Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Cấu trúc tự sự "Kafka bên bờ biển" theo cách nhìn phân tâm học pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.72 KB, 6 trang )

Cấu trúc tự sự "Kafka
bên bờ biển" theo cách nhìn
phân tâm học




Hành trình của nhân vật chính của hai tuyến truyện, tuyến 1 là Kafka và tuyến 2 là
Nakata đều có điểm xuất phát chung là khởi đầu từ Tokyo và điểm đến cuối cùng là
thành phố Shikoku, còn quá trình thực hiện chuyến đi thì có vẻ hơi khác nhau nhưng
thực chất giống nhau, Kafka đi thẳng một mạch, còn Nakata phải chuyển xe ba lần. Cả
hai đều có một nơi tập kết chung, đó là thư viện tưởng niệm Komura. Đối với Kafka, khi
đến thư viện này cậu sẽ có được một giải pháp nào đó mà trực giác của cậu mách bảo
cậu, còn đối với Nakata thì thư viện tưởng niệm Komura, sau khi đã tìm được phiến đá
cửa vào và được phiến đá “mách bảo”, chính là nói lão đang cần tìm và kỳ lạ thay khi
đến trước thư viện ấy thì lão lại đánh vần được cái tên của thư viện. Thư viện, xét về bản
chất, là kho báu dự trữ những hiểu biết của chúng ta mà theo cách nhìn phân tâm học,
liên quan đến các giấc mơ, nó tượng trưng cho những hiểu biết tinh thần, những tri thức
sách vở, biểu trưng cho sự hiểu biết trong ý nghĩa là các kinh nghiệm sống đã được minh
chứng và được ghi lại, những kinh nghiệm sống cần thiết cho mọi người, mọi thế hệ. Vì
thế đến với thư viện, Kafka sẽ mở rộng và bổ sung được cái cậu còn thiếu, còn Nakata
sẽ tìm thấy ở đây cái đã kết tinh liên quan tới cái cửa vào đã được mở, hiển nhiên là cái
lão cần tìm có mối liên hệ ngầm ẩn với lời nguyền định mệnh, liên quan tới “mặc cảm
Oedipe”, cho nên cách tìm của lão cũng rất đặc biệt, gắn với bản năng vô thức nhiều
hơn: “Rồi, tựa như một con chó con, lão đi một vòng xung quanh phòng đọc, quan sát tỉ
mỉ mọi thứ, sờ cái này, hít hít cái kia, thi thoảng dừng ở một điểm chọn lọc, quắc mắt
nhìn trừng trừng” (tr.427).
Còn Kafka đã đi từ khám phá này tới khám phá khác, trước hết là bài hát Kafka
bên bờ biển với hình ảnh bà Saeki lúc mười chín tuổi in trên bao đĩa hát, rồi sau đó là
bức tranh Kafka bên bờ biển được treo trong căn phòng đặc biệt của thư viện và cũng rất
đặc biệt là cậu lại được bố trí vào ở ngay trong căn phòng ấy, để rồi cô gái liên quan tới


cậu bé trong tranh kia đêm đêm lại hiện về trong giấc ngủ chập chờn nửa mê nửa tỉnh,
trong trạng thái mà cái vô thức thống ngự, của chính Kafka bằng xương bằng thịt. Bài
hát là của Saeki, bức tranh cũng liên quan tới Saeki, còn cô gái mười lăm tuổi vĩnh viễn
kia cũng chính là Saeki - một Saeki của quá khứ, một Saeki của vô thức, của cái phi ngã
đã có dịp, có thời cơ để vượt thoát sau nhiều năm tháng nằm trong sự kiểm soát của
chính bà Saeki. Sự có mặt của Kafka trong thư viện trở thành tác nhân kích thích khơi
dậy mối tình đã chết trong tâm thức của bà Saeki, khi có thêm Kafka thì mọi việc lại
khác, cái khác ở đây chính là “mặc cảm Oedipe”, tạo nên hình thức “đồng thanh tương
ứng, đồng khí tương cầu”. Cho nên Oshima đã từng nghe bài hát nhưng anh ta không
cảm được tinh thần của bài hát thể hiện qua giai điệu âm thanh, qua vần điệu của lời và
tình cảm của người thể hiện bài hát đó, anh ta cũng vô cảm trước bức tranh; còn Kafka
thì hoàn toàn khác, Kafka thấy được mình hiện hữu trong bài hát, hiện hữu trong bức
tranh, bài hát và bức tranh là một phần cuộc sống của cậu, liên quan tới máu thịt cơ thể
cậu, như thể chúng được gá lắp trong gien di truyền của cậu. Vì thế, sau khi qua đời, bà
Saeki đã để lại bức tranh cho Kafka: “Xét về căn nguyên, bức tranh đó là của cháu”.
“Mặc cảm Oedipe” vốn đã có sẵn trong cậu, lại được kết hợp với cái vô thức thường
trực vô biên trong bà Saeki sẽ tạo ra những chuỗi sự kiện sau này như đã nói ở các phần
trên.
Chú bé Kafka, với “mặc cảm Oedipe” đeo đẳng từ những ngày thơ ấu, cũng đồng
nghĩa với việc chú đã chạm tay vào phiến đá cửa vào, đã phần nào mở được nó, đã sống
một lần trong khoảng thời gian chưa phải là dài qua các biểu hiện sống khép kín ở nhà,
sống khép kín ở trường, không có bạn bè thân thích, không có ai quan tâm tới cậu, cậu
sống như trong trạng thái bản năng ngay giữa thời đại computer. “Mặc cảm Oedipe”
trong tác phẩm này ngoài ý nghĩ thường trực trong đầu chú bé, còn là phiến đá cửa
vào, phiến đá hình tròn gợi mở tất cả những vùng khêu gợi khoái cảm mang hình dáng
dạng tròn trên cơ thể người phụ nữ mà một khi đã sao chép, chụp lại… những vùng
khoái cảm hình tròn ấy thì đêm mơ ngày mộng, thì sự kích thích phát triển tính dục cũng
sẽ là chuyện đương nhiên và những bài học trên phim ảnh sẽ được thực hành trong cuộc
sống dưới đủ mọi hình thức từ thủ dâm cho tới loạn dâm, từ bạo dâm cho tới khổ dâm
của tuổi dậy thì.

Để giải quyết trường hợp của chú bé Kafka, Haruki Murakami đã tạo ra giải pháp
thứ nhất là đưa chú lên rừng, nơi thể hiện tất cả sự mạnh mẽ của sự sống, vừa mang lại
lo âu vừa tạo ra sự bình tâm thanh thản, vừa bị ức chế vừa yêu thương. Rừng trong tiếng
Bồ Đào Nha là Madeira có nguồn gốc từ materia mà trong materia có căn từ là mater -
nghĩa là mẹ, do đó, trở về rừng có thể hiểu là trở về với mẹ, trở về với yêu thương của
tình mẫu tử. Giải pháp thứ hai là đưa chú về với biển, trong tiếng Pháp biển là mer đồng
âm với từ mẹ là mère, và đó cũng là một phần của ý nghĩa của bức tranh Kafka bên bờ
biển và việc được giữ lại bức tranh ấy sau khi bà Saeki mất. Như vậy, có thể thấy rằng
mối quan hệ tình cảm giữa mẹ và con là hết sức quan trọng, người mẹ tạo ra ở đứa con
của mình tình cảm và kèm theo đó là sự hình thành nhân cách của trẻ. Vì thế câu cuối
cùng của tác phẩm khẳng định khi Kafka ra khỏi rừng thì chú bé đã trở thành một bộ
phận của thế giới mới toanh là rất có ý nghĩa, gắn với sự tự vượt mình, gắn với việc cái
tôi ý thức trở lại với khả năng điều chỉnh các hoạt động tự thân của chú. Nguyên tắc
khoái cảm tìm được sự đồng thuận của nguyên tắc thực tế, đưa chú bé trở lại quỹ đạo
của con người bình thường, nghĩa là phiến đá cửa vào đã được, trong thời điểm này,
đóng lại.
Ở tuyến 2 là dòng thời gian vận động gắn với hành trình của Nakata, vận động đi
tìm phiến đá cửa vào, gắn với sự di chuyển của không gian qua các địa điểm khác nhau
từ Tokyo tới Shikoku; còn ở tuyến 1 là kiểu thời gian ngưng đọng gắn với dòng độc
thoại nội tâm, gắn với suy nghĩ của nhân vật Kafka, cho nên dù nhân vật có đọc sách,
tắm rửa thì tính chất ngưng đọng vẫn là rất lớn, gắn với các không gian cụ thể, khép kín
như phòng đọc sách, phòng ngủ hay căn lều trong rừng. Hoạt động của Kafka trong các
không gian này về cơ bản là khám phá tìm hiểu mà có thể nói là đi tìm những mảnh ký
ức đã bị quên lãng trong cái thế giới đang vận động, đấu tranh chống lại sự quên lãng là
khá rõ ở nhân vật này, do đó, việc lần tìm qua các trang sách, hay lục tìm trong trí nhớ
gắn liền với kiểu thời gian mang tính ngưng trệ đó. Câu chuyện của Kafka là cái vô thức
phi ngã được tiếp cận bằng ý thức của cái tôi qua đó thể hiện cái vô thức đã có và đồng
thời cũng tạo ra một vô thức khác thể hiện qua hành trình khám phá của nhân vật. Câu
chuyện của Nakata được rọi chiếu bằng cái siêu tôi – siêu ngã để làm sống lại cái tôi ý
thức, gắn với kiểu thời gian tịnh tiến theo chiều gia tăng từ quá khứ về hiện tại và cũng

là một kiểu đấu tranh để chống lại sự quên lãng mà cách kể từ bên ngoài thông qua các
mảnh ký ức được nhớ lại ấy để kết nối chúng thành một mạch kể. Hai kiểu thời gian kể
này qui định cách thức trần thuật và ngôi kể của hai mạch truyện.
Hình thức giải tỏa quan trọng nhất đó là giải tỏa bằng giấc mơ. Bản thân giấc mơ là
sự ngụy trang, là hình thức đeo mặt nạ che đậy những khát vọng, những thèm muốn bản
năng. Giấc mơ là con đường lí tưởng để dẫn tới thế giới vô thức. Do đó, giấc mơ chứa
đựng trong nó một kho tàng vô tận các dấu hiệu mơ hồ, đa nghĩa, những dấu hiệu đó được
biểu thị qua những hình ảnh xa lạ, gắn với một thế giới xa lạ, đến nỗi người có giấc mơ ấy
luôn luôn tự hỏi giấc mơ ấy có ý nghĩa như thế nào đối với họ, có liên quan gì tới cuộc
sống hiện tại của họ. Vì giấc mơ là một hiện tượng mang tính chất xã hội đã tồn tại từ khi
có xã hội loài người cho nên việc giải mộng đoán mộng cũng đã trở thành một lĩnh vực
được con người quan tâm từ rất sớm. Liên quan đến nhân vật Kafka là những giấc mơ đặc
biệt. Trước hết là giấc mơ liên quan tới “bóng ma” theo cách gọi của chủ mà bóng ma này
không phải là ai khác mà chính là hình ảnh của bà Saeki thời thanh xuân, nghĩa là hình
ảnh cách thời điểm chú mơ khoảng hai ba mươi năm. Bóng ma ấy xuất hiện trong mấy
đêm liền bao giờ cũng vào khoảng hai ba giờ sáng. Bóng ma này liên quan tới bức tranh
treo trên tường vốn là kỉ niệm đặc biệt gắn với cuộc đời của chính bà Saeki. Từ đây, giấc
mơ này tham gia giải tỏa sự dồn nén tính dục của Kafka và đương nhiên vế đầu tiên của
lời nguyền mà cha chú đã ném ra cho chú, vế đầu tiên mà chú đã tự coi là nó được gắn
trong gien tạo nên cơ thể chú, được thực hiện. Giấc mơ thứ hai liên quan đến cô gái
Sakura, người trạc tuổi chị gái cậu. Đây cũng là giấc mơ về tình dục, “một giấc mơ tục
tĩu” (tr.529), và với giấc mơ này, vế thứ hai của lời nguyền định mệnh được hoàn tất.
Trong tác phẩm còn có hai hình ảnh mang tính biểu tượng rất đặc trưng của tiểu
thuyết này. Đó là “một vật dài trăng trắng đang oằn oại trườn ra từ miệng Nakata”, “Cỡ
bằng bắp tay đàn ông”, “Thân nó ướt và lầy nhầy” và hình ảnh thứ hai là cái lưỡi của
Johnnie Walker “dài và to tướng, nó giãy dụa như một con nhuyễn thể khổng lồ, thốt ra
những lời tăm tối” (tr.493). Có thể coi loại sinh vật nhuyễn thể này như là một hóa thân
khác của mặc cảm Oedipe, của bản năng tính dục mà khi đã thâm nhập vào trong con
người (bằng sự tò mò mang tính trẻ con, bằng những tác động khác tác động vào các
giác quan như thị giác, thính giác, khứu giác và nhất là xúc giác…) thì nó tham gia chi

phối thế giới vô thức hoành hành trong thế giới phi ngã, chế ngự ý thức, nhưng cũng có
thể là nó đã có sẵn trong ta, phục sẵn trong thế giới vô thức ấy và chỉ chờ dịp phiến đá
cửa vào được mở ra là ngay lập tức nó phát huy sức mạnh của nó, sức mạnh chế ngự cái
tôi bản ngã. Do đó, khi phiến đá cửa vào mở cho nó ra thì cũng chỉ có thể dùng phiến đá
cửa vào ấy để chế ngự nó lại và tiêu diệt nó. Đó cũng chính là vũ khí mà Hoshino dùng
để giết chết loại sinh vật nhuyễn thể đặc biệt này. Cũng như vậy khi con nhuyễn thể ấy
đội lốt cái lưỡi thì cũng chỉ có thể rút cái lưỡi kí sinh chuyên thốt ra những lời nguyền
độc địa ấy ra khỏi con người mới là cách tiêu diệt nó tốt nhất. Trong ý nghĩa chung nhất,
con người phải làm chủ bản thân mình, phải luôn thường trực trên cái tôi ý thức mới
chiến thắng những cái tầm thường mà cái vô thức mở ra, hay trỗi dậy, và trước hết là
chiến thắng nỗi sợ hãi bản năng trong mỗi con người.
Văn học nói chung tác phẩm văn học nói riêng, xét từ một góc độ nào đó, chính là
sự tranh luận về bản thân cuộc sống đương tồn tại, trao đổi bàn luận về những kinh
nghiệm sống của mọi thời để nhằm hoàn thiện cuộc sống đang diễn ra. Việc đọc tác
phẩm văn chương, ở một góc độ nào đấy, cũng là sự kiểm nghiệm những kinh nghiệm
sống cá nhân đã có để thu nhận thêm những kinh nghiệm sống mới cần thiết cho bản
thân cuộc đời. Việc vận dụng lý thuyết phân tâm học bước đầu để nhìn nhận thêm các
giá trị của tác phẩm này cũng là điều cần thiết, bởi vì “sự nghiệp của Freud là sự phân
tích sâu sắc nhất mà con người đã biết tới về cái không phải là con người nhất trong mỗi
con người (Roland Dalbier)”
(3)
, mà cái không phải là con người nhất trong mỗi con
người này đang là mục tiêu khám phá của các nền văn học lớn đang vươn mình trong xu
thế hội nhập toàn cầu

×