Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Xây dựng lớp học vật lý trực tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học chương động lực học chất điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 173 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH





Nguyễn Thị Ngọc Phượng





XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN
NHẰM HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ HỌC
CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM”
(VẬT LÝ 10 NÂNG CAO)







LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC







Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH




Nguyễn Thị Ngọc Phượng




XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN
NHẰM HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ HỌC
CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM”
(VẬT LÝ 10 NÂNG CAO)



Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý
Mã số : 60 14 10




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ÐỖ XUÂN HỘI




Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong thời đại hiện nay, khi mà công nghệ thông tin (CNTT) phát triển vượt
bậc, các thành tựu khoa học liên tiếp nhau ra đời đã làm cho việc học và dạy học có
những đổi mới phù hợp. Mỗi cá nhân phải biết cách tự tìm kiếm nguồn thông tin
phù hợp, xử lý nguồn thông tin đó để vận dụng vào các vấn đề cụ thể. Vì vậy học và
dạy học cần có những bước chuyển m
ình theo xu hướng của thời đại mới. Để đáp
ứng cho nhu cầu của xã hội, nền giáo dục nước ta cũng đã có những biến chuyển
tích cực với những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục. Mục tiêu hàng đầu
đặt ra cho giáo dục là phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
(HS). HS sẽ là chủ, là trung tâm của quá trình nhận thức diễn ra trong mỗi tiết học.
Để làm được điều nà
y một trong những vấn đề cần phải lưu ý đến là việc tự học của
HS. HS không chỉ cần nắm bắt được nội dung kiến thức mà các em còn cần phải
biết đến phương pháp, đến cách thức tìm ra và sử dụng chúng sao cho hiệu quả
nhất. Khả năng tự học, tự tìm tòi không những quan trọng trong quá trình học tập
khi HS còn đến trường mà còn rất quan trọng trong khoảng t
hời gian về sau, khi các
em lên các cấp học trên, và nhất là khi các em đã trưởng thành.
Tuy nhiên, trong thực tế, đối với môn vật lý nói riêng, để tổ chức một giờ
học trên lớp theo định hướng mới như hiện nay mà trong đó HS giữ vai trò làm chủ
quá trình nhận thức trong tiết học đó quả thật là không dễ dàng. Thời lượng mỗi tiết

học chỉ có bốn mươi lăm phút (kể cả thời gian ổn định lớp, tổ chức hoạt động của
lớp) nhưng lượng kiến thức trong mỗi bài lại khá
nhiều (nhất là ở chương trình nâng
cao) đã gây ra khá nhiều điều bất cập, khó áp dụng các phương pháp dạy học mới.
Bên cạnh đó, sĩ số mỗi lớp học hiện tại là quá đông nên đối với GV việc quan tâm
đến từng cá nhân trong lớp học, đến các băn khoăn, suy nghĩ, những vướng mắc của
các em hiện vẫn còn rất hạn chế. Chính những vướng mắc không được quan tâm,
giải đáp kịp thời rất dễ làm HS cảm thấy chán nản, mất tự tin và đây sẽ là những rào
cản cho các
em trong việc thu nhận thêm các các kiến thức vật lý nói chung và các
thông tin khoa học hiện đại về sau nói chung.

Ngoài những nguyên nhân khách quan như đã nêu thì một trong những
nguyên nhân chủ quan chính dẫn đến các khó khăn này là việc tự học của HS còn
chưa được tốt làm ảnh hưởng khá nhiều đến quá trình học tập. Việc chuẩn bị bài ở
nhà của HS thường mang tính chất đối phó tạm thời. Thông thường các em không
xem bài trước hoặc nếu có cũng chỉ dừng lại ở mức độ trả lời các câu hỏi do GV
yêu cầu một cách máy móc, ngoài ra không có sự đầu tư suy nghĩ thêm các vấn đề
có liên qua
n. Sự chuẩn bị bài mới thiếu chu đáo cũng khiến cho việc học tập trên
lớp của HS gặp nhiều hạn chế. Khi được yêu cầu tự đưa ra nhận xét hay trình bày
lại những nội dung đã tìm hiểu được thì HS thường tỏ ra khá lúng túng. Phần đông
các em HS vẫn còn tiếp nhận kiến thức được GV truyền đạt một cách thụ động.
Để
giúp HS có thể thực sự làm chủ của quá trình nhận thức, phát huy được các khả
năng của bản thân thì cần có thêm thời gian, cần có thêm nữa các hỗ trợ từ phía GV
để HS có thể tự học nhiều hơn, hiệu quả hơn nữa.
Đặc biệt, đối với HS đầu cấp như HS lớp 10 học chương trình vật lý nâng
cao thì sự hỗ trợ để giúp các em tự học là rất cần thiết. Với chương “Động lực học
chất điểm”, đây là chương học khá qua

n trọng đóng vai trò cơ sở cho các chương
học sau đó, hơn thế nữa nó còn là chương học có khá nhiều ứng dụng gần gũi trong
đời sống. Tuy nhiên do vừa chuyển từ khối THCS sang khối THPT, lượng kiến thức
cần tiếp thu, các kỹ năng cần rèn luyện lúc này đối với các em HS là khá nhiều. Nếu
không c
ó sự hỗ trợ thì từ chương học này sẽ trở nên khá nặng nề đối với các em, với
các khó khăn nhất định dễ dẫn đến tình trạng HS học vẹt, học đối phó.
Bên cạnh thực trạng trên, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông
tin, các phương tiện hỗ trợ cho giáo dục cũng tăng lên mạnh mẽ. Học tập không còn
nhất thiết phải đến lớp và gặp trực tiếp với GV mà một người hoàn toàn có thể tíếp
nhận một, hoặc nhiều lớp học trực tuyến cùng lúc bằng hệ thống Internet với những
hình ảnh, â
m thanh minh họa, hỗ trợ thiết thực từ công nghệ hiện đại. Thời gian học
của người học không còn bó gọn trong thời gian bốn mươi lăm phút trong mỗi tiết
học mà nó sẽ kéo dài hơn, ở mọi lúc mọi nơi (có
hệ thống Internet) cho đến khi nào

họ cảm thấy là mình đã thực sự nắm vững kiến thức mới. Đó là hình thức học e-
learning (học tập điện tử).
Do đó, tôi nghĩ rằng rất cần thiết nên có một một lớp học vật lý trực tuyến
(LHVLTT) nhằm hỗ trợ cho việc tự học bộ môn này cho học sinh trung học phổ
thông (THPT) theo hình thức e-learning. Những thông tin được cung cấp, được trao
đổi thông qua lớp học này sẽ gi
úp cho HS cảm thấy tự tin hơn, hứng thú và thực sự
làm chủ được quá trình nhận thức trên lớp với từng tiết học vật lý theo phương pháp
mới ở trường phổ thông hiện nay. HS sẽ thật sự trở thành trung tâm của tiết học.
Hơn thế nữa, sau khi đã làm quen với cách học với sự hỗ trợ từ các thông tin trên
mạng Internet, cảm thấy hứng thú với cách học
này với các kết quả mà nó đem lại,
người học, mà cụ thể là HS vẫn có thể chủ động tự học về sau.

Chính vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài : Xây dựng lớp học vật lý trực
tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học chương “Động lực học chất điểm” (Vật lý 10
Nâng cao)

2. Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng nội dung LHVLTT nhằm hỗ trợ quá trình tự học của HS.
- Đề xuất phối hợp giữa LHV
LTT với lớp học truyền thống.
- Đánh giá hiệu quả của quá trình học tập bộ môn vật lý trên lớp khi sự hỗ trợ
của LHVLTT.

3. Giả thuyết khoa học
Nếu lớp học vật lý trực tuyến chương “Động lực học chất điểm” được xây
dựng và đưa vào sử dụng t
hành công trong việc hỗ trợ học sinh tự học thì việc học
của học sinh trong chương này sẽ trở nên hiệu quả hơn, do đó cũng đem lại những
kết quả tốt hơn.

4. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động học và tự học của HS THPT.
- Nội dung, mục tiêu, yêu cầu cần đạt được của chương “Động lực học chất
điểm” thuộc chương trình vật lý 10 nâng cao.
- Hình thức học e-learning dưới dạng lớp học trực tuyến và vai trò của nó
trong việc hỗ trợ quá trình tự học của HS.
- Hệ thống xây dựng LHVLTT.
- Nội dung cho LHVLTT nhằm hỗ trợ quá trình tự học cho HS TH
PT.

5. Phạm vi nghiên cứu
- Chương “Động lực học chất điểm” thuộc chương trình vật lý 10 Nâng cao.

- Đối tượng HS đang theo học chương trình vật lý 10 Nâng cao tại trường
THPT.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của việc sử dụng CNTT trong dạy và học môn vật lý.
- Hoạt động học và tự học của HS.
- Nội dung, cấu trúc, mục tiêu, yêu cầu và các tài liệu hỗ trợ dạy và học của
chương “Động lực học chất điểm”
, thuộc chương trình vật lý 10 Nâng cao.
- LHVLTT theo hình thức dạy học e-learning và vai trò của nó trong việc hỗ
trợ hoạt động tự học của HS.
- Xây dựng cấu trúc và nội dung cụ thể LHVLTT.
- Đề xuất hướng sử dụng và phối hợp LHVLTT nhằm hỗ trợ cho quá trình tự
học của HS.
- Thực nghiệm sư phạm ở trường THP
T nhằm xác định mức độ phù hợp, tính
khả thi và hiệu quả mà đề tài đem lại.

7. Phương pháp nghiên cứu
 Nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu lý luận dạy học nhằm tìm hiểu về các định hướng
đổi mới trong dạy học, cơ sở lý luận của việc tự học, giúp phát huy tính tích cực,
chủ động trong học tập của HS.
- Nghiên cứu các tài liệu về hoạt động học và tự học của HS.
- Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách GV, sách bài tập, và các
sách tham khảo chuyên môn để xác định nội dung và cấu trúc logic của lớp học.
- Nghiên cứu các tài liệu về hình thức học e
-learning, lớp học trực tuyến và
tác dụng của nó trong việc hỗ trợ quá trình tự học của HS.
- Nghiên cứu, tìm hiểu, lựa chọn hệ thống xây dựng LHVLTT với các chức

năng phù hợp.
 Điều tra tìm hiểu
- Tìm hiểu thực tế dạy học chương “Động lực học chất điểm” th
uộc chương
trình vật lý 10 Nâng cao bằng cách trao đổi trực tiếp với các GV trong tổ vật lý
trong trường. Phân tích kết quả ban đầu, nhận định nguyên nhân và đưa ra hướng
khắc phục.
- Phát phiếu điều tra về khả năng sử dụng máy vi tính và truy cập Internet
của HS lớp 10 ở trường THPT Nguyễn Khuyến Q.10.
- Phát phiếu điều tra tìm hiểu về tác dụng mà những hỗ trợ của LHVLTT
đem lại cho HS.
 Nghiên cứu thực ng
hiệm
- Nghiên cứu thiết kế các nội dung cụ thể có trong LHVLTT, cách thức sử
dụng LHVLTT nhằm hỗ trợ cho việc tự học vật lý của HS có kết quả tốt nhất.
- Nghiên cứu tìm ra cách thức tổ chức, hướng dẫn HS hoạt động trong các
giờ học thực nghiệm sau khi có sự hỗ trợ từ LHVLTT.
 Thực nghiệm sư phạm
- Tiến hành các giờ dạy trên lớp dưới sự hỗ trợ từ LHV
LTT.

- Ghi nhận, so sánh, phân tích các diễn biến và sự khác biệt của HS trong lớp
thực nghiệm (TN) và HS trong lớp đối chứng (ĐC) trong các bài học cụ thể.
 Xử lí số liệu và phân tích kết quả
- Đánh giá kết quả đạt được. Phân tích những ưu, nhược điểm và đề xuất
hướng phát triển tiếp theo của đề tài.

8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Cung cấp nguồn tài liệu học tập, giúp H
S chuẩn bị, củng cố, mở rộng kiến

thức trong quá trình tự học.
- Đưa công nghệ hiện đại vào trường học, tập cho HS thói quen tự sử dụng
Internet hỗ trợ việc học tập.
- Góp phần nâng cao dần khả năng tự học, tự đánh giá, tự tìm kiếm thông tin
cần thiết cho HS.
- Góp phần nâng cao chất lượng học tập môn vật lý trong trường phổ thông.

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG LỚP HỌC TRỰC TUYẾN
HỖ TRỢ QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA HỌC SINH

 - 
1.1. Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay
Trước sự phát triển ngày càng nhanh của đất nước, để đáp ứng nhu cầu ngày
càng phong phú và đa dạng của xã hội, thực tiễn giáo dục của nước ta hiện nay đã
và đang có những bước đổi mới về tất cả các mặt. Trong đó mục tiêu giáo dục, kim
chỉ nang cho mọi hoạt động đổi mới trong dạy và học, theo điều 2 của Luật Giáo
dục có nêu “Mục tiêu giáo dục hiện na
y là đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bào
vệ Tổ quốc” [61]
Đối với giáo dục phổ thông, theo Chiến lược phát triển giáo dục 2001 –
2010, trong mục 4.
2.b về mục tiêu giáo dục phổ thông có nêu “Thực hiện giáo dục
toàn diện về trí, đức, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có
tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ phát triển các nước trong khu vực. Xây dựng
thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; l
òng
ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc

sống” [8]
Để thực hiện được mục tiêu trên cần có những cải cách đáng kể về mục tiêu,
chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giáo dục (PPGD) mà trong đó PPGD
là một trong những vấn đề được xem là trọng tâm. Theo Chiến lược phát triển giáo
dục 2001 – 2010, trong mục 5.2 về đổi mới và hiện đại hoá PPGD ghi rõ “Chuyển
từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người học
chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự
học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ t
hống và có tư duy phân tích, tổng hợp,
phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tích chủ động, tích tự chủ của HS
trong quá trình học tập …”[8]



1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
1.2.1. Chủ đề năm học 2008 – 2009 : “Năm học đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin”
Riêng đối với năm học 2008 – 2009, nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục
được nhấn mạnh là "Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lý tài chính
và triển khai phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong đó
có đề cập đến việc “đẩy mạnh ứng dụng C
NTT phục vụ đổi mới phương pháp dạy
và học” [7]
Ngay sau khi Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện
Nhân quyết định chọn chủ đề năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin”, phóng viên Cổng thông tin điện tử Chính phủ đã phỏng vấn
ông Quách Tuấn Ngọc - Cục trưởng Cục Công nghệ thông ti
n (CNTT)–Bộ GDĐT,
về bước đột phá của ngành Giáo dục trong lĩnh vực này thời gian qua và công tác
triển khai chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đối với năm học mới

2008-2009 trên phạm vi toàn quốc. Để có cái nhìn rõ hơn về việc ứng dụng công
nghệ thông tin và đặc biệt là về e-learning tôi xin trích một số phát biểu của ông
Quách Tuấn Ngọc trong buổi trao đổi với phóng viên như sau.
Về sự chuẩn bị của cục CN
TT, ông Tuấn Ngọc cho biết “Năm học 2008-
2009 sẽ là bước ngoặt lớn trong lịch sử Internet ở Việt Nam nói chung và trong giáo
dục nói riêng. Ngày 4/1/2008, Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel đã ký văn
bản hợp tác với Cục CNTT về triển khai mạng giáo dục. Theo đó, Viettel cung cấp
dịch vụ kết nối Internet băng thông rộng, kết nối kênh thuê riêng (leased line) qua
đường cáp quang… nhằm giải quyết tình trạng học sinh, sinh viên, giáo viên là
những người cần dùng Inter
net nhất thì lại gặp khó khăn nhất do giá thành cao, do
tốc độ kết nối quá chậm”.
Khi nói về việc năm học 2008 – 2009 ứng dụng công nghệ thông tin như thế
nào, ông cũng nói rõ “Năm học ứng dụng CNTT sẽ tạo ra bước ngoặt mới về việc
làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-learning. Trong những năm qua, Cục CNTT

đã xây dựng website e-learning để tuyên truyền phổ cập công
nghệ, nghiên cứu thử nghiệm và tuyển chọn các phần mềm e-learning thích hợp, đã
Việt hoá phần mềm mã nguồn mở Moodle và đến nay đã có khoảng 70 trường ĐH,
CĐ sử dụng. Cục CNTT sẽ tổ chức chuyển giao các phần mềm công cụ tạo bài
giảng đạt chuẩn quốc tế, phù hợp với yêu cầu Việt Nam cho các Sở.
Bộ Giáo dục và đào tạo (Cục CNTT chủ trì) sẽ tổ chức cuộc thi
giáo viên
làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-learning, giáo viên dạy giỏi ứng dụng
CNTT, nhằm mục đích khuyến khích động viên giáo viên tiếp cận công nghệ mới
cũng như chia sẻ kinh nghiệm. Khẩu hiệu của chúng ta là: Nếu mỗi giáo viên góp
mỗi năm 1 bài giảng e-learning, chúng ta sẽ có 1 triệu bài giảng điện tử trong 1 năm
và nếu bài giảng đó soạn thêm bằng tiếng Anh, c
húng ta có thể chia sẻ với bạn bè

giáo viên ở các nước khác về công nghệ làm bài giảng e-learning.
Cục CNTT cũng sẽ tổ chức tuyển chọn các phần mềm dạy học khác để phổ
biến trên tinh thần tiết kiệm, hợp chuẩn quốc tế, dễ sử dụng và khai thác.
Tại sao lại phải là công nghệ e-learning? Đó là vì e-learning có chuẩn công
nghệ SCORM, AICC được thế giới công nhận, nên có thể chia sẻ bà
i giảng giữa các
nước với nhau, có nhiều công cụ xây dựng bài giảng hợp chuẩn, đáp ứng nhu cầu
học tập mọi nơi, mọi lúc một cách mềm dẻo, có thể học trực tuyến qua Internet,
cũng có thể học ngoại tuyến qua đĩa CD. Đổi lại, chúng ta cũng có thể tận dụng các
nguồn bài giảng của các nước khác” [58]
Như vậy, qua nội dung bài phỏng vấn trên ta có thể thấy không chỉ riêng
ngà
nh giáo dục mà cả xã hội hiện nay đang khá quan tâm đến việc ứng dụng CNTT
trong giảng dạy. Các chủ trương, chính sách và các điều kiện cơ sở vật chất đã và
đang hình thành nhằm tạo điều kiện để đưa những ứng dụng của CNTT vào hỗ trợ
cho việc giảng dạy nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của ngành giáo dục. Trong số
các ứng dụng của CNTT thì hình thức dạy học e-learning đang
được quan tâm khá
nhiều.

Vậy vì đâu mà CNTT, đặc biệt là mạng Internet với một trong những ứng
dụng của nó là hình thức học e-learning, cụ thể là lớp học trực tuyến lại được quan
tâm nhiều đến vậy?

1.2.2. Vai trò của máy vi tính (MVT) và Internet trong dạy học
Đầu tiên ta sẽ xét đến một phương tiện quan trọng và hiệu quả giúp con
người có thể tiếp cận với nguồn thông tin vô tận của nhân loại, máy vi tính (MVT).
MVT là một trong những phương tiện kỹ thuật khá quan trọng, phục vụ c
ho nhiều
hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau của con người. Hiện nay, MVT cũng đã được

sử dụng khá rộng rãi trong dạy học như một phương tiện dạy học hiện đại và hiệu
quả.
1.2.2.1. Máy vi tính đóng vai trò làm phương tiện dạy học
Hiệu quả mà MVT đem lại cho hoạt động dạy và học, cụ thể là dạy và học
m
ôn vật lý là nhờ vào một số chức năng nổi bật sau :
 Chức năng lưu trữ, xử lý và cung cấp thông tin
MVT có khả năng lưu trữ và hiển thị lại một lượng thông tin khá lớn dưới
nhiều hình thức khác nhau từ đơn giản như văn bản, hình ảnh, âm thanh, … cho đến
những hình thức phức tạp hơn như video, hoạt hình. Khả năng xử lý thông tin nhanh
chóng của MVT đã đem lại sự tiện lợi, nha
nh chóng cho người dùng. MVT cùng
với những phần mềm hỗ trợ tích cực có thể giúp cho GV tạo ra những bài giảng đa
dạng, sinh động thu hút sự tập trung của người học. [17]
 Chức năng điều khiển, điều chỉnh, kiểm tra và luyện tập
Việc học tập trên MVT có tính cá biệt khá cao. Người học có khả năng tự
chọn, tự điều chỉnh thời gian học, nội dung học theo trình độ và khả năng của bản
thân. Người học còn có thể lặp lại quá trình học tập một nội dung cụ thể vô số lần
tùy thích. Hơn thế nữa, với sự phát triển nhanh chóng của các phần mềm phục vụ
cho nhu cầu của người dùng cùng với khả năng lưu trữ khá lớn, MV
T có khả năng
lưu trữ kết quả học tập của người học để từ đó kịp thời đưa ra những thông tin phản

hồi giúp cho người học kiểm tra lại kiến thức, tự điều chỉnh quá trình học tập của
bản thân.[14]
 Chức năng minh hoạ, trực quan hoá bằng mô phỏng
Đối với quá trình dạy học môn vật lý nói riêng và các môn học khác nói
chung, muốn cho HS hiểu vấn đề một cách sâu sắc thì phải xây dựng các khái niệm,
các thuyết, các định luật từ sự quan sát trực tiếp. Tuy nhiên, trong điều kiện cơ sở
vật chất còn hạn c

hế, và hơn nữa một số hiện tượng vật lý không thể quan sát trực
tiếp bằng các giác quan thông thường thì lúc này các phương tiện trực quan là rất
cần thiết. Các phương tiện này chẳng những cung cấp cho HS hệ thống kiến thức
bền vững, chính xác mà còn giúp HS kiểm tra tính đúng đắn của kiến thức lý thuyết,
sửa chữa, bổ sung, đánh giá lại chúng nếu không phù hợp với thực tiễn. Có t
hể nói,
trực quan hoá là cầu nối giữa thế giới tự nhiên bên ngoài và bức trang về nó trong
nhận thức con người.
Trong khi đa số các phương tiện dạy học khác khó có thể trực quan hoá hầu
hết các hiện tượng thì MVT với các phần mềm đồ hoạ như PhotoShop,CorelDraw,
3DStudioMax, … hay các phầm mềm diễn hoạt như Macromedia Flash, các phần
mềm lập trình như Visual Basic, Visual C, Turbo Pascal, … lại giúp ích khá nhiều
cho GV. GV có thể dễ dàng tạo r
a sản phẩm là các mô hình tĩnh hay động dùng để
mô phỏng lại các hiện tượng thực tế giúp cho việc dạy và học dễ dàng hơn rất
nhiều.[14]
 Chức năng hỗ trợ thí nghiệm
MVT còn có khả năng hỗ trợ cho các thí nghiệm khá nhiều thể hiện qua các
chức năng cụ thể : [14]
- MVT đóng vai trò là thiết bị đo, lưu trữ và xử lý kết quả.
- MVT dùng để trình bày lại các thí nghiệm đã được chụp ảnh hoặc quay
phim
.
- MVT dùng để mô phỏng các đối tượng thực.

1.2.2.2. Vai trò và chức năng của Internet trong dạy học
Internet là hệ thống mạng thông tin của máy tính được liên kết với nhau trên
phạm vi toàn thế giới, nhờ đó người sử dụng có thể liên lạc với nhau để trao đổi,
dùng chung khai thác các thông tin trên mạng. Các nhà khoa học có thể sử dụng
Internet để tìm kiếm tài liệu và thảo luận với nhau. GV và HS có thể tìm kiếm tài

liệu, phần mềm phục vụ cho việc dạy và học, giải trí. Các nhà kinh doanh thì sử
dụng Internet như một p
hương tiện quảng cáo, giao dịch thương mại, mua bán hàng
hóa. [16]
Một trong những yếu tố cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn vật
lý là việc tìm kiếm nguồn thông tin, tư liệu, hình ảnh, phần mềm phù hợp để bổ
sung, mở rộng những nội dung được đề cập đến trong SGK. Internet chính là nguồn
tư liệu vô tận cho GV và HS.
Hiện nay, mọi loại thông tin, dữ liệu âm
thanh hình ảnh đều có thể chuyển về
dạng kỹ thuật số để các máy tính lưu trữ, xử lý và gửi chuyển tiếp cho nhiều người.
Internet chính là hệ thống mạng thông tin của MVT được liên kết với nhau trên
phạm vi toàn thế giới, nhờ đó người sử dụng có thể liên lạc với nhau để trao đổi,
dùng chung, khai thác các thông tin trên mạng.
 Về dung lượng thông tin
Hiện nay Internet đã trở thành kho thông ti
n khổng lồ và phong phú nhất
trong lịch sử nhân loại với hàng trăm triệu các website liên quan đến tất cả các lĩnh
vực trong đời sống của con người. Số website cùng với lượng kiến thức mà nó cung
cấp đang ngày càng tăng lên nhanh chóng bởi khả năng chia sẻ gần như tuyệt đối
của Internet. [17]
 Về khả năng truy cập
Ngoại trừ một số ít thông tin được bảo vệ thì bất kì người dùng nào sử dụng
Internet dù đang ở đâu đều c
ó thể truy cập được các thông tin có trên Internet. Với
một MVT được nối mạng Internet là người dùng đã có cơ hội tiếp xúc với một kho
tàng kiến thức đồ sộ của nhân loại. [17]




 Về loại hình
Internet có khả năng cung cấp thông tin dưới nhiều dạng khác nhau như văn
bản, âm thanh, hình ảnh, video, … Khả năng này cho phép người dùng tiếp cận
những nguồn tư liệu phong phú và đa dạng hơn rất nhiều so với các loại phương
tiện thông tin khác. [17]
 Về nội dung
Với các công cụ tìm kiếm có sẵn trên Internet như Google, Yahoo, Altavista,
…, GV có thể dễ dàng tìm kiếm, chọn lọc được các trang web có nội dung cần thiết
một cách dễ dàng nhất. [17]

1.2.3. Ưu điểm của dạy học sử dụng CNTT [4]
Khi có sự hỗ trợ của CNTT vào dạy học, ta có thể nhận thấy một số các ưu
điểm rõ rệt.
- HS học không thụ động, có nhiều thời gian để đào sâu suy nghĩ.
- Sử dụng các phần mềm dạy học làm phương tiện hỗ trợ hỗ trợ dạy học một
cách hợp lí sẽ cho hiệu quả cao, bởi lẽ khi sử dụng phần mềm dạy học bài giảng sẽ
sinh động hơn, sự tương tác hai c
hiều được thiết lập. Tính chính xác, khoa học của
các phần mềm này giúp giải phóng HS khỏi những việc thủ công, tốn nhiều thời
gian, dễ nhầm lẫn, nên có điều kiện đi sâu vào bản chất bài học.
- Hai công nghệ hiện đại và ứng dụng có hiệu quả nhất
trong giáo dục – đào
tạo là công nghệ đa phương tiện Multimedia và công nghệ mạng Networking, đặc
biệt là mạng Internet. Hai công nghệ này đã giúp cho con người thực hiện được
khẩu hiệu học ở mọi nơi, học ở mọi lúc, học suốt đời và dạy cho mọi người với mọi
trình độ khác nhau.
- Khi ứng dụng CNTT trong dạy học, vai trò của người GV và HS cũng thay
đổi. GV là người hướng dẫn HS chứ không đơn thuần l
à người “rót” thông tin vào
đầu HS. HS sẽ tiếp xúc được nguồn thông tin khá đa dạng và phong phú, nên các

em cần biết cách đánh giá, lựa chọn những thông tin phù hợp.

HS có thể tận dụng được những hiệu quả mà phương pháp dạy học có sự hỗ
trợ của CNTT đem lại hay không là tùy thuộc vào khả năng đánh giá, lựa chọn và
xử lí các thông tin mà các em được cung cấp, mà cụ thể trong luận văn này chính là
nguồn thông tin được đưa lên sẵn trên lớp học trực vật lý trực tuyến. Để làm rõ điều
này, ta tiếp tục tìm hiểu về sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS
THPT,
là đối tượng mà đề tài hướng đến.

1.3. Sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS THPT [15]
Bước vào năm đầu cấp THPT cũng là lúc đồng thời HS phải tiếp nhận nhiều
sự thay đổi mới mẻ. Sự thay đổi bắt nguồn từ chính bản thân các em, từ lứa tuổi
thiếu niên bước sang giai đoạn thanh niên, cho đến các điều kiện học tập, xã hội đều
gây ảnh hưởng đối với sự phát triển và hoà
n thiện nhân cách của mỗi cá nhân.
1.3.1. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ ở HS THPT
Lứa tuổi HS THPT, tuổi thanh niên mới lớn, tính chủ định được phát triển
mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức. Tri giác có mục đích đã đạt đến mức cao.
Quan sát trở nên có hệ thống và toàn diện hơn.
Ở lứa tuổi này, ghi nhớ chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ,
đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt.
Các em không còn học vẹt, học thuộc lòng một cách
máy móc mà đã biết cách sử
dụng các phương pháp ghi nhớ như tóm tắt ý chính, so sánh, đối chiếu, … Đặc biệt
hơn so với lứa tuổi THCS là các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ.
Các em bước đầu biết được tài liệu nào cần nhớ từng câu, từng c
hữ, nội dung nào
chỉ cần hiểu mà không cần nhớ.
Sự phát triển của cấu trúc, chức năng não, hoạt động tư duy của HS trong

giai đoạn này có thay đổi quan trọng. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy
trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã được học
hoặc chưa đư
ợc học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất
quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển. Những đặc điểm này
tạo điều kiện cho HS thực hiện các thao tác tư duy phức tạp, phân tích nội dung cơ

bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và
xã hội.
Nét nổi bật trong phát triển nhân cách ở lứa tuổi THPT là sự tự ý thức phát
triển mạnh mẽ. Quá trình này rất phong phú và phức tạp. Các em không chỉ có nhu
cầu đánh giá người khác mà còn có nhu cầu đánh giá bản thân một cách sâu sắc
hơn. Đây là những đặc điểm phù hợp cho giáo viên giúp học sinh hình thành kĩ
năng tự kiểm tra,
tự đánh giá, tự điều chỉnh và kĩ năng tranh luận cho HS THPT.
1.3.2. Đặc điểm hoạt động học tập của HS THPT
Sự phát triển trí tuệ của HS cấp THPT đã dẫn đến việc nội dung và tính chất
của hoạt động học tập của các em rất khác so với hoạt động học tập của HS THCS.
Sự khác nhau không dừng ở việc nội dung mà các em phải học ngày một sâu hơn,

mà còn ở chỗ hoạt động học tập của HS THPT đòi hỏi tính năng động và tính độc
lập ở mức độ cao hơn nhiều. Đồng thời chương trình học, mà cụ thể là SGK ở cấp
học này không chỉ đơn giản là tài liệu thông báo các kiến thức có sẵn mà là tài liệu
giúp HS tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề để chiếm lĩnh và vận dụng kiến
thức một cách linh hoạt, chủ động và sáng tạo. Điều nà
y đòi hỏi cần có khả năng tư
duy độc lập khá nhiều.
Các em dần dần ý thức được rằng mình cần học tập như thế nào. Ý thức và
thái độ của các em đối với học tập ngày càng phát triển. Thái độ học tập của HS cấp
THPT được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với lứa tuổi trước. Lúc

này, điều có ý nghĩa nhất đối với các em là động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của
m
ôn học đối với cá nhân, khả năng tiếp thu môn học của các em), động cơ nhận
thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học.
Tuy vậy, hiện nay số HS, nhất là HS đầu cấp THPT, đạt được mức tư duy
đặc trưng c
ho lứa tuổi như trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát
huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm
tính. Để phát triển năng lực nhận thức của các em cần có sự hướng dẫn khoa học
của GV. Sự hướng dẫn, hỗ trợ này không chỉ giới hạn ở thời gian trên lớp, mà cần

biết cách tận dụng mọi khoảng thời gian để hướng các em đến việc phát huy năng
lực, nâng cao hơn nữa hiệu quả học tập.
Với các đặc điểm về sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS THPT
thì đây là lứa tuổi khá phù hợp để hướng dẫn các em cách tự học dưới sự hỗ trợ của
lớp học trực tuyến.
Vậy hoạt động học và tự học của
HS là gì? Những điều kiện nào là cần thiết
cho việc tự học? Vai trò của GV trong việc hướng dẫn HS tự học là gì?

1.4. Hoạt động học và tự học của HS
1.4.
1. Tìm hiểu về hoạt động học tập của học sinh
1.4.
1.1. Hoạt động học tập ([27], [38])
Học là quá trình trong đó dưới sự định hướng của người dạy (người thầy,
GV), người học (HS) tự giác, tích cực, độc lập, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ mô
i
trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và tay chân, nhằm hình thành cấu trúc
tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng hoàn thiện hơn.

Như vậy, ta nhận thấy rằng học chính là quá trình tự biến đổi thông tin bên
ngoài thành tri thức bên trong con người, thông qua hoạt động tái tạo của cá nhân để
hình thành các kĩ năng, kĩ xảo, và sử dụng tri thức giải quyết các vấn đề học tập đặt
ra. Hơn thế nữa, hoạt động học còn hướng đến việc tiếp thu phương pháp dành lấy
tri thức, cách học.
Hoạt động học chỉ có thể đạt kết q
uả cao khi người học biết phương pháp
học. Kết quả của quá trình học tập không chỉ do tập thể sư phạm đánh giá mà quan
trọng hơn nữa đó là sự đánh giá của xã hội, môi trường thực tiễn để người học thể
hiện, vận dụng những gì m
ình đã học. Vì vậy, để tránh được những sai lầm đáng
tiếc thì học cần có sự hướng dẫn, tổ chức và chỉ đạo của người thầy. Hoạt động học
cần được diễn ra trong mối quan hệ biện chứng với hoạt động dạy của thầy.
Mối
quan hệ này có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào hoàn cảnh và năng
lực tự học của người học.

1.4.1.2. Hoạt động tự học
Học thực chất là quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin, là công việc của
người học, do người học, không ai có thể thay thế và chỉ có người học mới có thể
thay đổi chính mình. Vì thế học luôn hàm chứa sự tự học.
Tuy nhiên, tự học thường được hiểu là học không có người thầy bên cạnh.
Cách hiểu như vậy là hơi hẹp. Ngay cả khi có người thầy bên cạnh thì thầy cũng chỉ
có thể hướng dẫn, giảng giải, uốn nắn trực tiếp chứ không thể học thay người học.
Lúc nà
y, thầy đóng vai trò là ngoại lực tác động đến người học. Ngoại lực này phải
tạo được sự cộng hưởng là nội lực cố gắng học tập của trò. Sự cố gắng học tập này
mới đúng là tự học thực sự. Nó tồn tại với “học” như hì
nh với bóng. [20]
Hay tự học còn được hiểu như là quá trình học tập trong đó người học cùng

với những người khác thực hiện các quyết định cần thiết để đáp ứng các nhu cầu
của người học. Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể
tự thể hiện và biến đổi m
ình, tự làm phong phú giá trị con người mình bằng cách
thu nhận và xử lý thông tin lấy từ môi trường sống xung quanh mình. [65]
Tự học có thể xem là một hướng cho giáo dục, tuyệt đối không phải là một
tiêu chuẩn. Quá trình tự học có thể diễn ra với các hình thức khác nhau tuỳ thuộc
vào các HS khác nhau và nó cũng thay đổi theo chủ đề mà HS quan tâm cũng như
khả năng của HS đối với môn học. [65]
Hiệu quả của hoạt động tự học có thể thấy qua sơ đồ lưu giữ thông tin trong
trí nhớ của HS như sau [24]

Lời nói
Hình ảnh
Lời và hình
Lời, hì
nh và hành động
Tự phát hiện
99%
90%
80%
60%
Sau 3 giờ
30%
90%
80%
70%
10%
20%
Sau 3 ngày

Hình 1.1. Sơ đồ lưu giữ thông tin trong trí nhớ của HS

Qua
sơ đồ trên ta nhận thấy việc HS tiếp thu thông tin qua việc GV dùng lời
nói diễn đạt (GV thuyết trình trên lớp) tuy khá dễ dàng và nhanh chóng nhưng chỉ
sau 3 giờ thì lượng thông tin lưu lại chỉ còn 30%, sau 3 ngày thì giảm còn 10%.
Điều này cho thấy cách dạy bằng thuyết trình đem lại hiệu quả không cao, HS sẽ
nhanh chóng quên đi phần lớn kiến thức được truyền thụ. Việc kết hợp lời nói, hình
ảnh và hành động nhằm tác động trực tiếp đến cảm giác, tri giác của HS đem lại kết
quả cao hơn khi sau 3 giờ HS vẫn còn khả năng lưu giữ đến 90% kiến t
hức. Nhưng
do những kiến thức này là do GV cung cung cấp nên sau 3 ngày thì khả năng lưu
giữ giảm xuống còn 80%. Vậy làm cách nào để HS có thể lưu giữ thông tin lâu dài
nhằm sử dụng lượng thông tin này một cách hiệu quả nhất? Đó chính là để cho HS
tự phát hiện ra những kiến thức mới. Mỗi HS là một cá thể hoà
n thiện, kiến thức
thật ra là một dạng kinh nghiệm về một sự việc nào đó có được từ trước, vậy mỗi
HS sẽ có một cách tiếp nhận kiến thức riêng của mình. Khi HS tự trải nghiệm, tự

tìm kiếm con đường để đi đến kiến thức thì kiến thức lúc này sẽ trở thành một phần
của các em và do đó khả năng lưu trữ nó sẽ lâu hơn. (sau 3 ngày, khả năng lưu giữ
thông tin khi HS tự phát hiện lên vẫn còn đến 90%)
Cách thức mà HS tự trải nghiệm để đi đến kiến thức cũng ảnh hưởng khá
nhiều đến thời gian lưu trữ thông tin. Tháp học tập của Geoff Petty, trong The
Learning P
yramid sẽ cho ta thấy điều này. [40]

Tỉ lệ HS nhớ sau 24h



Thực hà
nh
Thảo luận nhóm
Thuyết minh
Nghe -nhìn
Nghe
Dạy các hữu ích khác/ trực tiếp của việc học tập
Đọc
5 %
10 %
20 %
30 %
50 %
75 %
90 %
- Tăng dần
hoạt động và
độ khó nhiệm
vụ cho HS
- Kinh nghiệm
được tăng
thêm trong quá
trình thực hành
HS
chấp
nhận
thông
tin






HS tự
tìm
kiếm
thông
tin cho
việc học







Hình 1.
2 Tháp học tập của Geoff Petty

Các hoạt động của HS được chia làm 7 hoạt động chính được chia theo sự
tăng dần độ khó nhiệm vụ. Trong đó 3 hoạt động đầu tiên : nghe, đọc, nghe-nhìn là
3 loại hoạt động đơn giản nhất, trong đó hoạt động chính của HS là chấp nhận thông
tin nên đem lại kết quả khá thấp (chỉ từ 5% đến cao nhất là 20%). Tr
ong khi đó
nhóm hoạt động mà HS tự tìm kiếm thông tin cho việc học như thuyết minh, thảo

luận nhóm, thực hành, nhận biết các hữu ích của việc học đem lại kết quả cao hơn
rất nhiều (từ 30% đến 90%).
Như vậy ta nhận thấy, hoạt động tự học của HS tuy rất khó khăn và mất
nhiều thời gian, công sức nhưng kết quả đem lại sẽ rất tốt. Kiến thức và kinh

nghiệm trong quá trình tự học sẽ giúp cho kết quả học tập tăng lê
n rất nhiều.

1.4.2. Phân loại hoạt động tự học
Như phân tích ở trên mọi hoạt động học suy cho cùng vẫn là tự học, sự phân
loại hoạt động học dưới đây chỉ dựa vào cách thức tương tác giữa người học - HS
và người thầy - GV.
1.4.2.1. Học trực tiếp (giáp mặt, face to face) với GV [20]
Theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn, hình thức học trực tiếp với GV là hình thức
học
mà HS và GV giáp mặt nhau trên lớp. GV truyền thụ kiến thức cho HS và dẫn
giải cả cách tư duy để đi đến kiến thức, giáo dục cho HS những phẩm chất cần có để
thắng các lực cản trong quá trình học tập.
Với cách học này, ta có thể nhận thấy rằng với sự hướng dẫn trực tiếp của
GV, HS có thể tiếp thu một cách nhanh và chính xác nhất một dung lượng kiến thức
đáng kể. K
hi nghe GV giảng, HS có gì không hiểu có thể hỏi ngay để GV giảng lại
kỹ hơn. Toàn bộ nhân cách của người GV sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến HS. Chỉ cần
một cái gật đầu, một nụ cười hay một cử chỉ tán đồng cũng có thể khuyến khích HS
trở nên tự tin và hứng khởi thêm rất nhiều.
Tuy nhiên, cách học giáp mặt với GV cũng có những khuyết điểm ảnh hưởng
đến hiệu quả học tập của HS.
Nếu lớp học đông, trong một tiết học, GV rất khó trả lời hết tất cả các thắc
mắc của HS. Trình độ các HS chênh lệch nhau, GV việc dạy thế nào cho vừa sức
học của từng H
S cũng không phải dễ dàng. Lúc này ta thường thấy có tình trạng
những HS khá giỏi thì trở nên rất tự tin hơn rất nhiều và đôi khi c
òn trở nên khá tự
phụ, còn những HS yếu kém sẽ càng trở nên rụt rè, nhút nhát. Nếu HS không biết
cách mạnh dạn tự tìm đến câu trả lời bằng cách nguồn tư liệu khác như sách giáo


khoa, bạn bè, nguồn tài nguyên trên mạng Internet, … thì vô hình những vướng mắc
này sẽ trở thành những trở ngại cho quá trình tiếp thu các kiến thức ở những bài học
sau.
Hơn thế nữa, thuận lợi khi gần GV có thể trở thành khó khăn khi HS dễ ỷ lại
vào GV, ít chịu động não đến cùng mà sớm phản ánh lên GV để tìm lời giải đáp.
Thói quen này lâu ngày sẽ làm các em mất dần đi khả năng suy nghĩ độc lập, trở
nên rập khuôn m
áy móc và dễ dàng gặp lúng túng khi phải đối mặt với các tình
huống mới mẻ chưa được hướng dẫn qua.
1.4.2.2. Học không có GV bên cạnh – Tự học ([20],[65])
Học tập vốn là quá trình tương tác giữa HS với GV và giữa các HS với nhau.
Do đó, tự học không có nghĩa là quá trình học bị tách biệt với bên ngoài. Quá trình
tự học của HS là quá trình trong đó HS tham gia vào các hoạt động cùng với những
người khác với tư cách là một cá nhân trong lớp học nói riêng và trong một xã hội
lớn nói chung. N
hững HS khác nhau sẽ có những mức độ tự học khác nhau, tùy
thuộc vào các yếu tố như tuổi tác, kĩ năng, trình độ và khả năng của HS đối với một
chủ đề cụ thể. Vì vậy có thể tạm chia ra thành hai loại là tự học có hướng dẫn của
GV và tự học hoàn toàn.
a. Tự học có hướng dẫn của GV
Tự học có hướng dẫn của GV nghĩa là tuy HS ở xa G
V, nhưng vẫn có mối
quan hệ trao đổi thông tin giữa HS và GV, bằng phương tiện thô sơ hay hiện đại,
dưới dạng phản ánh thắc mắc, giải đáp thắc mắc, làm bài, chấm bài.
Tự học dưới sự hướng dẫn của GV đem lại nhiều ưu điểm thuận lợi cho quá
trình tiếp thu tri thức, rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo và gi
úp HS tích lũy kinh
nghiệm, biết cách sử dụng các kiến thức thu nhận được một cách hiệu quả nhất.
Sự hướng dẫn của GV sẽ giúp cho HS tránh bớt tình trạng lẩn quẩn, lúng

túng trong quá trình tự tìm hiểu vấn đề. Giúp HS chọn lọc những kiến thức cần thiết
và phù hợp với khả năng của mỗi HS. Sự dẫn dắt, gợi ý, định hướng từ phía GV sẽ
giúp cho HS khám phá và nắm bắt kiến thức một cách hợp lý và nhanh c
hóng.

Sự hướng dẫn này chỉ dừng ở việc gợi ý, định hướng chỉ đạo chứ không đi
sâu vào giảng giải, chỉ dẫn cụ thể các vấn đề, do đó tuy rút ngắn bớt thời gian các
em tìm tòi nhưng vẫn có thể giúp các em rèn luyện và hình thành tác phong làm
việc độc lập. HS biết cách tự tìm đến các nguồn tài liệu tham khảo trước khi tìm đến
sự giải đáp của GV. Bên cạnh đó, sự xác nhận, khẳng định tính đúng đắn, chân thật
của một vấn đề sẽ tạo niềm
tin khoa học vững chắc cho HS. [20]

b. Tự học hoàn toàn
Tự học hoàn toàn là hình thức học cần đạt đến để có thể học suốt đời. Người
học mà cụ thể ở đây là HS sẽ tự tiến hành hoạt động của mình bằng ý chí và năng
lực trí tuệ, bằng vốn kinh nghiệm
cá nhân, mà không hề có được bất kỳ sự hướng
dẫn bên ngoài nào, nhằm thay đổi chính bản thân mình.
Tự học hoàn toàn giúp HS rèn luyện óc sáng tạo, học được tính tự tin, tính
vượt khó và tính kiên trì khi gặp phải các vấn đề phức tạp.
Bên cạnh đó, tự học hoàn toàn cũng tồn tại một số nhược điểm. Hình thức
học này sẽ mất khá nhiều thời gian do thiếu sự hướng dẫn từ người thầy.
Do thiếu
đối tượng để so sánh, người học lại dễ tự mãn với những gì mình có. Và một nhược
điểm lớn nhất là do tự học hoàn toàn nên người học có thể hiểu lệch vấn đề dẫn đến
sai lầm về nhận thức. [20]
Với đối tượng nghiên cứu là HS THPT với các đặc điểm về hoạt động học
tập và sự phát triển trí tuệ của các em, tôi chủ trương hướng đến nghiê
n cứu về hoạt

động tự học có hướng dẫn của GV. Đây sẽ là bước đầu, là nền tảng để hướng đến
việc tự học hoàn toàn sau này của các em.
c. Tự học và vai trò của tự học
Quá trình học tập là một quá trình lâu dài, vượt ra khỏi bối cảnh trường học.
Những HS hiện nay sẽ là những công dân của xã hội mai sau, vì vậy các em rất cần
có khả năng độc lập như một trong những kĩ năng sống cần t
hiết để hỗ trợ các em
trong việc phải liên tục đương đầu với những tình huống, những kinh nghiệm mới.
Tự học và những kĩ năng, những kinh nghiệm, những kiến thức mà nó đem lại sẽ là

những động lực, những tiền đề giúp các em phân tích những tình huống và phát
triển các phương pháp tiếp cận vấn đề một cách phù hợp và hiệu quả nhất.
Tự học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ giúp cho HS biết cách tự
chịu trách nhiệm với các hành động của mình. Mỗi HS sẽ ý thức được rằng kết quả
của mọi việc có thể bị ảnh hưởng bởi chính sự nỗ lực của chính các em, và ý thức
này sẽ là yếu tố qua
n trọng giúp cho các em luôn sẵn sàng với những trở ngại trong
học tập nói riêng và trong cuộc sống nói chung.
Hơn thế nữa, trong xã hội ngày nay khi mà hầu hết các mặt đời sống của
chúng ta hiện nay có nhiều khả năng thay đổi sâu sắc thì khả năng tự học sẽ giúp
con người có thể đáp ứng được các nhu cầu thay đổi của cuộc sống.
Cuối cùng, thông qua việc tự học
ngay từ khi còn là HS phổ thông mà tất cả
các kiến thức (từ kiến thức khoa học đến các kiến thức thông thường trong đời sống
hằng ngày) sẽ được khái quát hoá thành một hệ thống thống nhất, liên hệ chặt chẽ
với nhau. Tự học có thể ví như một chiếc xe tải chở đầy hàng hoá là những kiến
thức, những kĩ năng, những ki
nh nghiệm mà HS đã thu thập được, đã được xếp gọn
gàng để đi theo suốt cuộc đời sau này của các em. [65]
1.4.3. Điều kiện cho hoạt động tự học của HS [25]

Hoạt động tự học là hoạt động đòi hỏi nhiều nỗ lực, sự chuyên cần, sự ham
thích của chủ thể. Để đáp ứng được điều này, cần có những điều kiện thiết yếu như :
giúp H
S nhận thức về tầm quan trọng của tự học, tạo cho HS động lực học tập, cung
cấp, hướng dẫn HS tìm đến tài liệu học tập.
 Nhận thức về tầm quan trọng của việc học
Hành động là kết quả của nhận thức. Nhận thức đúng dẫn đến hành động
đúng. HS chỉ có thể tiến hà
nh tự học khi nhận thức được tầm quan trọng của tự học.
Để nâng cao nhận thức của HS về tầm quan trọng của tự học, GV phải là người
thường xuyên giáo dục các em về mục đích của tự học thông qua các hoạt động:
 Giao công việc cụ thể cho từng cá nhân và từng nhóm

×