Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ và kết quả phẫu thuật nội soi tăng sản lành tính tuyến tiền liệt được điều tra tại thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 191 trang )



1

Đặt vấn đề

Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (TSLT/TTL) là bệnh thường gặp ở
người đàn ông cao tuổi, tỷ lệ mắc tăng dần theo lứa tuổi, và được coi là bệnh
tiến triển chậm [42].

Tỷ lệ mắc TSLT/TTL có xu hướng ngày một gia tăng trên toàn thế
giới. Bệnh đang trở thành gánh nặng cho cá nhân và cho toàn xã hội [129].
Hiện nay số người mắc đứng sau bệnh lý mạch vành, tăng mỡ máu, tăng
huyết áp, và tiểu đường [63], [110]. Hằng năm tại Mỹ có khoảng 1.200.000
người mắc trong đó có khoảng 400.000 người cần phải can thiệp; tại Pháp có
khoảng 1.400.000 người mắc trong đó có khoảng 80.000 người cần phải can
thiệp. Tại Việt Nam, tại các khoa Tiết niệu của các Bệnh viện, sè bệnh nhân
đến khám về TSLT/TTL đã ngang số người đến khám về các bệnh khác của
tiết niệu và số bệnh nhân cần phải can thiệp phẫu thuật đứng vị trí thứ hai sau
các phẫu thuật về sỏi tiết niệu.

Chi phí điều trị đối với bệnh lý này cũng là vấn đề đang được xã hội
quan tâm. Tại Brazin, năm 2003, ước tính chi phí điều trị bệnh lý này khoảng
2,26-3,83 tỷ đô la [79]. Tại Hoa Kỳ năm 2000, ước tính chi phí điều trị bệnh
lý này khoảng 1,1 tỷ đô la, chưa bao gồm các trường hợp điều trị ngoại trú
bằng thuốc, trung bình mỗi một người dân mất 7,3 giê / năm cho việc khám
và điều trị. Đánh giá kinh tế của bệnh lý này được phân tích dùa vào 3 lĩnh
vực: trực tiếp liên quan đến chi phí Ytế cho điều trị; chi phí do phải nghỉ việc,
công việc bị hạn chế; những chi phí không thể tính được đó là những khó chịu
do bệnh gây ra mà người bệnh phải gánh chịu [89].




2
Theo GS Nguyễn Bửu Triều: TSLT/TTL đã được biết đến từ thời
Hipocrate, được mô tả chính xác nhờ Morgani (1760), nhưng chưa bao giê
được quan tâm nh- hiện nay trong các hội nghị khoa học còng nh- trong đời
sống xã hội của người dân [30].

Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu dịch tễ học và
điều trị bệnh lý này, có những công trình kéo dài tới 20 năm. Theo Ricardo, từ
1/2000 đến 5/2007 đã có 1968 bài báo đề cập tới TSLT/TTT [115].

Tại Việt Nam, đã có những công trình nghiên cứu đánh giá kết quả
gần và xa của phẫu thuật nội soi qua niệu đạo điều trị TSLT/TTL, tuy nhiên
các nghiên cứu này mới chỉ thực hiện tại bệnh viện khi người bệnh đến phẫu
thuật và tái khám sau phẫu thuật. Cũng đã có những nghiên cứu điều tra dịch
tễ học TSLT/TTL tại cộng đồng, tuy nhiên các nghiên cứu này mới chỉ tiến
hành điều tra cắt ngang. Chưa có nghiên cứu nào tiến hành điều tra cắt ngang
và tiếp tục theo dõi dọc tại cộng đồng để tìm hiểu về sự tiến triển của bệnh và
những biến chứng xa của phẫu thuật tại một cộng đồng dân cư.

Với những lý do trên, tôi nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ và kết quả phẫu thuật nội soi tăng
sản lành tính tuyến tiền liệt được điều tra tại Thái Bình”
nhằm 2 mục tiêu:
1. Khảo sát tình hình dịch tễ tăng sản lành tính tuyến tiền liệt ở nam
giới từ 50 tuổi trở lên của tỉnh Thái Bình.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi qua niệu đạo cho những trường
hợp mắc tăng sản lành tính tuyến tiền liệt được phát hiện qua điều
tra dịch tễ học.





3



Chương 1
Tổng quan tài liệu

1.1. Giải phẫu học tuyến tiền liệt.

1.1.1. Hình thể ngoài của tuyến tiền liệt.

Hình 1.1: Giải phẫu tuyến tiền liệt
(Nguồn: Frank H.Neter.MD; ATLAS giải phẫu người; Tr 373)

Tuyến tiền liệt (TTL) là mét tổ chức tuyến xơ cơ (adéno-fibro-
myome), có dạng hình tháp đảo ngược, đỉnh ở dưới, nền ở trên tiếp xúc với
nền bàng quang. Ở người trưởng thành trọng lượng TTL khoảng 15-20g. Về
hình thể, TTL có 4 mặt, một nền và một đỉnh:

+) Mặt trước: Phẳng, dựng đứng, nằm ngay sau xương mu. Giữa mặt
trước TTL và mặt sau xương mu là đám rối tĩnh mạch Santorini.



4
+) Mặt sau: Nằm ở phía trước trực tràng, được ngăn cách với thành

trước của trực tràng bởi cân Denonvillier. Giữa hai thuỳ của TTL có một rãnh
phân cách, gọi là rãnh liên thùy. Rãnh này sẽ mất đi khi TTL tăng sản. Khi
thăm khám TTL qua trực tràng dễ dàng nhận thấy rãnh này.

+) Hai mặt bên: Lồi ra bên ngoài, liên quan tới bó mạch thần kinh sinh
dục tại gần đỉnh của TTL. Ở phía ngoài trên của hai mặt bên là lỗ bịt, trong đó có
dây thần kinh bịt chạy qua. Dây thần kinh này có thể bị kích thích trong quá trình
cắt nội soi, nhất là cắt u bàng quang và gây giật chi dưới của bệnh nhân.

+) Nền: Liên quan chặt chẽ với nền bàng quang, gồm phần trước là
phần niệu đạo bàng quang, và phần sau là phần sinh dục có tói tinh.

+) Đỉnh: Liên tiếp với niệu đạo màng, có cơ thắt vân bao quanh.

Niệu đạo TTL được chia thành 2 đoạn: Đoạn gần và đoạn xa tạo
thành một góc 135
o
. Mỗi đầu niệu đạo TTL được bao quanh bởi một cơ thắt.
Cơ thắt trơn tại cổ bàng quang và cơ thắt vân tại đỉnh niệu đạo - ô nói. Ô nói
là một phần tổ chức nhô lên trên bề mặt niệu đạo, là mốc quan trọng trong
quá trình phẫu thuật cắt TTL nội soi qua niệu đạo. Nếu cắt quá ụ núi sẽ phạm
phải cơ thắt vân niệu đạo, gây tiểu tiện không tự chủ [31].

1.1.2. Sự phân chia các vùng của tuyến tiền liệt.
Mc. Neal, chia TTL thành 5 vùng:
- Vùng đệm xơ-cơ phía trước. Chất đệm xơ-cơ chiếm tới gần 1/3 tổng
khối lượng của TTL nhưng lại không chứa các phần tử tuyến. Khi tăng sinh
nó góp phần quan trọng gây ra TSLT/TTL và những rối loạn tiểu tiện (đái
khó, đái đêm, tia tiểu yếu, tồn đọng nước tiểu trong bàng quang ).


- Vùng ngoại vi là tổ chức mô tiết. Chính vùng này chứa gần như toàn
bộ (gần 75%) các mô của TTL và là nơi xuất phát của phần lớn ung thư TTL.


5

- Vùng trung tâm, vÒ mô học cách sắp xếp ở đây giống như ở tói tinh.
Tỷ lệ mắc ung thư ở vùng này rất thấp, chỉ ngang với tỷ lệ ung thư tói tinh.

- Vùng mô trước (quanh niệu đạo), đây là vùng nhỏ nhất, phức tạp
nhất với sự xếp kề nhau của các tế bào vừa là tuyến vừa không phải là tuyến.

- Vùng chuyển tiếp, gồm những ống tuyến. Thường các ống tuyến của
vùng này chỉ chiếm <5% khối lượng TTL. Dù nhỏ bé và Ýt quan trọng về
chức năng, nhưng đây là vùng tăng sinh mạnh nhất khi TTL quá sản lành tính
tạo thành nhân (nodule).



P = peripheral zone (Vùng ngoại vi); S = preprostatic sphincter (Phần TTL dưới cơ thắt);
T = transition zone (Vùng chuyển tiếp); U = urethra (Vùng quanh niệu đạo);
V = verumontanum (Vùng quanh ụ núi)
Hìmh 1.2: Sự phân chia các vùng của TTL theo McNeal JE
(Nguồn: Journal of Andrology, 1991, Vol. 12, 348-355 [90]).

1.2. Dịch tễ tăng sản lành tính tuyến tiền liệt.

1.2.1. Tỷ lệ mắc tăng sản lành tính tuyến tiền liệt.
Khái niệm về dịch tễ học của TSLT/TTL và xác định chính xác tỷ lệ
mắc bệnh (Prevalence) còn chưa được thống nhất. Khái niệm có bệnh và

không có bệnh đối với TSLT/TTL là rất khó xác định. Mặc dù có nhiều công
trình nghiên cứu trên một diện rộng và kéo dài tới 20 năm, nhưng tỷ lệ mắc


6
bệnh rất khó xác định. Sở dĩ có hiện tượng này là do: TSLT/TTL với những
biểu hiện rất khác nhau, rất khó khăn cho nghiên cứu dịch tễ học. Tỷ lệ mắc
của các nghiên cứu phụ thuộc vào: Tiêu chuẩn đánh giá; Mẫu nghiên cứu; Địa
bàn nghiên cứu; Cách thu nạp đối tượng nghiên cứu; Cách quản lý và theo dõi
đối tượng nghiên cứu; Thời gian nghiên cứu [111]. Tùy theo mục đích nghiên
cứu, mỗi tác giả đề xuất một tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh, do đó tỷ lệ mắc
TSLT/TTL của các nghiên cứu cũng rất khác nhau.

1.2.1.1. Xác định tỷ lệ mắc dùa vào các triệu chứng đường tiểu dưới.
a) Điểm triệu chứng tuyến tiền liệt
Điểm triệu chứng TTL (IPSS - International Prostate Symptom
Score), do Barry và cộng sự đề xuất và được Hiệp hội Tiết niệu Quốc tế
chuẩn hóa vào năm 1991 [43]. Bảng thang điểm gồm 7 câu hỏi với tổng số
điểm là 35 điểm (Phô lục 1). Mức độ của bệnh dùa vào thang điểm này được
phân loại nh- sau: Nhẹ (0-7 điểm); Trung bình (8-19 điểm); Nặng (20-35
điểm).

Có thể dùa vào thang điểm IPSS đÓ lùa chọn phương pháp điểu trị.
Mét số tác giả gợi ý rằng những bệnh nhân với điểm triệu chứng mức độ nhẹ,
lùa chọn tốt nhất là quản lý theo dõi và chờ đợi (watchful waiting). Bệnh nhân
với điểm triệu chứng mức độ trung bình sử dụng chữa trị bằng thuốc
(pharmaco therapy). Đối với bệnh nhân có điểm triệu chứng mức độ nặng, tốt
nhất là chọn phương pháp phẫu thuật (surgical treatment) [111], [134].

Có thể dùa vào thang điểm IPSS để dự báo kết quả điều trị. Điểm

triệu chứng có ưu thế là dự báo diễn biến của triệu chứng, và dự báo kết quả
điều trị. Sau phẫu thuật, những trường hợp có điểm triệu chứng mức độ nhẹ
thường không cải thiện nhiều hơn những trường hợp điểm triệu chứng mức độ


7
nặng. Ở người đàn ông trước phẫu thuật điểm IPSS lớn hơn 17 điểm thì sau
phẫu thuật điểm IPSS có thể cải thiện khoảng 87% [111].

Việc đánh giá mức độ triệu chứng dùa vào thang điểm IPSS, qua các
câu hỏi và cho điểm, cho phép lượng hóa mức độ triệu chứng chủ quan của
bệnh nhân, nhưng tính chính xác của các kết quả thu được không thực sự cao
và đôi khi không khách quan. Theo Pupca, số bệnh nhân hiểu rõ các câu hỏi chỉ
là 84% [102]. Gee W. F và cộng sự (1995), tiến hành đánh giá khả năng thực
hành chẩn đoán và theo dõi TSLT/TTL của nhân viên Y tế trong 514 khoa Tiết
niệu tại Hoa Kỳ, kÕt quả cho thấy 99% số người được kiểm tra có kiến thức và
sử dụng được thang điểm triệu chứng, tuy nhiên trong số này có 21% số người
thay đổi chẩn đoán trong quá trình quản lý và theo dõi bệnh [70].

Triệu chứng đường tiểu dưới không hoàn toàn đặc trưng cho
TSLT/TTL. Bàng quang tăng thúc tính và TSLT/TTL có những triệu chứng
giống nhau, nhiều trường hợp đã tìm thấy kết hợp cùng nhau, rất khó khăn tìm
ra nguyên nhân khác nhau, và khó khăn cho việc lùa chọn phương pháp điều
trị. Một nghiên cứu theo dõi dọc 12 tháng trong năm 2004, thấy tỷ lệ mắc
bàng quang tăng thúc tính ở nữ giới nhiều hơn ở nam giới. Một nghiên cứu
vào năm 2005, trong tổng số 4.806 nam giới mắc triệu chứng đường tiểu
dưới, nhóm nghiên cứu có nhận xét: Nam giới với triệu chứng đường tiểu
dưới thì nguyên nhân do TSLT/TTL gặp nhiều hơn là bàng quang tăng thúc
tính. Nam giới mắc bàng quang tăng thúc tính, với nguyên nhân đặc trưng là
tổn thương cơ Detrusor [109]. Sự liên quan điểm triệu chứng và khối lượng

TTL là quan hệ thấp [112].

Theo Roehrborn Claus G (2007), tỷ lệ mắc triệu chứng đường tiểu dưới
ở đàn ông là rất cao, khoảng 61% trong toàn bộ dân số có Ýt nhất một triệu
chứng [109]. Theo một nghiên cứu tại Hoa Kỳ (2006), với mẫu không chọn


8
lọc, nam giới từ 40-79 tuổi, xác định tỷ lệ mắc dùa vào điểm triệu chứng IPSS,
thấy tỷ lệ mắc ở nhóm tuổi 40-49 là 13%, ở nhóm tuổi 70-79 là 28% với điểm
triệu chứng ở mức độ vừa và nặng [111]. Theo một nghiên cứu tại Tunisia
(2007), điều tra cắt ngang 4.602 đối tượng nam giới, dùa vào điểm IPSS cã
72,6% số trường hợp điểm triệu chứng ở mức độ trung bình (IPSS: 8-19 điểm);
26,4% số trường hợp điểm triệu chứng ở mức độ nặng (IPSS: 20-35 điểm),
trong khi đó dùa vào điểm QoL có 10,3% dưới 2 điểm, có 52,2% từ 3-4 điểm,
có 37,5% từ 5-6 điểm [82]. Theo một nghiên cứu tại Trung Quốc (1997), được
tiến hành điều tra tại 187 bệnh viện thuộc 26 tỉnh và 4 trung tâm nghiên cứu,
nhóm tác giả đã đưa ra tỷ lệ mắc TSLT/TTL tại Trung Quốc là 16,1% (15.495
người mắc trong tổng số 95.749 đối tượng điều tra) [72]. Roehrborn Claus G
và cộng sự (2002), đã thống kê một số nghiên cứu điều tra tình hình mắc bệnh
dùa vào thang điểm IPSS của các tác giả: Garraway (1991), Chute (1993),
Hunter (1994), Bosch (1995), Sagnier (1996), Overland (2001), điều tra 7588
nam giới thuộc các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Đài loan, Triều Tiên,
Philippin, Thái Lan, Singapo, Pakistan, Ên Độ và Australia, có tỷ lệ mắc bệnh :
tuổi 40 là 18%; tuổi 50 là 29%; tuổi 60 là 40%; tuổi 70 là 56% với các triệu
chứng trung bình và nặng [106]. Theo Horchani A và cộng sự (2007), tiến hành
điều tra cắt ngang 4.602 trường hợp nam giới từ 50 tuổi trở lên, thấy số trường
hợp có điểm IPSS ở mức độ trung bình và nặng chiếm tỷ lệ 72,6% [82]. Theo
Swen-Olof Andersson và cộng sù (1992), nghiên cứu trên 40.000 người Thụy
Điển, thuộc nhóm tuổi 45-70, sử dụng thang điểm IPSS và QoL để đánh giá

tuổi đặc hiệu mắc bệnh ở mức nặng của triệu chứng đường tiểu dưới. Nhóm
nghiên cứu nhận thấy, 18,5% ở mức độ trung bình, 4,8% ở mức độ nặng,
trường hợp có Ýt nhất một triệu chứng là 83%. Triệu chứng đường tiểu dưới
phụ thuộc mật thiết với tuổi, với 1,8% triệu chứng mức độ nặng trong số tuổi
đời 45-49, và tăng dần tới 9,7% trong số những người 75-79 tuổi. Tiểu tiện


9
nhiều lần là triệu chứng gặp nhiều nhất ở đàn ông dưới 70 tuổi, và tiểu đêm
nhiều gặp ở đàn ông trên 70 tuổi. Trong số này chỉ 29% có điểm IPSS > 7 mà
trước đó họ được chẩn đoán có vấn đề tiểu tiện, và chỉ có 11% thừa nhận có sử
dụng thuốc [123]. Theo Nguyễn Quang (2002), điều tra cắt ngang tại một số xã
thuộc huyện Sóc Sơn Hà Nội, theo thang điểm IPSS, nam giới từ 40 tuổi trở
lên, 97,5% trường hợp có Ýt nhất một triệu chứng [19].

b) Điểm chất lượng cuộc sống.
Điểm chất lượng cuộc sống (QoL - Quality of life), được coi là câu
hỏi thứ 8 của điểm IPSS [111]. Tổng điểm QoL là 6 điểm, được phân loại nh-
sau: ≤ 2 điểm được coi là nhẹ; 3-4 điểm được coi là trung bình; 5-6 điểm
được coi là nặng (Phô lục 1).

Việc đánh giá kết quả dùa trên chỉ số QoL dễ dàng hơn, nhưng tính
đặc hiệu không cao do bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác ngoài bệnh cảnh của
TSLT/TTL. Điểm IPSS phản ánh trung thực hơn so với điểm QoL về mức độ
bệnh [63]. Cùng có số điểm IPSS nh- nhau, nhưng điểm QoL có thể khác
nhau [112].

c) Đo tốc độ dòng tiểu.
Đo tốc độ dòng tiểu bằng máy niệu động học (uroflowmetry), là
những số liệu chắc chắn đáng tin cậy, đánh giá sự tắc nghẽn bàng quang

niệu đạo của bệnh nhân với triệu chứng đường tiểu dưới [111]. Với khối
lượng nước tiểu trong bàng quang trên 150 ml, tiến hành đo tốc độ dòng
nước tiểu tối đa (Qmax). Nếu Qmax >15 ml/giây, được coi là bình thường;
Qmax từ 10-15 ml/giây được coi là có cản trở nhẹ; Qmax < 10 ml/giây được
coi là nặng [111]. Theo Dương Quang Trí (2004), không có sự tương quan
(tương quan Spearman) giữa tốc độ dòng tiểu tối đa và điểm số triệu chứng,
lượng nước tiểu tồn dư [28].


10

Đa số các tác giả đều đánh giá lưu lượng dòng tiểu của bệnh nhân bằng
lưu lượng dòng tiểu tối đa (Qmax). Một số Ýt không đo được Qmax thì tiến
hành đo lưu lượng dòng tiểu trung bình (Qmean) như là một giá trị tham khảo.

Qmean =

V
{
Qmean: Tốc độ dòng tiểu trung bình (ml/giây)
V: Dung tích nước tiểu của 1 lần tiểu tiện (ml)
t: Thời gian của một lần tiểu tiện (giây)
t

Tuy là số liệu đáng tin cậy để chẩn đoán sự tắc nghẽn đường tiểu
dưới, nhưng đây là biện pháp không dễ gì thực hiện được tại các bệnh viện
tuyến Tỉnh và đặc biệt là trong nghiên cứu điều tra tại cộng đồng.

d) Đo lượng nước tiểu tồn dư.


Theo Rosette J và cộng sự (2006), siêu âm để đo lượng nước tiểu tồn
dư (Post-void residual - PVR), là một phương pháp đơn giản không xâm lấn
(non-invasive). Lượng nước tiểu tồn dư lớn (>200-300 ml) có nghĩa là bàng
quang kém chức năng và dự báo kết quả điều trị kém thuận lợi hơn. Lượng
nước tiểu tồn dư lớn chống chỉ định đối với theo dõi và chờ đợi hoặc điều trị
bằng thuốc [111]. Faruk Turgut và cộng sự (2006), đã tiến hành siêu âm
đường thành bụng bằng đầu dò 4,0 MHz, cho 100 đối tượng thuộc nhóm
TSLT/TTL (nhóm Bệnh) và 53 đối tượng thuộc nhóm không có bệnh (nhóm
Chứng). Các đối tượng được đo khối lượng TTL và nước tiểu tồn dư. Đo
lượng nước tiểu tồn dư được tiến hành ngay sau khi đi tiểu. Khối lượng TTL
trung bình ở nhóm Bệnh và nhóm Chứng khác nhau rất có ý nghĩa (25,9 ± 2,8
ml và 9,3 ± 1,4 ml). Nước tiểu tồn dư ở nhóm Bệnh là 49,2 ± 5,6 ml [64].
Theo Francois Desgrandchamps và cộng sự (2006), những trường hợp
TSLT/TTL, lượng nước tiểu tồn dư trên 39 ml được xếp vào nhóm nguy cơ
cao, biện pháp lùa chọn tốt nhất là can thiệp Y tế [51].



11
e) Bí tiểu tiện.

Một biến chứng quan trọng thường gặp trong quá trính phát triển của
TSLT/TTL là bí đái cấp tính (AUR - acute urinary retention). Roehrborn
Claus G (2001), nghiên cứu theo dõi dọc nhóm đối tượng có hội chứng đường
tiểu dưới do TSLT/TTL nằm trong nhóm theo dõi và chờ đợi. Nghiên cứu sử
dụng định lượng nước tiểu trong bàng quang để xác định bí đái. Nếu điểm
triệu chứng ở mức độ nhẹ: Nam giới 50 tuổi sống đến 80 tuổi thì tỷ lệ bị bí
đái cấp là 20%; nếu 60 tuổi sống đến 80 tuổi thì tỷ lệ bí đái cấp là 23%; và 70
tuổi sống đến 80 tuổi tỷ lệ bí đái cấp sẽ là 30% [107].


Tóm tại, trong các triệu chứng: điểm IPSS, điểm QoL, tốc độ dòng
tiểu tối đa, lượng nước tiểu tồn dư, bÝ tiểu cấp tính không hoàn toàn đặc
trưng cho TSLT/TTL, đây là những biểu hiện của triệu chứng đường tiểu dưới
(Lower urinary tract symptoms - LUTS). Tuy nhiên trong TSLT/TTL, các
triệu chứng này có giá trị xác định mức độ bệnh và tiên lượng kết quả điều trị.
Theo Esther Kok (2007), trong các triệu chứng này, thì điểm IPSS thường
được lấy để xác định tỷ lệ mắc trong điều tra tại cộng đồng [63].

1.1.2.2. Xác định tỷ lệ mắc dùa vào khối lượng tuyến tiền liệt.
a) Thăm trực tràng
Thăm trực tràng là phương pháp khám nghiệm đơn giản rẻ tiền. Phương
pháp khám nghiệm này quan trọng bởi 2 lý do: giúp cho việc phát hiện ung thư;
giúp ước lượng khối lượng TTL. Từ đó giúp cho việc lùa chọn phương pháp
điều trị đúng. Thăm trực tràng phát hiện ung thư đạt 26-34%, định hướng cho
việc sinh thiết, được dùng để sàng lọc trong nghiên cứu tại cộng đồng [111]. Đối
chiếu kết quả thăm trực tràng và nồng độ PSA cho thấy: Thăm trực tràng nghi
ngờ ung thư trong 5% với PSA 0-1,0 ng/ml; 14% với PSA 1,1-2,5 ng/ml; 30%


12
với PSA 2,6-4,0 ng/ml [111]. Tuy nhiên phương pháp này mang tính chủ quan,
do đó đòi hỏi người khám phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực này [120].

b) Siêu âm.
Siêu âm là phương pháp khám nghiệm khách quan hơn. Siêu âm xác
định khối lượng TTL, đồng thời có thể phát hiện được khối tăng hoặc giảm
âm trong tuyến, giúp cho việc phân biệt với các bệnh lý khác của TTL. Siêu
âm qua đường trực tràng có độ chính xác cao hơn qua đường thành bông
[118]. Theo Rosette J, xác định các số đo của TTL, thì siêu âm qua đường
trực tràng có độ chính xác cao hơn so với siêu âm qua đường thành bụng, soi

bàng quang, thăm trực tràng, chụp IVU, chụp MRI và biện pháp thăm dò
khác [111]. Khối lượng TTL qua thăm trực tràng thường nhỏ hơn so với siêu
âm, đặc biệt với trường hợp TTL trên 30

– 40 cm
3
[111], [112].

c) Một số phương pháp khác.
Chụp cắt líp vi tính khó phân biệt được các vùng khác nhau của TTL.
Chụp cắt líp vi tính chỉ giúp cho việc xác định khối lượng TTL, khó xác định
khối bất thường trong tuyến khi mà vỏ bao tuyến vẫn còn nguyên vẹn, nhưng nó
có tác dụng đánh giá sự phát triển lan rộng của tuyến trong trường hợp ung thư.

Chụp cộng hưởng từ (Magnetic Resonant Imagery - MRI): Hiện nay, là
một phương pháp thăm dò khá hiệu quả trong trường hợp ung thư TTL. Hình
ảnh MRI có khả năng phân biệt được những vùng khác nhau của TTL và cho
những hình ảnh theo không gian ba chiều. Theo Kellogg J. P và cộng sự đã tiến
hành chụp 1100 phim MRI cho 540 nam để đo khối lượng TTL ở các thời điểm
nghiên cứu. Dùa vào kết quả số đo MRI xác định tổng khối lượng TTL [100].

Chụp niệu đạo ngược dòng, cho hình ảnh gián tiếp sự ảnh hưởng của
TTL chèn Ðp niệu đạo [111].



13
Chụp niệu đồ tĩnh mạch (IVU), cho hình ảnh gián tiếp khối lượng
TTL. Đặc biệt phương pháp này cho phép đánh giá sự ảnh hưởng của TTL
gây cản trở niệu quản - bàng quang. Theo kết quả nghiên cứu của 24 trung

tâm Tiết niệu tại Hoa Kỳ, đã sử dụng chụp IVU hoặc siêu âm đối với 175
bệnh nhân có triệu chứng đường tiểu dưới không có bí đái và không phát hiện
được dấu hiệu bất thường trên siêu âm thận và IVU để thay đổi phương thức
điều trị. Ngược lại, Koch và cộng sự đã siêu âm cắt líp (ultrasound scans) thận
cho 556 nguời đàn ông cao tuổi với triệu chứng đường tiểu dưới (LUTS). Kết
quả là 14 trường hợp (2,5%) có ứ nước thận. Nồng độ Creatinin huyết thanh
cũng tương đương với sù giãn của bể thận. Các tác giả đã kết luận rằng siêu
âm thận là việc làm cần thiết đối với những bệnh nhân có nồng độ Creatinin
huyết thanh tăng lên hoặc trong trường hợp lượng nước tiểu tồn dư tăng
[111].

Ranh giới khối lượng TTL bao nhiêu để kết luận có bệnh hay
không có bệnh vẫn chưa được thống nhất. Đây cũng là lý do mà tỷ lệ mắc
bệnh của các nghiên cứu cũng rất khác nhau. Khối lượng TTL lớn có khi
không có biểu hiện tắc nghẽn đường tiểu dưới, nhưng có khi khối lượng
TTL nhỏ các triệu chứng đường tiểu dưới lại ở mức độ nặng. Theo
Simpson R.J và cộng sự (1996), không có dấu hiệu liên quan giữa số đo
TTL và triệu chứng, hoặc là giữa số đo TTL và tốc độ dòng tiểu tối đa. Ở
mét chõng mực nào đó, người đàn ông với tốc độ dòng tiểu trên 20 ml/s
cũng không thể chắc chắn không có khối lượng TTL trên 40 cm
3
[118].
Theo Faruk Turgut và cộng sự (2008), nghiên cứu so sánh 100 người mắc
TSLT/TTL, và 53 người không mắc TSLT/TTL, trung bình lượng nước
tiểu tồn dư ở nhóm mắc bệnh là 49,2 ± 5,6 ml, nhóm nghiên cứu không
thấy có mối liên quan giữa khối lượng TTL và lượng nước tiểu tồn dư
[64].


14


Simpson R.J và cộng sự (1996), xác định tỷ lệ mắc dùa vào khối
lượng TTL trên 20 cm
3
, tốc độ dòng tiểu, và điểm IPSS. Tỷ lệ mắc của 1000
đàn ông theo nhóm tuổi: 40-49 là 615 trường hợp; 50-59 là 776 trường hợp;
60-69 là 889 trường hợp; Đối với tất cả các nhóm tuổi là 765 trường hợp
[118]. Theo Rosette J và cộng sự (2006), khối lượng TTL được ước lượng bởi
thăm trực tràng (Digital rectal examination- DRE) từ 40 cm
3
trở lên được coi
là có hiện tượng TSLT/TTL [111]. Theo Francois Desgrandchamps và cộng
sự (2006), khối lượng TTL> 31cm
3
; PSA>1,6 ng/ml; Nước tiểu tồn dư >39
ml; tốc độ dòng tiểu tối đa < 10,6 ml/s, cần phải can thiệp Y tế không nên lùa
chon phương pháp theo dõi và chờ đợi [51]. Theo Kellogg J. P và cộng sù,
xác định khối lượng TTL bằng phim chụp MRI, khối lượng TTL ≥ 40cm
3

được coi là có hiện tượng tăng sản. Theo tác giả, khối lượng TTL 40 cm
3

ngưỡng nếu không điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật các triệu chứng của
đường tiểu dưới sẽ nặng dần lên trong khoảng thời gian 4 năm hoặc lâu hơn
[100].

Theo Đỗ Thị Khánh Hỷ, tại Việt Nam, đến tận năm 1989, sự điều tra
chính thức ở cộng đồng về bệnh lý này mới được bắt đầu. Trần Đức Thọ và cộng
sự tiến hành điều tra tại 4 vùng dân cư thuộc Hà Nội, Thanh Hóa, Bắc Thái, cho

nam giới từ 50 tuổi trở lên. Tuy nhiên, mỗi lần chỉ khám trên dưới 200 người và
khối lượng TTL được ước lượng qua thăm trực tràng (khối lượng TTL>20g). Tác
giả đưa ra tỷ lệ mắc bệnh trong khoảng 43,1%-74,18% [17]. Theo Nguyễn Quang
(2002), điều tra cắt ngang tại một số xã thuộc huyện Sóc Sơn Hà Nội, thăm trực
tràng để ước lượng khối lượng TTL, có 41,1% trường hợp khối lượng TTL trên
20g (41 trường hợp TTL trên 20g trong tổng số 119 đối tượng điều tra) [19]. Theo
Đỗ Thị Khánh Hỷ (2003), tiến hành điều tra tại một số cụm dân cư thuộc miền


15
Bắc; miền Trung; miền Nam, xác định tỷ lệ mắc dùa vào kết quả siêu âm khối
lượng TTL. Tác giả phân chia nhóm đối tượng có bệnh khi [17]:
- Nhóm 45-59 tuổi, khối lượng TTL lớn hơn 19 cm
3
.
- Nhóm 60-74 tuổi, khối lượng TTL lớn hơn 22 cm
3
.
- Nhóm từ 75 tuổi trở lên, khối lượng TTL lớn hơn 23 cm
3
.
- Tỷ lệ mắc chung của nhóm đối tượng điều tra là 60,1% (n=828).

1.1.2.3. Xác định tỷ lệ mắc dùa vào tế bào và mô bệnh học.







Hình ảnh đại thể
Hình ảnh vi thể
Hình 1.3: Hình ảnh giải phẫu bệnh lý của TSLT/TTL
(nguồn: Pathology and Genetics of Tumours of the Urinary System and Male Genital Organs; 2004; pp: 69-
70)


Về tổ chức của TSLT/TTL bao gồm: tổ chức liên kết chiếm khoảng
60%; tổ chức tuyến chiếm khoảng 20%; tổ chức cơ chiếm khoảng 20%. Tổ
chức liên kết càng nhiều thì phần tăng sản càng cứng, làm cho cơ cổ bàng
quang càng khó giãn nở lúc đi tiểu, do đó càng gây nhiều triệu chứng bế tắc.
Quá trình tăng sản của mô tuyến và mô đệm tạo thành những nhân ngày càng
phát triển về số lượng và kích thước. Thành phần tuyến gồm các chùm nang
có chứa các nhó bên trong. Khác với phần mô tuyến bình thường, có thể tìm
thấy ở đây những điểm nhồi máu, giãn các chùm nang, dị sản tế bào biểu mô.
Có thể tìm thấy hình ảnh tân sản nội biểu mô TTL (Prostatic Intraepithelila
Neoplasia - PIN) [21], [31].



16
Tỷ lệ mắc dùa vào tế bào và mô bệnh học cao hơn nhiều so với dùa
vào khối lượng TTL và điểm IPSS. Theo Gu F (2000), tỷ lệ mắc TSLT/TTL
qua số liệu xét nghiệm tế bào học là: 25% nhóm tuổi 40-50; 50% nhóm tuổi
50-60; 65% nhóm tuổi 60-70; 80% nhóm tuổi 70-80; 90% nhóm tuổi 80-90.
Tuy nhiên trong số này chỉ có 25-50% có triệu chứng lâm sàng [72]. Manzar
S (1997), đã tổng hợp tỷ lệ mắc theo triệu chứng lâm sàng và triệu chứng tế
bào mô bệnh học của mét số tác giả được trình bày tại bảng 1.1 [94].

Bảng 1.1: Tỷ lệ mắc TSLT/TTL của một số tác giả.

Tỷ lệ mắc
dùa vào
Tác giả
Nhóm tuổi
40-49
50-59
60-69
≥70
Triệu chứng
Lâm sàng
Manzar
(n=661, tại Pakistan)
16%
40%
29%
14%
Lytton và cộng sự
(n=6975, tại Mỹ)
8%
20%
35%
43%
Tế bào
Mô bệnh học
Moore
(n=304, tại Áo)
30%
37%
67%
75%

Franks
(n=211, tại U.K)
17%
40%
74%
80%
(Nguồn: Pakistan Journal of Surgery, Jan- March, 1997, Vol.13, No.1 [94])

Tỷ lệ mắc dùa vào tế bào và mô bệnh học Ýt được sử dụng trong điều
tra thống kê tỷ lệ mắc TSLT/TTL. Theo Rosette J (2006), xÐt nghiệm tế bào
học Ýt có giá trị trong việc xác định tỷ lệ mắc TSLT/TTL [111]. Xét nghiệm
tế bào và mô bệnh học chủ yếu để chẩn đoán phân biệt, đặc biệt với ung thư
TTL. Nhưng không thể cứ sinh thiết hàng loạt mà không dùa vào một gợi ý
nào. Những gợi ý đÓ chỉ định sinh thiết thường là: dÊu hiệu nghi ngờ khi
thăm khám TTL qua trực tràng; sau khi thăm dò bằng siêu âm; khi đo nồng độ
PSA huyết thanh cao hơn bình thường. Không thể chỉ sinh thiết một điểm, đa
số tác giả đề nghị sinh thiết 6 điểm quanh tuyến (hình lục lăng), có người đề
nghị 10 điểm. Theo Hà Thị Thu Hiền (2002), tiến hành nghiên cứu đối chiếu
hình ảnh mô bệnh học của tân sản nội biểu mô (PIN) với nồng độ PSA, trong


17
347 trường hợp được mổ bóc hoặc cắt nội soi TTL với chẩn đoán trước mổ là
TSLT/TTL, khi xét nghiệm mô bệnh học thấy: 17 trường hợp (4,9%) ung thư;
47 trường hợp PIN (13,5%); 283 trường hợp (81,56%) tăng sản lành tính.
Theo GS Trần Văn Sáng, có khoảng 10% số trường hợp chẩn đoán
TSLT/TTL, khi làm tế bào học mới phát hiện có tế bào ung thư [21].

1.1.2.4. Xác định tỷ lệ mắc dùa vào xét nghiệm PSA.
Khối lượng TTL tăng thì nồng độ PSA (Prostate Specific Antigen)

huyết thanh còng tăng. Theo Marks L. S (2003), nồng độ PSA cũng tăng theo
khối lượng TTL. Sự tăng của PSA đánh giá sự phát triển của TTL. Đối với
TTL 30 cm
3
hoặc lớn hơn phản ánh nồng độ PSA vào khoảng 1,5 ng/ml hoặc
lớn hơn [95]. Theo Jane Perry (2007), nồng độ PSA bình thường của từng
nhóm tuổi: 40-49 là 2,5 ng/ml; 50-59 là 3,0 ng/ml; 60-69 là 4,0 ng/ml; 70-79
là 5,0 ng/ml. Nồng độ PSA 0,5-2,5 ng/ml không phát hiện thấy trường hợp
nào bị ung thư. Nồng độ PSA 3-10 ng/ml thì có khoảng 20% trường hợp bị
ung thư. Nồng độ PSA trên 10 ng/ml thì có khoảng 50% trường hợp bị ung
thư [85]. Theo Đào Thị Hồng Nga (2001), nghiên cứu nồng độ PSA huyết
thanh ở 3 nhóm đối tượng: không mắc TSLT/TTL; cã mắc TSLT/TTL; và
nhóm mắc ung thư TTL. Tác giả nhận thấy nồng độ PSA ở người bình thường
tăng theo tuổi (từ 0 đến 6 ng/ml). Nồng độ PSA ở nhóm mắc TSLT/TTL dao
động rất lớn không có mối liên quan rõ rệt với tuổi. Nồng độ PSA ở nhóm
ung thư TTL tăng rất cao, đặc biệt gần một nửa tăng trên 200 ng/ml [18].

Theo Ian M. Thompson và cộng sự (2005), tiến hành nghiên cứu
với đối tượng nam giới từ 50 tuổi trở lên, xét nghiệm PSA ≤3,0 ng/ml,
thăm trực tràng không có dấu hiệu bất thường. Tất cả các đối tượng này
được xét nghiệm và thăm trực tràng hàng năm, kéo dài 8 năm, nếu
PSA=4 ng/ml sẽ được chọc sinh thiết để xác định ung thư TTL, nhận


18
thấy PSA nhậy với việc phát hiện ung thư TTL. Việc xét nghiệm PSA định kỳ
giúp cho việc phát hiện sớm ung thư TTL [83]. Theo Rosette J (2001), nồng
độ PSA trong khoảng 4-10 ng/ml và thăm trực tràng thấy TTL bình thường
được gọi là vùng “xám”, cần phải được theo dõi thường xuyên [111].
Catalona WJ và cộng sự (1993), Nghiên cứu 10251 trường hợp, tuổi từ 50 trở

lên, tuổi trung bình 63, lấy máu tĩnh mạch xét nghiệm PSA, kéo dài 6 đến 37
tháng, xác định TTL qua siêu âm và sinh thiết (Biopsy) qua đường trực tràng,
nhận thấy: PSA rất có giá trị cho việc chẩn đoán ung thư TTL, làm tăng tỷ lệ
phát hiện ung thư so với sử dụng thăm trực tràng [46]. Theo Al Baha
Barqawi và cộng sự (2008), nguy cơ của ung thư TTL tăng dần theo tuổi,
yếu tố gia đình, một số thức ăn hàng ngày có ảnh hưởng tới tỷ lệ mắc. Tỷ lệ
mắc ở nhóm tuổi 40-59 là 2,2%; 60-70 là 13,7%. Tỷ lệ mắc dùa vào tử thiết
(autopsies) còn cao hơn, ở nhóm tuổi: 50-60 là 20%; 70-80 là 50% [41]. Đối
với tất cả bệnh nhân có nồng độ PSA>10 ng/ml, dù kết quả thăm trực tràng và
siêu âm như thế nào cũng cần làm sinh thiết dưới sự hướng dẫn của siêu âm
để xác định chẩn đoán. Nồng độ PSA tăng lên ngoài nguyên nhân do ung thư
TTL, còn do tuyến quá sản, viêm, hoặc do tác động cơ học tới nã, tuy nhiên
nó cũng không vượt quá giới hạn bình thường.

Tóm lại, tỷ lệ mắc theo các nghiên cứu dịch tễ học rất khác nhau, các
mẫu nghiên cứu của các tác giả nước ngoài là tương đối lớn, thời gian theo dõi
dọc có những nghiên cứu tới 20 năm. Ngược lại các nghiên cứu trong nước về
lĩnh vực này còn quá Ýt, mẫu nghiên cứu còn ở mức độ rất khiêm tốn, phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là điều tra cắt ngang, chưa có nghiên cứu nào tiến hành
theo dõi dọc để đánh giá mức độ tiến triển của bệnh. Tiêu chuẩn để xác định tỷ
lệ mắc bệnh chưa hoàn toàn thống nhất, tùy theo điều kiện nghiên cứu, thời gian
nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu, mỗi tác giả đưa ra một tiêu chuẩn đánh giá


19
riêng. Do đó nghiên cứu xác định tỷ lệ mắc tại một cụm dân cư nào đó sẽ giúp
cho việc lên kế hoạch chăm sóc và điều trị TSLT/TTL tại cụm dân cư đó.

1.2.2. Yếu tố liên quan đến tỷ lệ mắc tăng sản lành tính tuyến tiền liệt.
1.2.2.1. Tuổi đời

Cho đến nay, tất cả các nghiên cứu về lĩnh vực này đều thừa nhận có
hai yếu tố liên quan rõ nét nhất, ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh đó là tuổi đời
và vai trò của nội tiết tố nam. Tuổi đời có quan hệ tuyến tính với tỷ lệ mắc
bệnh [82]. Tuổi càng cao thì tỷ lệ bị bệnh càng cao. Xét về mặt tế bào học, ở
độ tuổi 40 bắt đầu xuất hiện TSLT/TTL, nhưng về mặt lâm sàng, ở độ tuổi 50
bắt đầu xuất hiện các triệu chứng của đường tiểu dưới ở mức độ nhẹ, tuổi
càng cao mức độ triệu chứng càng nặng.

1.2.2.2. Vai trò của nội tiết.
Quan trọng nhất là Testosteron. Nã có nguồn gốc trên 95% từ tinh
hoàn. Sự tăng trưởng và phát triển của TTL dưới tác dụng của nội tiết tố tinh
hoàn theo sơ đồ sau :
Testosterone 5α reductase Dihydrotestosterone (DHT)
Liên bào đệm xoang niệu sinh dục (Coffey).
DHT tác dụng lên tế bào mô đích thông qua cơ chế hoạt hoá hệ gen [46], [88].

Các trường hợp cắt tinh hoàn sẽ không xảy ra hiện tượng TSLT/TTL
kể cả trên thực nghiệm và trên người. Huggins (1941) nhận thấy những con
chã cắt tinh hoàn không bị TSLT/TTL, đã áp dụng cắt tinh hoàn để điều trị
tăng sản TTL (ít hiệu quả). Walls Wilson (1976) nhận thấy sự thay đổi
oestrogen và androgen (thực nghiệm trên chã) thấy gây to TTL. Gloyna,
Garnet (1989) tiêm Dihydrotestosteron cho chã thực nghiêm còn tinh hoàn
gây TSLT/TTL [11].



20
1.2.2.3. Yếu tè di truyền.
Theo Barry (1997), TSLT/TTL có liên quan đến yếu tố di truyền, mặc
dù tính đặc hiệu không cao [42]. Theo Hoke G (2008), có sự liên quan giữa

yếu tố di truyền và tỷ lệ mắc TSLT/TTL. Theo tác giả, yếu tố di truyền có liên
quan đến cảm thụ thể (Androgen receptor) tại cấu trúc của tế bào TTL, và
chính lý do này tác động đến sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa các dân téc,
chủng téc [81].

1.2.2.4. Yếu tố nhân trắc học.
Theo Kellogg J. P và cộng sự (2002), tiến hành nghiên cứu điều tra
cắt ngang và theo dõi dọc từ năm 1993 đến năm 2002, cho đối tượng là nam
giới từ 27 tuổi trở lên. Kết quả cho thấy trọng lượng cơ thể, chỉ số BMI khác
nhau có ý nghĩa thống kê giữa nhóm khối lượng TTL < 40cm
3
và nhóm khối
lượng TTL ≥ 40cm
3
, khi chỉ số BMI tăng lên 1 đơn vị, thì khối lượng TTL
tăng lên 0,41cm
3
. Chỉ số đo chiều cao cơ thể, vòng Eo/Hông, sự khác nhau
không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm khối lượng TTL [100]. Ngược lại
theo Faruk Turgut và cộng sự (2008), nghiên cứu Bệnh-Chứng theo dõi dọc
153 đối tượng tại Thổ Nhĩ Kỳ có nhận xét: Chỉ số BMI, thãi quen hót thuốc
không phải là yếu tố nguy cơ TSLT/TTL [64]. Theo Rosette J và cộng sự
(2006), nguyên nhân bệnh sinh là rất phong phú đa dạng. Hiện nay, chưa có
một bằng chứng rõ ràng rằng hót thuốc lá, phẫu thuật thắt ống dẫn tinh, béo
phì, uống nhiều rượu, bia là nguy cơ phát triển triệu chứng lâm sàng của
TSLT/TTL. Những bệnh cảnh mạn tính như tiểu đường có mối quan hệ với
triệu chứng lâm sàng của TSLT/TTL. Nhưng chỉ có yếu tố liên quan chắc
chắn đến sự phát triển của bệnh là tuổi đời và vai trò của nội tiết [111]. Theo
Signorello và cộng sự (2001), nghiên cứu đặc điểm dịch tễ TSLT/TTL tại Hy
Lạp, với phương pháp nghiên cứu Bệnh-Chứng, các đối tượng có cùng nhóm

độ tuổi, trình độ học vấn, chỉ số đo cơ thể, anh em ruột thịt cùng cha mẹ, tình


21
trạng hôn nhân và số con của họ. Nhóm nghiên cứu đã kết luận: Các yếu tố
như hói đầu, hót thuốc lá, uống rượu bia tác động không rõ ràng đến
TSLT/TTL [119].

1.2.2.5. Yếu tố chủng téc và vị trí địa lý.
Theo Shvartzman P. MD và cộng sự (2001), nghiên cứu cắt ngang và
theo dõi dọc tại cộng đồng thông qua việc phỏng vấn qua điện thoại của các
trung tâm bác sỹ gia đình (các trung tâm này quản lý 65% số dân cư hiện đang
sinh sống tại địa bàn nghiên cứu). Các yếu tè nơi sinh, tình trạng hôn nhân, khác
nhau không có ý nghĩa thống kê ở nhóm có triệu chứng đường tiểu dưới và
nhóm không có triệu chứng đường tiểu dưới. Các yếu tè nơi ở hiện nay, tuổi đời,
tình trạng việc làm, khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa nhóm có triệu chứng
đường tiểu dưới và nhóm không có triệu chứng đường tiểu dưới. Như vậy, với
cùng yếu tố gia đình như nhau, vị trí địa lý hiện đang sinh sống cũng là một yếu
tố nguy cơ TSLT/TTL [117]. Theo Hoke G và công sự, yếu tố chủng téc có tác
động ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc TSLT/TTL [81]. Theo một nghiên cứu tại Hoa
Kỳ, tỷ lệ mắc TSLT/TTL người ở châu Mỹ cũng tương tự như ở người châu Âu
qua so sánh với kết quả điều tra tại Scotland và Hà Lan, tỷ lệ mắc người ở châu
Mỹ thấp hơn so với người ở châu Á, qua so sánh với các nghiên cứu ở châu Á,
mặc dù khối lượng TTL người ở Nhật có vẻ nhỏ hơn người ở Mỹ [111].

Ngược lại, theo nghiên cứu của Đỗ Thị Khánh Hỷ [17], khi tiến hành
điều tra tại 3 vùng dân cư thuộc miền Bắc, miền Trung và miền Nam với tổng
số đối tượng nghiên cứu là 828 người, thì tỷ lệ mắc bệnh tại 3 vùng dân cư
khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.


1.2.2.6. Mét số yếu tố khác.
Theo Shvartzman P. MD và cộng sự (2001), biểu hiện triệu chứng
đường tiểu dưới càng nặng lên khi tuổi của họ tăng lên. Tất cả những trường hợp


22
có biểu hiện triệu chứng đường tiểu dưới đều có nhiều hơn các bệnh mạn tính và
các vấn đề về Y tế so với nhóm không có triệu chứng đường tiểu dưới. Phân tích
ảnh hưởng của một số hoạt động thường ngày ở những trường hợp có biểu hiện
triệu chứng đường tiểu dưới với mức độ bệnh cho thấy, việc đi tiểu theo một giê
nhất định, kể cả khi đi ngủ cũng chủ động thức dậy để đi tiểu, ảnh hưởng không
rõ ràng đến mức độ nặng nhẹ của triệu chứng đường tiểu dưới [117].

Theo Philip M. Ullrich và cộng sự (2005), nghiên cứu cắt ngang về
những yếu tố Strest trong cuộc sống với các thông số bệnh lý của 83 trường
hợp được chẩn đoán TSLT/TTL. Nhóm nghiên cứu kết luận, yếu tố tâm lý có
ảnh hưởng đến các thông số bệnh lý TSLT/TTL [103].

Theo Faruk Turgut và cộng sự (2008), nghiên cứu Bệnh-Chứng theo
dõi dọc 153 đối tượng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Nhóm đối tượng nghiên cứu được đo
huyết áp liên tục trong 24 giê bằng máy đo tự động không xâm lấn. Nhóm
nghiên cứu nhận thấy có sự khác biệt về huyết áp vào ban đêm của nhóm có
TSLT/TTL và nhóm không có TSLT/TTL. Tác giả kết luận, đi tiểu đêm
không những làm nặng thêm điểm chất lượng cuộc sống mà nó còn làm tăng
nguy cơ bệnh lý tim mạch, sự thay đổi huyết áp không phải là dấu hiệu chỉ
báo bệnh TSLT/TTL, mà TSLT/TTL làm tăng nguy cơ bệnh lý về tim mạch
[64].

Theo Aruna V. Sarma, PHD (1998), nghiên cứu dịch tễ học ảnh
hưởng của bệnh tiểu đường và các chỉ số đánh giá TSLT/TTL. Nhóm nghiên

cứu kết luận, bệnh tiểu đường làm nặng thêm triệu chứng kích thích của hội
chứng đường tiểu dưới, đặc biệt là tăng số lần đi tiểu đêm. Ngoài ra bệnh tiểu
đường có liên quan đến sự tăng trưởng của TTL. Sự tăng trưởng này khác
nhau giữa người đàn ông da Trắng và người đàn ông da Đen [40]. Theo Paulo
Tadeu Dib và cộng sự (2008), nghiên cứu tại Brazin nhận thấy, triệu chứng


23
đường tiểu dưới (Lower urinary tract symptoms - LUTS) gặp phổ biến từ lứa
tuổi trên 50. Nhóm mắc TSLT/TTL có tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường nhiều hơn
[101].

Theo Hoke G. P và cộng sự (2008), tỷ lệ mắc bệnh ở người Mỹ da
trắng thấp hơn ở người Mỹ gốc châu Phi và La tinh, sự khác nhau này có liên
quan đến yếu tố di truyền, cấu trúc gien cảm thụ thể (androgen receptor) tại
cấu trúc của tế bào TTL. Tỷ lệ mắc có liên quan đến yếu tố di truyền, chủng
téc [81]. Theo Eliahu Golomb và cộng sự (2000), tỷ lệ mắc TSLT/TTL có liên
quan đến yếu tố di truyền tăng huyết áp [58].

Theo Jennifer L. St và cộng sự (2008), nghiên cứu tác động lâu dài của
viêm TTL ảnh hưởng tới sự phát triển của TSLT/TTL. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: nhóm viêm TTL có tỷ lệ mắc TSLT/TTL là 90%, nhóm không có viêm
TTL tỷ lệ mắc TSLT/TTL là 78%. Thời gian trung bình từ khi chẩn đoán viêm
TTL đến khi phải điều trị tăng TSLT/TTL là 9,8 năm [87].

Bảng 1.2: Tỷ lệ mắc viêm tuyến tiền liệt của một số nghiên cứu.
Nơi N.C
Tác giả
Năm
Mẫu

Tuổi
T.L mắc
Tại Hoa Kỳ
Roberts
1998
2.115
40-79
9%
2002
1.541
40-79
2,2%
Tại Hoa Kỳ
Collins
1998
58.955
≥ 18
8%
2002
31.681

16%
Tại Phần Lan
Mehik
2000
1.832
20-59
14,2%
Tại Italia
Rizzo

2003
8.503
16-83
12,8%
Tại Canada
Nickel
2001
868
20-74
9,7%
Tại Hàn Quốc
Ku
2001
16.321
≥ 20
6%
Tại Singapo
Tan
2002
1.087
21-70
2,7%
Tại Nhật Bản
Kunishima
2002
502
20-79
5%
Tại Malaisia
Cheah

2002
3.147
20-50
8,7%

(Nguồn: International Journal of Impotence Research, 2002, Supl1, 99-104 [133])



24
Marie Chevret và cộng sự (2000), đã thống kê tỷ lệ mắc viêm tuyến
tiền liệt của một số nghiên cứu được trình bày tại bảng 1.2. Theo Trần Quán
Anh, viêm tuyến tiền liệt ở Việt Nam Ýt được phát hiện, có thể do người thày
thuốc chưa có một lưu ý đúng mức vào định hướng chẩn đoán bệnh này [2]
Theo Jennifer L. St và cộng sự (2006), nghiên cứu tác động của nhóm
thuốc kháng viêm Nonsteroid đối với sự phát triển TSLT/TTL. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: thuốc kháng viêm Nonsteroid có tác dụng làm hạn chế
sự phát triển TSLT/TTL [86].

Theo Kenneth M và cộng sự (2000), có mối liên quan giữa
TSLT/TTL và bệnh lý mạch vành ở người đàn ông cao tuổi. Bệnh nhân ở
nhóm không có TSLT/TTL giảm đáng kể nguy cơ nhồi máu cơ tim so với
nhóm có TSLT/TTL [91].

Theo Gass R (2002), nhóm không hót thuốc lá có nguy cơ mắc
TSLT/TTL lớn hơn nhóm hót thuốc lá. Không có mối liên quan giữa trọng lượng
cơ thể và tỷ lệ mắc TSLT/TTL. Các thành phần trong cà phê làm tăng nồng độ
Cholesterol trong huyết thanh, nhân tố tham gia vào quá trình sinh lý bệnh của
TSLT/TTL [67]. Theo Richard B và cộng sự (1996), không có bằng chứng rõ
ràng thãi quen uống rượu là yếu tố nguy cơ của ung thư TTL và TSLT/TTL [105].


1.3. Điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt.

Cho đến nay, nguyên nhân bệnh sinh chưa được làm sáng tỏ, khái
niệm có bệnh và không có bệnh cũng chưa được thống nhất. Khái niệm mắc
bệnh, tỷ lệ mắc bệnh của các nghiên cứu phụ thuộc vào cách chọn mẫu, tiêu
chuẩn đánh giá, địa bàn nghiên cứu, thời gian nghiên cứu. Theo Barry MJ và
cộng sự (1997), mặc dù triệu chứng đường tiểu dưới do TSLT/TTL nhìn
chung tiến triển theo thời gian, sù tăng sản không nhất thiết phải điều trị, theo


25
dõi từ 1 đến 5 năm thấy: Khoảng 18-32% bệnh nhân với triệu chứng lâm sàng
được cải thiện tốt dần lên; 15-52% với các triệu chứng không thay đổi; 16-
60% với các triệu chứng nặng lên. TSLT/TTL rất hiếm khi gây tử vong, nó
được coi là bệnh tiến triển chậm [42]. Theo Gu F (2000), tuỳ theo định nghĩa
(dùa vào niệu động học, khối lượng TTL, v.v ) mà tỷ lệ có triệu chứng lâm
sàng của TSLT/TTL ở mỗi cá thể, mỗi địa phương khác nhau. Trong nhóm
tuổi 55-74 khoảng 5-30% mắc bệnh, và chỉ có 40% trong nhóm này phàn nàn
về triệu chứng của đường tiểu dưới (LUTS), và chỉ có 20% cần đến sự can
thiệp của Y tế [72]. Theo Fiches (2008), tỷ lệ mắc (Prevalence) ước tính
khoảng 10-30% số người trong độ tuổi 70-75. Tuy nhiên chỉ có một tỷ lệ nhỏ
cần đến sự can thiệp của bác sỹ. Trong số những trường hợp có triệu chứng
đường tiểu dưới, theo dõi trong 5 năm thì có tới 40% có cải thiện tốt dần, 45%
các triệu chứng không thay đổi, có 15% các triệu chứng nặng lên. Tuy nhiên
không thể dự đoán sự tiến triển cho từng người cụ thể với thời gian dài [134].

Do đặc điểm lâm sàng của bệnh đã được nhiều nghiên cứu có những
nhận xét khác nhau, nên việc lùa chọn phương pháp điều trị còn nhiều vấn đề
chưa được thống nhất. Theo Yan Kit Fong MD và cộng sự (2004), người đàn

ông với điểm IPSS mức độ nhẹ nên lùa chọn phương án trì hoãn điều trị và
chờ đợi, bởi lẽ nó được coi nh- mét phần của quá trình lão hoá, sự tiến triển
thường chậm [129]. Mét số tác giả đưa ra phương hướng điều trị TSLT/TTL
nh- sau [51], [66], [111], [122], [127]:

- Theo dõi và chờ đợi (Watchfull waiting): Điểm IPSS ≤ 7; Điểm
QoL < 3; Không có yếu tố nguy cơ.

- Cần phải can thiệp Y tế (Medical Treatment): Điểm IPSS > 7; Điểm
QoL ≥ 3; Có yếu tố nguy cơ.

×