Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

“Phức cảm Genji” trong tiểu thuyết "Kafka bên bờ biển" của Haruki Murakami potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.25 KB, 6 trang )

“Phức cảm Genji” trong tiểu
thuyết "Kafka bên bờ biển" của
Haruki Murakami





Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của văn học Nhật Bản, nền văn học duy tình (đề cao tình
cảm). Với tính chất này, văn học luôn đặt yếu tố tình cảm lên hàng đầu và không bao giờ đi
chệch con đường ấy. Đạo đức, vì vậy trở thành yếu tố thứ yếu sau tình cảm. Văn hóa, văn học
Nhật Bản không xem xét các vấn đề dưới góc độ đạo đức, kể cả đời sống tình dục của cá nhân:
“Đời sống tình dục cá nhân trong lịch sử văn hóa Nhật Bản hầu như chưa bao giờ được đưa ra
phán xét dưới quan niệm đạo đức”
(5)
. “Phức cảm Genji”- mối quan hệ giữa Genji với mẹ kế
Fujitsubo được xây dựng từ đặc trưng văn học sắc tình này. Mặt khác, văn học Nhật Bản từ
trước đến nay thường không có đề tài “cấm kị”, kể cả những vấn đề nhạy cảm nhất của đời
sống tình cảm con người như tình yêu đồng tính, tình yêu trong tôn giáo…
Thứ hai, trên phương diện tâm lí, tính cách dân tộc, Takeo Doi- tiến sĩ tâm lí học nổi
tiếng người Nhật đã khám phá đặc điểm tâm lí người Nhật trong công trình khoa học Giải
phẫu sự phụ thuộc
(6)
. Công trình này được đánh giá cao vì sự nỗ lực tìm kiếm và khám phá bản
chất của lối tư duy Nhật Bản. Kế thừa những thành tựu tâm lí học hiện đại của thế giới cùng
với kinh nghiệm của một bác sĩ chuyên khoa tâm lí học thần kinh, Takeo Doi đã rất thuyết
phục khi lí giải những đặc điểm tâm lí phức tạp và “khó hiểu” của người Nhật trong mắt người
phương Tây. Ở công trình này, Takeo Doi gọi “phức cảm Genji” mà chúng tôi đang bàn đến
bằng thuật ngữ AMAE. Ông coi đó là chìa khóa vạn năng mở cửa thế giới tâm hồn của người
Nhật: “Amae trước hết và chủ yếu là một cảm xúc, một cảm xúc có cùng bản chất với một
xung năng và có gì đó mang tính bản năng ở cơ sở của nó (…), “là khao khát của đứa con mới


sinh được gần gũi mẹ nó, và theo nghĩa rộng hơn, ham muốn chối bỏ việc xa lìa là phần không
tránh khỏi của nhân sinh, và xoa dịu sự phiền muộn liên quan đến sự xa lìa ấy”
(7)
.
Đặc trưng cơ bản của amae, theo Doi: “Amae không phải là một cảm xúc được trải
nghiệm mà là một ước mong ẩn giấu”. Cảm xúc này có tính phổ quát chung cho toàn nhân loại:
“Gốc rễ của những tình cảm amae dường như có cái gì đó mang tính bản năng chung cho cả
nhân loại, cái mà tôi gọi tên là xung năng hướng tới sự phụ thuộc”
(8)
. Doi còn giải thích thêm:
“Amae tồn tại ngay cả trong xã hội phương Tây mà không được cảm nhận rõ rệt một cách ý thức
đúng như nó là”
(9)
, và ông cho rằng sở dĩ người phương Tây không “cảm nhận một cách rõ rệt”
như vậy vì họ không có “từ” để gọi tên nó như là từ “amae” trong ngôn ngữ của người Nhật.
Về nguồn gốc tâm lí amae, Doi đưa ra kết luận: “Nguyên mẫu của tâm lí amae là ham
muốn của đứa bé được gần gũi mẹ, người mà nó bắt đầu nhận ra một cách mơ hồ là một tồn tại
tách rời khỏi bản thân nó” “Tâm lí amae vận hành để nuôi dưỡng cảm giác hợp nhất giữa mẹ
và con. Theo nghĩa đó, não trạng amae có thể định nghĩa là cố gắng chối bỏ việc tách rời vốn là
một phần không thể tách rời của sự sống con người và xóa mờ nỗi đau chia lìa
(10)
.
Cơ chế vận hành của tâm lí amae ở não trạng người Nhật đã giải thích vì sao: “trong con
mắt người phương Tây, cảm giác tội lỗi của người Nhật có vẻ khá mờ nhạt (…). Có lẽ là do
trong khi người phương Tây có chiều hướng nghĩ về cảm giác tội lỗi như một vấn đề bên trong
của cá nhân, thì người Nhật không nghĩ thế”
(11)
.
Như vậy, với đặc trưng tâm lí amae, người Nhật chấp nhận một cách tự nhiên những
xúc cảm kiểu như “phức cảm Genji”. Điều này đã giải thích tại sao, trong cùng một hoàn cảnh

nhưng Genji lại không có mặc cảm tội lỗi như Eudipe. Hành động của Genji không bị kết án
như Eudipe.
Từ Genji monogatari, “phức cảm Genji” trở thành một kiểu xúc cảm mang tính “cổ
mẫu” của văn học Nhật Bản. Nó có thể được lí giải từ góc độ “cội rễ” của văn hóa Nhật Bản.
Xuất phát từ tín ngưỡng thờ Mẫu, người Nhật tôn thờ nữ thần Mặt trời và coi đây là người mẹ
đầu tiên của dân tộc. Sự gần gũi, dịu dàng, tận tụy của người phụ nữ làm cho người đàn ông
thấy họ giống với hình ảnh người mẹ trong tiềm thức. Người mẹ chính là “người nữ vĩnh
cửu” trong tâm thức của người Nhật. Hình ảnh người mẹ nằm ở tầng sâu nhất của tiềm thức
phương Đông, trong khi đó “cơ sở của những lối tư duy và cảm nhận của người phương Tây
có người cha”. Thiền giả Nhật Bản Suzuki Daisetsu đã nói: “Người mẹ ôm lấy mọi thứ trong
một tình yêu vô điều kiện, không có vấn đề đúng, sai. Mọi thứ đều được chấp nhận không có gì
khó khăn hay cần căn vặn. Tình yêu ở phương Tây luôn chứa đựng một cái bã của quyền lực.
Tình yêu ở phương Đông thì ôm lấy tất cả”
(12)
.
Các nhà văn lớn của Nhật Bản như Kawabata (Xứ tuyết; Ngàn cánh hạc), Tanizaki (Cầu
mộng)… và đến Haruki Murakami (Kafka bên bờ biển) đều đề cập đến kiểu “phức cảm” này.
Tanizaki (1886 - 1965), trong tiểu thuyết Cầu mộng của ông, “phức cảm Genji” được
khám phá ở góc độ những ám ảnh về mẹ (mẹ ruột và mẹ kế) của cậu bé và sau này là một
chàng trai trưởng thành. Một hoài niệm ấu thơ mà ở đó, “phức cảm Genji” được miêu tả trong
vẻ đẹp phù du, ảo mộng của cuộc đời, trong sự lẫn lộn giữa thực- mộng và tình.
Với Kawabata (1899 - 1972), hình ảnh người mẹ trong người tình là một kiểu hình
tượng rất đặc trưng được nhà văn khéo léo chắt lọc từ cảm xúc tinh tế của các nhân vật nam,
khi gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với các cô gái trinh bạch. Họ tìm lại hình ảnh của người mẹ
trong bóng dáng của người tình.
Đến Murakami, trong tác phẩm của ông, đặc biệt là Kafka bên bờ biển, nhà văn đã xây
dựng mối quan hệ “bất thường” giữa Kafka Tamura và Miss Saeki. Mối quan hệ ấy là sự
phóng chiếu của tâm lí amae và lối tư duy Nhật Bản. Murakami đã triển khai “phức cảm
Genji” trong Kafka bên bờ biển bằng phương thức biểu hiện mới: cảm quan phương Tây và
Phân tâm học Freud.

Khi gặp gỡ Miss Saeki, Kafka linh cảm mơ hồ đó chính là người mẹ mình đang tìm
kiếm. Miss Saeki đẹp dịu dàng, có nụ cười đẹp như ánh sáng của vầng trăng bạc đã khơi dậy ở
Kafka “xung năng hướng tới sự phụ thuộc” một cách mãnh liệt. Hành vi “lấy mẹ” của Kafka
có nguyên nhân sâu xa là sự khao khát kiếm tìm tình cảm; là bản năng yêu thương và được yêu
thương của cậu bé bị bỏ rơi, cô độc giữa cuộc đời. Theo Takeo Doi: “Thực tế không có amae
thì không thể thiết lập mối quan hệ mẹ con và không có mối quan hệ mẹ con thì sự trưởng
thành thực sự của đứa trẻ là không thể có (…) Như thế, amae đóng vai trò không thể thiếu
trong một đời sống tinh thần lành mạnh”
(13)
. Phải chăng Murakami muốn hướng tới điều này
khi thiết lập mối quan hệ tình cảm giữa Kafka và Saeki? Cậu bé trưởng thành đã tìm thấy
nguồn cội của mình, đã tìm ra lời giải đáp cho số phận trong “sự hòa hợp” với người mẹ sinh ra
mình.
Miss Saeki - người phụ nữ ở tuổi ngũ tuần, mang nhiều ẩn ức, có cuộc đời huyền thoại,
được Murakami miêu tả như biểu tượng của “tính nữ vĩnh cửu”. Nhà văn đã xử lí khéo léo dấu
hiệu vô thức ở Saeki bằng lí thuyết phân tâm học để hóa giải sự thật khó chấp nhận thành một
điều tất yếu, biến cái phi lí thành cái có lí. Đây cũng là đặc điểm nổi trội trong cảm quan tự sự
của Murakami: mọi điều đều có thể xảy ra trong thế giới mà chúng ta đang sống, vì thế giới
này là một thế- giới- không- hoàn- hảo. Miss Saeki sống bằng kí ức của mối tình đầu năm 15
tuổi, kí ức này đã ám ảnh bà suốt cuộc đời trong một nỗi đau dịu ngọt: “Kí ức làm ấm lòng ta
từ bên trong, đồng thời nó cũng xé nát tim ta”
(14)
. Đến khi bà gặp Kafka, sự giống nhau một
cách kì lạ giữa Kafka và người tình tuổi mười lăm của bà đã đánh thức bản năng vốn ẩn sâu
trong tiềm thức của người phụ nữ chịu nhiều đau thương do những điều phi lí của số phận. Sự
chung đụng thể xác với Kafka là sự cứu rỗi và thanh lọc tâm hồn đối với Saeki. Bà đã thoát
khỏi sự ràng buộc của quá khứ, đối mặt và chấp nhận cái chết thanh thản sau khi giao lại bản
thảo hồi kí về cuộc đời mình cho ông già Nataka. Ý nghĩa của mối liên hệ, của sự chung đụng
Kafka- Saeki, vì thế có giá trị kép.
Động lực chính để Murakami miêu tả, lí giải mối quan hệ Saeki- Kafka là “phức

cảm Genji” nhưng cũng không thể phủ nhận phương diện “vô thức” trong mỗi con
người. Vì vậy, hành vi của Kafka còn chịu sự chi phối của một “lực đẩy vô hình” của
“bản năng”, “xung năng sống” ở cậu bé 15 tuổi. John Updike trên tờ The New Yorker
xác tín điều này: “Đằng sau những cuộc phiêu lưu điên rồ và bất ổn theo lối biểu
tượng của nhân vật chính, còn có một lực đẩy trong tiềm thức gần ngang bằng với lực
đẩy của sex và tuổi trưởng thành: lực đẩy về phía hư vô, về khoảng trống, về sự rỗng
không đầy hoan lạc”
(15)
.
Murakami không bình luận. Ông để cho độc giả cảm nhận và suy ngẫm về câu chuyện
chứa đựng nhiều yếu tố “ma ảo” của cậu bé Kafka. Hình ảnh Kafka trở về thế giới thực tại cuối
tác phẩm là một ẩn dụ ám ảnh. Sau bao giông tố, vòng xoáy nghiệt ngã của số phận, điều gì sẽ
chờ đón cậu bé? Liệu Kafka có đủ bản lĩnh để tiếp tục sống khi trái tim nhỏ bé của cậu đã hằn
vết sẹo số phận? Người đọc sẽ “phán xét” thế nào về Kafka? Ai cũng có thể tìm thấy một lời
giải đáp của mình khi cùng tham gia vào chuyến du hành định mệnh của Kafka, để rồi mang
theo những ám ảnh cho riêng mình.
“Phức cảm Genji” đã tạo “hiệu ứng” cho Kafka bên bờ biển, chuyển tải thông điệp của
Murakami đến với độc giả. Thông điệp về “bản ngã”, “bản năng” (xung năng sống) của con
người trong xã hội hiện đại cần phải được quan tâm và trân trọng.
“Phức cảm Genji”- cảm thức truyền thống của văn học Nhật Bản và lí thuyết phân tâm
học Freud đã làm nên sức cuốn hút kì diệu của Kafka bên bờ biển - cuốn tiểu thuyết “ẩn chứa
nhiều tham vọng nhất và cũng thành công nhất của Haruki Murakami cho đến nay”
(16)
. Sự
dung hợp hài hòa của niềm bi cảm aware, của cảm thức truyền thống Nhật Bản với văn
chương phương Tây hiện đại đã tạo thành phong cách riêng của Murakami- tiểu thuyết gia
văn học đương đại Nhật Bản. Murakami không tìm kiếm sự tĩnh lặng và những khoảng chân
không ngưng đọng của mỹ học truyền thống như Kawabata- tác giả của những trang văn tinh
tế, giàu chất thơ. Nhật Bản truyền thống trong Murakami là sự tiếp tục khám phá những tồn
tại sâu kín, khó giải đoán của bản thể con người, luận giải những vấn đề tồn vong của xã hội

hiện đại, khi mà ánh hào quang của quá khứ Nhật Bản đã lùi xa

×