là hai bộ mã được sử dụng: một bộ là để mã hoá, và bộ kia - để giải
mã thông báo”
(1)
. Bởi vậy, nghiên cứu sự tương tác giữa mã của người gửi với mã của
người nhận, cũng như tính chất và mức độ tương thích giữa hai bộ mã này sẽ giúp soi sáng
bản chất và phương thức tồn tại của tác phẩm văn học trong tiếp nhận.
Một khi người gửi và người nhận không cùng chung một bộ mã thì các tình huống
sau đây có thể xẩy ra:
1. Trường hợp không có sự tương thích giữa mã của người gửi với mã của người
nhận.
Đó là khi hai bộ mã bị “lệch pha”, tức không cùng một “kênh” giao tiếp. Thực tế cho
thấy, tình huống này dù không tất yếu và phổ biến, nhưng cũng không hiếm khi đã từng xẩy
ra trong tiếp nhận văn học, mà nguyên nhân có thể do từ cả hai phía, người giải mã, hoặc
người lập mã.
a) Khi người giải mã dùng một bộ mã khác lạ, ngoài dự kiến của người lập mã để
giải mã văn bản, khi đó ý nghĩa mà người đọc phát hiện ra sẽ đối lập với nghĩa chủ ý của
tác giả. Lý thuyết tiếp nhận gọi đó là hiện tượng “phản tiếp nhận”. Theo nhà nghiên cứu
Trần Đình Sử, đặc trưng của “phản tiếp nhận” là “tìm thấy tư tưởng của tác phẩm ngược
chiều với khuynh hướng tư tưởng của tác giả, cắt nghĩa ngược lại với khuynh hướng tác
giả”. Ví dụ: nhà văn Lỗ Tấn khi tiếp nhận tác phẩm Nhị thập tứ hiếu đã nhận ra tính chất
phản nhân văn ngay trong một tác phẩm mà mục đích của người viết là giáo dục đạo hiếu
đối với cha mẹ theo lối phong kiến
(2)
. Trong lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều, hiện tượng phản

tiếp nhận cũng từng diễn ra ở thời phong kiến, khi xu thế tiếp nhận phổ biến đều ca ngợi
trinh tiết, phẩm hạnh và tấm lòng hiếu nghĩa của Kiều thì Nguyễn Công Trứ lại mạt sát, kết
tội Kiều là kẻ mượn danh chữ hiếu để làm điều tà dâm. Cách hiểu này hiển nhiên là nằm
ngoài mong muốn của Nguyễn Du, khi có nhiều bằng chứng cho thấy ông đã dành những
tình cảm trân trọng cho nàng Kiều.
Như vậy, phản tiếp nhận không chỉ là hiện tượng tiếp nhận ngược lại với chủ ý của
tác giả, mà còn là sự tiếp nhận đi ngược lại với sự cắt nghĩa đã trở thành truyền thống phổ
biến ở những người đi trước. Trong đời sống văn học của chúng ta những năm gần đây,
hiện tượng này cũng xẩy ra ngay với những tác phẩm quen thuộc được giảng dạy trong nhà
trường. Nhà nghiên cứu Phan Trọng Luận cho biết, có giáo viên kể rằng, khi học về tác
phẩm Tắt đèn, có học sinh đánh giá chị Dậu thấp hơn cô Kiều về mặt đạo đức, vì cô Kiều là
cô gái còn trinh tiết mà dám bán mình chuộc cha, trong khi chị Dậu vì quá câu nệ về thân
xác mà không dám hy sinh vì chồng con. Tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao cũng được hiểu
với nhiều khía cạnh khác lạ so với cách hiểuđã từng phổ biến và quen thuộc. Nếu trước đây,
Hoàng được coi là nhân vật phản diện, một trí thức chợ đen sống ích kỷ, hưởng lạc, xa rời
cách mạng, thì giờ đây có ý kiến lại chiêu tuyết cho Hoàng với lập luận rằng: “Có tường
hoa, có chó dữ, có nhà riêng, có vợ đẹp con ngoan với nếp sống sang trọng nhiều hương vị,
nhiều thú vui thì có gì đáng trách?”. Thậm chí, có người còn triết lý táo bạo hơn về lý
tưởng: “Hoàng không thích cách mạng, không thích đi với cộng sản nên không chịu hợp tác
và tự sống tách biệt theo lý tưởng sống của anh ta thì sao nhỉ? Vẫn có thể là một người
lương thiện, một người dân bình thường, ta quá thiên vị về ý thức hệ trong việc đánh giá”.
Có em học sinh còn nhận xét rằng Hoàng nhìn người nông dân có phần đúng; hoặc phát
biểu rằng “thích cả Hoàng lẫn Độ”
(3)
.
Những cách cảm nhận, đánh giá khác lạ về những tác phẩm quen thuộc trên đây đã
cho thấy, các tác phẩm này đã được nhìn nhận, đánh giá lại bằng một bảng giá trị văn hóa,
đạo đức, thẩm mỹ khác với những tiêu chí, chuẩn mực đã trở thành quen thuộc một thời.
Lý giải nguyên nhân của hiện tượng phản tiếp nhận, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử
cho rằng đây là một hiện tượng văn hóa, “thường xẩy ra khi thời đại có bước ngoặt lịch sử

hoặc do giao lưu, tiếp xúc với một nền văn hóa khác”. Đó là “một cách tiếp nhận tác phẩm
dưới một hệ hình mới, một hiện tượng hợp qui luật của những thời đang biến đổi”
(4)
. Như
vậy, có thể thấy,những hiện tượng tiếp nhận đi ngược lại với truyền thống trên đây có
nguyên nhân từ phía người đọc, dưới tác động của những thay đổi có tính bước ngoặt trong
đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng, khi xã hội có sự thay đổi từ trong nền tảng tư
duy, khi những giá trị cá nhân được ý thức, khi tinh thần cởi mở, dân chủ được đề cao, khi
sự giao lưu văn hóa được mở rộng.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, cùng với nguyên nhân từ phía người đọc, do tác động của
những yếu tố xã hội, cũng không thể bỏ qua một nguyên nhân nội tại vốn đã tiềm
ẩn trong văn bản. Đó là do văn bản được cấu trúc như một “đề án tiếp nhận”, chứa đựng
tiềm năng để có thể giải mã theo nhiều cách khác nhau, nên khi thực hiện sự tương tác với
người đọc có thể khiến cho ý nghĩa của nó đi ngược lại với sự chủ ý của nhà văn. Như
vậy, phản tiếp nhận cũng là một kiểu tiếp nhận, miễn là không tuỳ tiện, không thoát li các kí
hiệu hình tượng của văn bản. Hiện tượng phản tiếp nhận, do đó, cũng là kết quả của sự
tương tác giữa văn bản với người đọc, khi bộ mã của người nhận có sự thay đổi ngoài dự
kiến của người gửi.
b) Khi người lập mã dùng một bộ mã khác lạ để mã hóa thông tin nghệ thuật, khi đó
văn bản sẽ “thách đố” với bộ mã tiếp nhận quen thuộc của người đọc. Điều này đã được
chứng nghiệm trong lịch sử phát triển của văn học nhân loại, khi xuất hiện những trào lưu
mới với những cách tân nghệ thuật có tính bước ngoặt, làm thay đổi những giá trị đã định
hình của truyền thống, trong khi người đọc với bộ mã tiếp nhận quen thuộc lại chưa thể
thích nghi. Chẳng hạn, cuối thế kỉ XVIII, sự ra đời của trào lưu văn học lãng mạn ở Pháp đã
bị chối từ bởi một công chúng đang có sẵn bộ mã tiếp nhận văn chương cổ điển, khi họ vẫn
đang đánh giá thơ ca bằng các tiêu chuẩn thi pháp mang tính qui phạm mẫu mực của
Chapelain và Boileau. Vào cuối thế kỉXIX, một cuộc “đụng độ” tương tự cũng diễn ra giữa
Baudelaire, Mallarmé và các nhà thơ của Chủ nghĩa tượng trưng với một công chúng văn
học đang quen với khẩu vị của Chủ nghĩa tự nhiên. Và gần đây nhất, vào nửa sau của thế
kỉ XX, độc giả củaChủ nghĩa hiện thực lại bị “sốc” trước một khẩu vị thẩm mỹ hoàn toàn

mới lạ, buộc họ phải thay đổi, điều chỉnh cái “phông” tri thức thẩm mỹ của mình cho thích
hợp để có thể thâm nhập vào cái “mê hồn trận” của Chủ nghĩa hậu hiện đại. Ly khai triệt để
với truyền thống tôn ti, trật tự khép kín và ổn định của Chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX, chối
từ vai trò là “người thư kí trung thành” của thời đại, đoạn tuyệt với tôn chỉ phản ánh cuộc
sống một cách chân thực “với toàn bộ các hình thức của đối tượng”, nhà vănhậu hiện đại đã
không mời mọc người đọc một món ăn đã được dọn sẵn, mà chỉ cung cấp những nguyên
liệu còn thô mộc,“sống sít”, có vẻ như chưa từng được “sơ chế”, để buộc người đọc tự chế
biến lấy theo khẩu vị của mình. Sự cách tân toàn diện và triệt để về thi pháp sáng tạo của
văn chương hậu hiện đại thực sự là một thách đố to lớn đối với kinh nghiệm thẩm mỹ của
đại đa số công chúng vốn đã quá quen với bộ mã của văn chương hiện thực chủ nghĩa.
Hiện nay, khi trên thế giới, người đọc đã thích nghi với khẩu vị nghệ thuật của Chủ
nghĩa hậu hiện đại, thì phần đông công chúng bạn đọc Việt Nam vẫn chưa hết “dị ứng” với
món ăn tinh thần mới mẻ này. Những tác phẩm mang hơi hướng của Chủ nghĩa hậu hiện
đại xuất hiện trên văn đàn Việt Nam vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX, khởi đầu từ các
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu (Bức tranh; Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành; Bến quê; Phiên chợ Giát,…) với các nhân vật được coi là “lạ lẫm”, “dị biệt”, “khó
hiểu”, không giống với đời thường đã khiến cho nhiều nhà văn và nhà phê bình - những độc
giả bậc cao cũng “không biết ông nói cái gì”. Sau đó là sự xuất hiện của Phạm Thị Hoài, và
đặc biệt là Nguyễn Huy Thiệp với hàng loạt truyện ngắn như Không có vua; Kiếm sắc;
Vàng lửa; Phẩm tiết; Con gái Thủy thần; Cún,… Mỗi tác phẩm của ông là một sự kiện làm
xôn xao dư luận công chúng người đọc, thậm chí gây tranh luận gay gắt trong giới chuyên
môn, khi họ nhìn thấy trong đó những chi tiết “tự nhiên chủ nghĩa”, “xuyên tạc lịch sử”, “hạ
bệ thần tượng”… Đến nhà phê bình lão luyện như Nguyễn Đăng Mạnh còn cảm thấy bất
lực khi thừa nhận: “Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp lắm lúc cảm thấy thật sự hoang mang.
Vì chẳng hiểu anh định nói gì - đúng là chủ đề không rõ ràng. Nhiều truyện của Nguyễn
Huy Thiệp, thật tình không biết giảng giải thế nào”
(5)
. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn
cũng cảm thấy căng thẳng vì “đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cũng giống như
cuộc vật lộn với chính bản thân mình. Rất khó tìm thấy nơi để tâm hồn có thể nghỉ ngơi

trong những trang viết của ông”
(6)
. Những tranh luận, “hoang mang” hay “căng thẳng”
chung qui chỉ là do sự không tương thích giữa mã của người gửi với mã của người nhận.
Nếu không nắm được nguyên tắc chung của bộ mã hậu hiện đại, không nắm được “luật
chơi” (những nguyên tắc mỹ học) của nó, không có trong tay “chìa khoá” để giải mã nó, thì
đối diện với chúng ta, văn bản hậu hiện đại chỉ là một thế giới đóng kín, bí ẩn, vô nghĩa,
chẳng hơn gì một thứ “văn bia bằng ngôn ngữ khác”, khiến chúng ta, hoặc là đành bất lực
trong hành động “kính nhi viễn chi”, hoặc là hờ hững quay đi.
Trong tình huống khi văn bản “thách đố” với bộ mã tiếp nhận quen thuộc của người
đọc, để sự giao lưu thông điệp được diễn ra, đòi hỏi người đọc phải thay đổi bộ mã, tức phải
điều chỉnh tầm đón nhận cho tương thích với khẩu vị thẩm mỹ mới. Tuy nhiên, do được
xây đắp bởi một nền tảng tinh thần tương đối ổn định nên việc “cơ cấu” lại bộ mã tiếp nhận
(tầm đón nhận) của một công chúng văn học là điều không thể thực hiện trong ngày một
ngày hai, mà là cả một quá trình đòi hỏi ở người đọc sự nỗ lực để tự vượt mình. Quá trình
đó, theo các nhà xã hội học văn học, cần một khoảng thời gian từ 25 đến 30 năm, tính từ
thời điểm xuất hiện một sự cách tân nghệ thuật đến khi nó “đào luyện” được một công
chúng người đọc có tầm đón nhận tương thích. Lịch sử nghệ thuật nhân loại đã minh chứng
điều này, khi có không ít những tác phẩm lúc mới ra đời từng bị người đọc ghẻ lạnh, từng
phải chịu một số phận hẩm hiu, nhưng sau đó một thời gian, công chúng đã không còn thờ
ơ với nó khi họ đã xác lập được một tầm đón nhận tương thích, khi họ đã tìm được “chìa
khóa” để có thể mở cánh cửa đi vào tác phẩm. Đó là trường hợp cuốn tiểu thuyết Bà
Bovary của G. Flaubert khi mới xuất hiện đã bị công chúng tẩy chay, nhưng rồi sau đó, khi
hình thức kể chuyện mới được chấp nhận, tác phẩm văn học này đã trở nên nổi tiếng thế
giới. Trào lưu Thơ mới xuất hiện trên văn đàn Việt Nam vào đầu những năm 30 của thế kỉ
trước cũng là một sự “tuyên chiến” với tầm đón nhận truyền thống vốn được xác lập bởi
nền thơ ca cổ điển dân tộc đã từng tồn tại nhiều trăm năm. Chỉ từ khi hai nhà phê bình Hoài
Thanh và Hoài Chân mở ra “một thời đại mới trong thi ca”, qua đó định hướng, khơi mở
cho người đọc về một tầm đón nhận mới - tầm đón nhận của văn chương hiện đại, thì vị thế
của Thơ mới cũng từ đó bắt đầu được khẳng định.


×