Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ HỮU THỈNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.81 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HÀ THỊ ANH
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ HỮU THỈNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học

Nsgười hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Khánh Thành
HÀ NỘI - 2012
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hữu Thỉnh là nhà thơ ra đời và trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, sáng tác của ông khá liền
mạch tiêu biểu cho quá trình vận động của thi ca cách mạng Việt Nam trong những thập niên gần đây và đã
gây được tiếng vang lớn trên thi đàn. Trong thơ Hữu Thỉnh vừa có những đặc điểm chung của thơ ca kháng
chiến chống Mỹ lại vừa có những nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Ông đã tạo dựng được
một tiếng thơ mới mẻ cho nền thơ ca dân tộc bằng một loạt những tác phẩm thơ và trường ca có giọng điệu
riêng, có phong cách riêng, tiếng nói riêng và không bị khuất lẫn trong dàn đồng ca chung của thế hệ. Xuyên
suốt và bao trùm thế giới ấy là tấm lòng tha thiết, gắn bó với đất nước, với con người Việt Nam. Đến với thế
giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh có nhiều con đường, nhiều góc độ. Chúng tôi chọn góc độ đặc điểm nghệ
thuật để nghiên cứu thơ ông.
Chính vì thế cần phải có sự nhìn nhận và đánh giá một cách hệ thống và khoa học để rút ra những
đóng góp của ông trên con đường sáng tác nghệ thuật. Nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh giúp
cho người viết có cái nhìn và sự hiểu biết về thơ Việt Nam hiện đại nói chung và thơ Hữu Thỉnh nói riêng.
Vì vậy chúng tôi đã chọn đề tài Đặc điểm nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh để tìm hiểu những nét riêng trong cách
nhìn, cách nghĩ của nhà thơ về hiện thực cuộc sống và cách xây dựng hình tượng, cách tổ chức tác phẩm của
nhà thơ.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ những ngày đầu mới cầm bút giọng thơ Hữu Thỉnh đã sớm thu hút được sự quan tâm của bạn
đọc và giới phê bình văn học. Những nghiên cứu về thơ ông đặc biệt ở mảng thơ trữ tình, các bài viết tập


2
trung nhiều từ thập niên 90 trở lại đây. Trần Mạnh Hảo đã viết: “Hữu Thỉnh và Thanh Thảo là cái gạch nối
của nền thơ ca chống Mỹ sang thời bình. Sau 1975, cùng với Nguyễn Duy họ đưa thơ tiến về phía trước với
những bước tiến ngoạn mục, đa dạng và phong phú”[18,95].
Tài năng của Hữu Thỉnh được khẳng định bởi một loạt các giải thưởng thơ mà ông đoạt được. Với
nhiều giải thưởng văn học có giá trị, Hữu Thỉnh là nhà thơ có sức tìm tòi sáng tạo nghệ thuật bền bỉ. Ông
luôn có những khám phá mới, thú vị trên con đường nghệ thuật. Thơ ông có chiều sâu về nội dung, giàu chất
thơ và tính nhạc nên đã tạo sự lôi cuốn và thu hút đối với bạn đọc. Qua sự sàng lọc của thời gian, các tác phẩm
của ông vẫn tìm được chỗ đứng trong lòng độc giả và lọt vào “con mắt xanh” của những nhà nghiên cứu. Các
tác giả đã chỉ ra nét hấp dẫn kì lạ trong thơ Hữu Thỉnh được bắt nguồn từ sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống
và yếu tố hiện đại, thể hiện rõ ý thức luôn biết chủ động “khai thác cái hay, cái đẹp của dân gian, của dân tộc,
vừa biết dồn tâm lực, tài năng cho việc tìm kiếm sáng tạo cái mới”.
Tiếp nối những công trình đã có, luận văn đi vào nghiên cứu, tìm hiểu “Đặc điểm nghệ thuật thơ Hữu
Thỉnh” để có một cái nhìn toàn diện về quá trình sáng tạo nghệ thuật của Hữu Thỉnh. Trên cơ sở đó người
viết mong góp tiếng nói nhỏ bé của mình cùng với các bài viết, các công trình nghiên cứu đã có để khẳng
định đầy đủ, sâu sắc hơn sự nghiệp thơ Hữu Thỉnh.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “Đặc điểm nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh” nhằm phát hiện ra những tìm tòi, đổi mới trong
sáng tạo nghệ thuật của Hữu Thỉnh và tính khu biệt thơ Hữu Thỉnh so với các cây bút cùng thế hệ. Từ đó

3
khẳng định vị trí, phong cách thơ Hữu Thỉnh và những đóng góp của ông đối với nền thơ ca hiện đại Việt
Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu những thành tố quan trọng làm nên đặc điểm nghệ
thuật thơ Hữu Thỉnh. Trong đó người viết tập trung khảo sát về con người, về hiện thực cuộc sống cùng
những phương thức biểu hiện của đặc điểm nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh qua cả hai giai đoạn sáng tác của Hữu
Thỉnh.
3.3. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi khảo sát những sáng tác của Hữu Thỉnh đã được xuất bản.
- Âm vang chiến hào (Thơ, in chung).
- Đường tới thành phố (Trường ca).
- Từ chiến hào tới thành phố (Trường ca-thơ ngắn).
- Thư mùa đông (Thơ).
- Trường ca biển.
- Thương lượng với thời gian (thơ).
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp hệ thống.
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu.
4.3. Phương pháp thống kê, phân loại.
4.4. Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp.

4
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hành trình sáng tạo thơ Hữu Thỉnh và hướng tiếp cận.
Chương 2: Cách tiếp cận đời sống và hệ thống hình tượng tiêu biểu trong thơ Hữu Thỉnh.
Chương 3: Cách tổ chức tác phẩm thơ Hữu Thỉnh.

5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
THƠ HỮU THỈNH VÀ HƯỚNG TIẾP CẬN
1.1. Hành trình sáng tạo thơ Hữu Thỉnh
1.1.1. Thơ Hữu Thỉnh những năm tháng chống Mỹ và thời kỳ hậu chiến
Thơ Hữu Thỉnh bám sát hiện thực cuộc sống và phản ánh trung thành những sự kiện lớn lao của đất
nước, phản ánh tinh thần chiến đấu dũng cảm, hi sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông cũng
như nhiều nhà thơ khác luôn ý thức sâu sắc về vị trí, vai trò của thế hệ mình.
Không có sách chúng tôi làm ra sách

Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
(Đường tới thành phố)
Bằng con mắt của người trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận, Hữu Thỉnh miêu tả chiến tranh với cái
nhìn từ trong chiến hào, những câu thơ bật lên từ đời sống hiện thực, từ cuộc chiến tranh vừa âm thầm, vừa
quyết liệt, dữ dội và vô cùng nóng bỏng. Mảng thơ viết về chiến tranh gồm tập thơ Tiếng hát trong rừng (bài viết
sớm nhất vào năm 1968, bài muộn nhất vào năm 1982), trường ca Sức bền của đất viết xong vào dịp tết Ất Mão
(1975), trường ca Đường tới thành phố viết từ tháng 8/1977 hoàn thành tháng 4/1978. Cảm hứng chủ đạo là
cảm hứng về đất nước, nhân dân, về cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước
Thơ Hữu Thỉnh luôn biểu hiện được một cách tự nhiên về cuộc sống, luôn hoà quyện giữa hiện thực
và lãng mạn qua hình ảnh người lính nơi chiến trường “Người sốt rét hát cho người sốt rét”. Những năm
tháng đó khiến nhà thơ phải thốt lên “Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá”. Đó là những gian khổ

6
đã trở thành ký ức. Đó là những cảnh vật quê hương từ giọt gianh đến chiếc chõng tre, cái dây phơi… Đó là
tình quê hương, làng xóm, tình quân dân, đó là hình ảnh người mẹ, người vợ, người chị… tất cả đều hiện lên
rất đỗi thân quen và cũng vô cùng xúc động.
Mang đặc điểm của một hồn thơ hồn hậu, giầu suy tư, thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh có kết hợp
nhuần nhị giữa giọng chính luận với giọng trữ tình đằm thắm. Chính điều này đã mang đến cho người đọc
những nét đặc sắc, vừa quen vừa lạ. Dường như Hữu Thỉnh đang nói hộ những điều sâu kín trong tâm tư mỗi
con người. Đó chính là những yếu tố góp phần tạo nên sự thành công của Hữu Thỉnh.
1.1.2. Thơ Hữu Thỉnh thời kỳ đổi mới
Bước sang một chặng đường phát triển mới của đất nước, thơ Hữu Thỉnh lại mang đến cho bạn đọc
một nguồn cảm hứng và phong cách sáng tạo mới. Gần mười lăm năm tìm đoạn đường phát triển tiếp theo
cho thơ mình để cùng một lúc ông đã cho ra mắt hai tập thơ “Trường ca Biển” và “Thư mùa đông” và tiếp
theo là tập thơ “Thương lượng với thời gian” đã đánh dấu và khẳng định thơ Hữu Thỉnh trong nền thơ
đương đại Việt Nam.
Những sáng tác của Hữu Thỉnh trong thời kỳ này đã thể hiện cách nhìn nhận đánh giá cuộc đời với
những suy ngẫm của một con người đang trăn trở trước cuộc sống đầy những thử thách khó khăn. Trong cái
tôi trữ tình của Hữu Thỉnh vẫn có cái tôi người lính và có cả cái tôi cá nhân cô đơn, xót xa, nhiều lo âu và dự
cảm đau buồn trước cuộc sống đô thị hiện đại nhưng đậm nét hơn cả là một cái tôi hòa vào cái chung của dân

tộc.
Thơ Hữu thỉnh thời kỳ này phản chiếu cuộc sống thường nhật, trở về cuộc sống đời thường, những
nhìn nhận về tình đời, về lẽ sống, về thân phận cá nhân trong cõi nhân gian đôi lúc phải tìm về nương tựa vào

7
những giá trị truyền thống. Với một loạt các bài: Nghe tiếng cuốc kêu, Hạnh phúc, Tự thú, Người bộ hành
lặng lẽ, Năm tháng trên vai…đã thể hiện cái tôi của nhà thơ luôn trăn trở, nghĩ suy, tự vấn về nhân tình thế
thái và về bản thân. Hữu Thỉnh luôn thường đặt ra nhiều câu hỏi, nhiều giả thiết để tự mình chất vấn, ngẫm
ngợi và nhiều khi bỏ ngỏ để bạn đọc cùng suy ngẫm
Trong những sáng tác của thời kỳ trước đề tài tình yêu cũng được Hữu Thỉnh đề cập đến nhưng đó
mới chỉ là những hình ảnh thấp thoáng, xen kẽ, chưa có những tứ thơ trọn vẹn về đề tài này. Thời kỳ này
Hữu Thỉnh đã có những tứ thơ riêng, những bài thơ tình trọn vẹn cũng đem đến những rung động trong sâu
thẳm tâm hồn nhà thơ: Thơ viết ở biển,…
Chủ nghĩa nhân văn luôn luôn và mãi mãi là chuẩn mực đánh giá hàng đầu, quan trọng bậc nhất cho
mọi giá trị văn học. Điều này được hình thành trong quá trình sáng tác và tiếp nhận văn học. Nhưng chủ
nghĩa nhân văn ở mỗi thời kỳ lại có sự thay đổi và vận động. Quan niệm như vậy sẽ thấy hành trình sáng tạo
thơ Hữu Thỉnh là hành trình của người chiến sĩ trong cuộc đấu tranh cho lẽ sống cao cả của con người thời
đại đi vào dòng chảy chính của chủ nghĩa nhân văn, mặc dù biểu hiện ở mỗi giai đoạn có khác nhau. Đây
cũng là hành trình nhịp bước cùng với xu thế chung của thơ ca hiện đại Việt Nam từ năm 1975 đến nay.
1.2. Hướng tiếp cận đặc điểm nghệ thuật từ góc độ tâm lý học sáng tạo
1.2.1. Nguồn cảm hứng sáng tạo
Cảm hứng như một sức mạnh vô hình làm biến đổi thế giới tâm tình, khơi gợi những tình cảm mạnh
mẽ, thúc đẩy nghệ sĩ sáng tạo và tạo lập những thế giới nghệ thuật độc đáo. Bêlinxki coi: “Cảm hứng là điều
kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực”[36,38]. Cảm hứng bắt nguồn từ cuộc sống.
“Cuộc sống sẽ nuôi dưỡng và bồi đắp cảm xúc của người nghệ sĩ luôn tươi mát càng thêm phong

8
phú”[61,51]. “Đó là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với
một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của người tiếp nhận tác
phẩm”[36,38].

Như vậy cốt lõi của nguồn cảm hứng sáng tạo là tư tưởng, là quan niệm của nhà thơ về thế giới.
Nhưng nguồn cảm hứng sáng tạo và tư tưởng của một tác giả không phải là những khái niệm chung chung
trừu tượng hay những cảm xúc vụn vặt mà hoá thân trong thế giới hình tượng nghệ thuật của nhà thơ.
1.2.2. Hệ thống hình tượng tiêu biểu
Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh và tái tạo hiện thực riêng biệt vốn có
và chỉ có trong nghệ thuật. Nó là hạt nhân của cấu trúc chỉnh thể, là yếu tố duy nhất có thể làm sống lại một
cách cụ thể và gợi cảm những sự vật, những hiện tượng đáng làm ta suy ngẫm về tính cách, số phận, về lẽ
đời, tình người. Với ý nghĩa này, hình tượng “vừa là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ vừa là con đẻ của
hiện thực khách quan”[9,27].
Văn học là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, sử dụng chất liệu ngôn từ để xây dựng hình tượng. Hình
tượng trong tác phẩm văn học được nhà văn sử dụng với ý đồ nghệ thuật riêng. Chính cách lựa chọn hình
tượng để xây dựng tác phẩm đã phản ánh được tư tưởng nghệ thuật của nghệ sĩ. Hình tượng trong tác phẩm
văn học là đứa con tinh thần của nhà văn, là tiếng nói quan điểm tư tưởng của nhà văn, vừa mang tính
chất cảm tính cụ thể vừa mang tính tượng trưng.
1.2.3. Trường liên tưởng, tưởng tượng
Liên tưởng là một năng lực thiết yếu trong tư duy sáng tạo nghệ thuật, nó góp phần quan trọng tạo nên
gương mặt riêng của người nghệ sĩ. Tìm hiểu đường đi của mạch liên tưởng trong thơ là một điều không dễ

9
nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi nếu phát hiện ra quy luật trong trường liên tưởng của một nhà
thơ cũng có nghĩa là khám phá được con người và văn hoá, con người nhân bản và cá tính sáng tạo của anh
ta. Có thể khẳng định trường liên tưởng là một trong những yếu tố nền móng, cội rễ hình thành nên phong
cách nghệ thuật và tư tưởng nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Tưởng tượng “là hoạt động tâm lí nhằm tạo ra trong trí óc hình ảnh những cái không có ở trước mắt
hoặc chưa hề có” [49,145]. Trong hoạt động sáng tạo văn học, có thể nói nếu không có tưởng tượng thì
không có văn học. Văn học sẽ trở nên một kiểu sao chép, chụp ảnh bề ngoài hiện thực, sáng tác của nhà văn
sẽ trở nên hời hợt, buồn tẻ.
Như vậy liên tưởng và tưởng tượng đều là những năng lực tư duy vô cùng thiết yếu đối với người nghệ
sĩ, giúp họ thoát khỏi các giới hạn chật chội của sự việc, hiện tượng trước mắt, đi vào khám phá những bí ẩn
sâu thẳm và rộng lớn vô biên của vũ trụ cũng như tâm hồn con người. Nhờ vậy người nghệ sĩ mới sáng tạo ra

những hình tượng mới mẻ, độc đáo, không có sự lặp lại.
1.2.4. Cách tổ chức câu thơ, lời thơ
Việc tìm hiểu cách tổ chức một tác phẩm là tìm hiểu quan niệm và hệ thống chỉnh thể. Tức là trong
một tác phẩm nghệ thuật các phạm trù này không kết hợp một cách tùy tiện mà chúng ràng buộc chi phối lẫn
nhau. Nếu trong kết cấu truyện là luôn chú ý xây dựng trọn vẹn một hành động, một tính cách, một số phận
thì kết cấu thơ “lấy điểm tựa chủ yếu là hệ thống cảm xúc theo những dạng vận động nhất định phù hợp với
chủ định và cấu tứ bài thơ[11,58].
Để đạt được mục đích nghệ thuật và có tính thẩm mĩ cao, câu thơ, lời thơ có một hình thức tổ chức đặc
biệt. Nó sử dụng đậm đặc các hiện tượng cú pháp, các từ tượng thanh, tượng hình, từ mô tả trạng thái cảm

10
giác… nhất là các phương thức tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hoá … làm cho câu thơ, lời thơ mềm mại, uyển
chuyển, bay bổng và có tính đa nghĩa, hàm ngôn. Trong thơ trữ tình tổ chức lời thơ phải có tách dòng, có
nhạc, có vần…
* Tiểu kết: Tìm hiểu hệ thống hình tượng tiêu biểu và tưởng tượng liên tưởng trong thơ Hữu Thỉnh
cũng là một cách tìm ra đặc điểm tư duy nghệ thuật của nhà thơ, một phương diện quan trọng làm nên đặc
điểm nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Hữu Thỉnh là hành của một nhà thơ giàu
trải nghiệm. Với cảm nhận chủ quan của người viết nên điểm nhìn nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh chủ yếu
hướng vào sự thật chiến hào, hướng vào hiện thực cuộc sống thô ráp với nhiều những suy nghĩ và hiện tượng
trái chiều. Càng về sau thơ Hữu Thỉnh luôn chất chứa đầy những ưu tư, những băn khoăn, day dứt của nhà
thơ. Ở đó cái tôi của nhà thơ có cơ hội được nói thực những cảm xúc cá nhân của mình, bộc lộ những quan
niệm về hiện thực cuộc sống, về đạo đức, về phẩm giá của con người.

11
CHƯƠNG 2: CÁCH TIẾP CẬN ĐỜI SỐNG VÀ HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG THƠ HỮU THỈNH
2.1. Cách tiếp cận đời sống trong thơ Hữu Thỉnh
Hữu Thỉnh đem đến cho người đọc một tiếng thơ mới mẻ độc đáo. Có được đóng góp mới mẻ ấy bởi Hữu
Thỉnh đã tìm cho mình một lối đi riêng. Vậy Hữu Thỉnh đã khai thác và tiếp cận hiện thực đời sống theo cách
nào? Hữu Thỉnh có cách riêng trong việc tiếp cận hiện thực và phô diễn cảm xúc của mình. Thơ ông nghiêng về

suy tư và dày đặc những câu hỏi. Đó là lý do khiến thơ Hữu Thỉnh mang cái nhìn chiêm nghiệm về cuộc đời. Mặt
khác, đã từng trải qua cuộc chiến tranh gian khổ, ác liệt nên thơ Hữu Thỉnh là sự thăng hoa của kinh nghiệm sống,
là sự ngân vọng của những kỷ niệm sâu sắc về một thời bom đạn.
Với góc nhìn của người lính về chiến tranh ông đã ghi nhận và phản ánh chân thực cuộc sống khốc
liệt chiến trường bằng những vần thơ giàu nhiệt huyết với những thanh âm sôi nổi, trẻ trung, xông xáo. Ông
tự thấy “Lòng tôi mắc nợ chiến khu một đời”. Chính cái nôi khắc nghiệt ấy đã in đậm trong tâm trí nhà thơ
để những năm sau này Hữu Thỉnh vẫn còn mang những hồi ức về cuộc chiến: Tiếng hát trong rừng, Giấc
ngủ trên đường ra trận… Thời kì sau chiến tranh, ông viết dưới góc nhìn của con người đi qua những năm
tháng chiến tranh giờ có thời gian nhìn nhận và đánh giá về chính hiện thực cuộc chiến một cách toàn diện
hơn. Ông đã gửi vào trong thơ những suy tư, trăn trở về thân phận, buồn đau khi phải chứng kiến những cảnh
ngang trái ở đời và nhiều khi cả nỗi cô đơn, thất vọng về cuộc đời, về con người, khắc khoải lo âu trước sự
“mất mùa nhân nghĩa” như Bóng mát, Nghẹn,…Có thể nói, bằng góc nhìn đó, Hữu Thỉnh đã tìm được tiếng
nói riêng trong dàn hợp xướng của thơ trẻ chống Mỹ.
2.2. Hệ thống hình tượng tiêu biểu trong thơ Hữu Thỉnh

12
2.2.1. Hình tượng con đường
Hình tượng con đường là hình ảnh tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Đọc thơ Hữu Thỉnh chúng ta
dễ nhận thấy những hình ảnh thơ từ cuộc sống hết sức chân thực được nhà thơ nâng lên ở một tầm cao khái quát
trở thành những hình tượng độc đáo có sức biểu cảm.
Cuộc chiến tranh hiện ra rõ nét hơn thông qua sự hiện diện của các con đường khác nhau. Đó là con
đường cụ thể của người lính ra trận. Hình tượng con đường không chỉ góp phần khắc họa hình ảnh người
chiến sĩ mà còn là yếu tố quan trọng cấu thành kết cấu của trường ca – tự sự - trữ tình. Đây thực sự là con
đường trưởng thành và lớn mạnh của quân đội ta qua hình ảnh các thế hệ chiến sĩ. Con đường trải qua gian
khổ hy sinh của dân tộc để tới đích vinh quang, con đường nối liền hậu phương với tiền tuyến, con đường từ
lòng mẹ đến trái tim người chiến sĩ trên mặt trận, giữa chiến hào. Con đường vận động cùng chiều với sự
phát triển của lịch sử, của thời gian.
Hình tượng con đường trong Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian là đường đời. Con đường
của nhà thơ với tư cách là một cá nhân đi tìm người tri âm, tri kỷ, tìm cái đẹp và cái thiện như mơ ước và
quan niệm của mình. So với con đường trong thơ viết về chiến tranh con đường trong thơ viết về cuộc sống

thời bình tính chất cụ thể ít đi mà tính tượng trưng ước lệ tăng lên gắn liền với cảm xúc của cái tôi trữ tình và
tư duy của nhà thơ. Cuộc đời nhà thơ là con đường còn đầy chông gai gian khó. Và trên chính con đường này
nhà thơ đã bộc lộ biết bao trăn trở, day dứt. Nhưng cao hơn thế, hình tượng con đường là biểu trưng cho
hành trình đi tìm lẽ sống cao đẹp một thời con người tình nghĩa ấy đã tin yêu. Hữu Thỉnh đã trở thành người
bộ hành lặng lẽ đi tìm nhân nghĩa và hạnh phúc ở đời. Nhưng chính nhà thơ lại đau đớn nhận ra rằng “Đường
nhân nghĩa chừng nào còn lắm bụi” thì con đường mình đang đi vẫn còn xa vời, mù mịt “Tôi nhớn nhác đi tìm

13
người/ Bước chân thì ngắn đường đời thì xa”. Nhà thơ thực sự dấn bước trên con đường mà cái đích là nhận
thức cho được về phẩm giá con người, về một hạnh phúc không tô vẽ, một hạnh phúc có thật.
2.2.2. Hình tượng biển đảo
Tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu biển đảo quê hương chính là nguồn cảm hứng vĩ đại nuôi
dưỡng thơ ông. Chất liệu làm nên nguồn cảm hứng chính trong thơ Hữu Thỉnh đều xuất phát từ đời sống
hiện thực, từ những gì gần gũi, giản dị nhất nhưng lại giầu sức gợi cảm nhất. Trong các tập thơ của ông sự
xuất hiện của biển đảo thường gắn liền với người lính. Trong chương 5 của trường ca Đường tới thành phố
và toàn bộ Trường ca Biển hình tượng biển đảo là hình tượng bao trùm.
Hình ảnh đảo Trường Sa thân yêu của Tổ quốc được nhà thơ khắc hoạ sừng sững giữa biển cả mênh
mông đang chống chọi với bão tố. Những câu thơ ngay từ đầu bản Trường ca Biển đã thể hiện điều đó “Chúng
tôi bắt đầu với Trường Sa như thế”. Nếu trong chiến tranh giữ gìn bảo vệ biển đảo chính là đấu tranh để bảo vệ
đất nước thì thời bình không gian biển lại là không gian tượng trưng, ước lệ. Với “Đối thoại Biển” chính là
cuộc đối thoại giữa lịch sử với dân tộc, đất nước, con người về con đường đi lên của dân tộc trong hiện tại và
tương lai.
Trong hai tập thơ Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian hình tượng biển đảo có sự thay đổi ý
nghĩa so với các trường ca trước đó. Biển giờ đây gắn liền với cuộc sống đời thường, với những tâm tư tình
cảm của cái tôi trữ tình. Tuy không xuất hiện nhiều như hình tượng con đường nhưng hình tượng biển đảo
thể hiện được những vận động, biến đổi trong quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Hình tượng biển với cuộc
sống chiến đấu của người lính được coi là sự tiếp mạch một phần cảm hứng ở Trường ca Biển “Biển luôn ở
cạnh mình/Bao điều còn cửa khép”

14

2.2.3. Hình tượng đoàn quân và người lính
“Hình tượng người chiến sĩ và hình tượng nhân dân là hai hình tượng trung tâm, vừa mang tính cụ thể,
vừa mang tính khái quát, quy tụ cao độ cảm hứng sử thi”[51,97]. Những rung động về người lính, người chiến
sĩ trong thơ Hữu Thỉnh là sự kết hợp hài hoà giữa chủ thể và khách thể, giữa cái tôi và cái ta. Người lính đó là
ông và đồng đội của ông. Nhà thơ đã hoá thân vào nhân vật trữ tình để nói lên một cách chân thành và cảm
động về tình cảm và cuộc đời người lính.
Viết về người lính Hữu Thỉnh không chú ý nhiều đến những chiến công, chiến thắng mà nói nhiều đến
những tâm trạng những suy tư ở bề sâu của người chiến sĩ được thể hiện bằng lối nói mộc mạc, dung dị như
cuộc đời người lính vậy: “Các anh không nói nhiều về chiến thắng những ngày qua/Chỉ mong mưa cho đồng
bào gieo lúa”. Cũng chất men say lý tưởng đã tạo cho người lính một niềm lạc quan phơi phới. “Lạc quan là
một nét đặc sắc của tâm hồn Việt Nam thể hiện trong văn học các giai đoạn như một biểu hiện của sức sống
và sức chống chọi dẻo dai của dân tộc trước mọi thử thách” [44,58].
“Tình thương và anh hùng là hai mặt không thể tách rời của hình tượng con người trong văn học
chống Mỹ”[60, 259]. Hữu Thỉnh đã giành nhiều tâm huyết để tạc khảm thành công hình tượng người lính
trong thơ ông. Hình tượng người lính trong thơ ông có chiều sâu về nội tâm, phong phú về tâm hồn, dũng
cảm trong chiến đấu, là con người của thời đại mới. Thơ Hữu Thỉnh thực sự là “bài ca về cuộc đời người
lính”[43,22].
* Tiểu kết: Mỗi một nhà thơ muốn tạo nên những tác phẩm xuất sắc bao giờ cũng phải tạo cho mình
vốn sống phong phú, một bản lĩnh thực thụ, một khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh hiện thực sắc sảo với cuộc
sống. Hữu Thỉnh sinh ra và lớn lên ở vùng đất xoan ghẹo nên hơi thở của văn học dân gian đã “ám” vào

15
trong thơ Hữu Thỉnh. Bên cạnh đó, Hữu Thỉnh lớn lên trong những năm tháng đất nước có chiến tranh. Điều
đó đã in đậm dấu ấn và trở thành một thành tố quan trọng trong cấu trúc cảm hứng của Hữu Thỉnh. Trong thế
giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh nổi bật hình tượng con đường, biển đảo, đoàn quân và người lính. Việc
nghiên cứu một số hình tượng tiêu biểu trong thơ Hữu Thỉnh đã góp một cái nhìn toàn diện hơn khi tiếp cận
thơ Hữu Thỉnh từ góc độ nghệ thuật.

16
CHƯƠNG 3. CÁCH TỔ CHỨC TÁC PHẨM THƠ HỮU THỈNH

3.1. Tưởng tượng và liên tưởng
Trong thơ Hữu Thỉnh, liên tưởng, tưởng tượng không chỉ là tái tạo đơn thuần gợi hồi ức mà còn sáng
tạo làm nên những kết hợp mới mẻ. Liên tưởng đã liên kết sự kiện, liên kết nhân vật, liên kết mạch cảm xúc
và suy tư tạo ra cái khung, sườn cho đoạn, cho tác phẩm. Không phát huy hết khả năng liên tưởng và tưởng
tượng ta không thể cảm thụ hết cái hay, cái đẹp của trường ca Hữu Thỉnh. Liên tưởng bắc cầu quá khứ, hiện
tại và tương lai. Quá khứ ở Hữu Thỉnh là cội nguồn, là kỷ niệm, là mái ấm gia đình, là gương mặt thân yêu,
là làng quê bình dị, là những năm tháng chiến tranh, là nghĩa tình đồng đội …
Thơ ông không chỉ chú tâm vào sự tả mà cốt gợi để tạo ấn tượng và liên tưởng. Thông qua cảm giác,
nhờ cảm giác nhà thơ có thể cụ thể hoá sắc thái tình cảm, những cảm xúc mơ hồ thành những hình ảnh cụ
thể. Nhờ đưa yếu tố ảo vào thơ, Hữu Thỉnh diễn tả được nhiều hơn đặc biệt là diễn tả những điều cảm được
mà khó nói ra. Ông luôn biết tựa vào cảm xúc suy tư của mình để tạo nên những câu thơ có khả năng gây ám
ảnh. Mặt khác dựa vào ảo giác thơ, ông đánh thức những vùng cảm nhận, gợi mở những biên độ rộng rãi cho
thơ. Đưa thơ từ thực sang ảo trong sự liên tưởng, tưởng tượng, trong sự thăng hoa của đời sống tâm hồn,
Hữu Thỉnh đã tạo những con sóng chữ có sức lan toả lâu bền.
Sự kết hợp giữa cái hữu hình với cái vô hình không phải là thủ pháp lạ trong thơ hiện đại nhưng với
Hữu Thỉnh đã tạo ra được cái mới, cái riêng trên cơ sở nguyên tắc chung ấy. Thơ ông luôn có sự giao hoà
mật thiết giữa thực và ảo. Vì thế đọc thơ Hữu Thỉnh cứ thấy cái gì đó bâng khuâng, mơ màng. Ngay cả khi
nói đến những vấn đề rất thực: chiến tranh, thế thái, nhân tình thì vẫn gợi ra cảm giác nhẹ nhàng chứ không
hề gai góc.

17
3.2. Tổ chức không gian, thời gian
3.2.1. Không gian nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật là “phẩm chất định tính quan trọng của hình tượng nghệ thuật”[50,160].
Thơ Hữu Thỉnh là loại thơ thấm đẫm sắc vị văn hóa dân gian. Ông đã tạo cho tác phẩm của mình màu sắc
thôn quê ngay ở không gian nghệ thuật đặc trưng. Ông sinh ra ở một vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ nên
ông tỏ ra “hiểu biết khá tường tận, sâu sắc thiên nhiên, ruộng đồng”[71,256] với những sự vật quen thuộc
như: hoa sim tím, lúa đang trổ bông, cây chuối cuối vườn, dâu da và mía mật, mắt na đang chín …Vẫn là
một không gian quen thuộc với những ai đã sinh trưởng ở nông thôn nhưng bao giờ Hữu Thỉnh cũng làm
ta thích thú, ngỡ ngàng bởi nhà thơ đã “gọi’ được những sự vật quen thuộc vào thơ - những sự vật thường

ngày ta không để ý nhưng lại gợi lên hồn quê, tình quê thắm đượm.
Không gian trong thơ Hữu Thỉnh luôn có sự hợp giữa hư và thực. Lấy cái thực của chiều kích không
gian biển mênh mông để diễn đạt cái hư ảo, thoảng thốt của lòng người. Đặc điểm nổi bật trong trong tư duy
thơ Hữu Thỉnh khi kiến tạo không gian nghệ thuật vẫn là “sợi dây liên tưởng”, hồi ức, nối không gian làng
quê hiện cùng với các không gian khác như thành phố, biển, đảo… Nó tạo ra sự tự nhiên nhuần nhuyễn trong
hình tượng thơ mà vẫn đánh dấu được nét riêng trong thơ Hữu Thỉnh.
3.2.2.Thời gian nghệ thuật
Thời gian và không gian là hình thức tồn tại của vật chất. Đi vào các tác phẩm nghệ thuật, thời gian và
không gian trở thành hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, đảm bảo cho việc người đọc tiếp nhận
đầy đủ chỉnh thể toàn vẹn ấy. “thời gian vũ trụ đã bị đồng hóa và khúc xạ qua lăng kính chủ quan”[77,135]
của nhà văn.

18
Thơ Hữu Thỉnh, nhất là các trường ca luôn luôn có thời gian đồng hiện: quá khứ - hiện tại – tương lai.
Đồng hiện trong thơ Hữu Thỉnh tạo sự đan kết gắn bó giữa hiện tại, quá khứ và tương lai. Trong sự kết hợp
ấy, trong thơ Hữu Thỉnh thời gian hiện tại thường chiếm vị trí ưu tiên nhưng không phải cái hiện tại đứng
yên mà hiện tại vận động. Hiện tại ấy là kết tinh của quá khứ, nhập vào những giá trị của quá khứ để tới đích
tương lai. Thời gian nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh đã có sự vận động và thay đổi từ trường ca trữ tình - sử
thi đến mảng thơ trữ trữ tình thế sự. Nếu như thơ và trường ca viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh con người
là con người sử thi, thời gian là thời gian sử thi thì thời gian sau này là thời gian đời tư, thế sự gắn liền với
cảm quan của cái tôi trước thời đại mới. Nhờ thời gian nghệ thuật mà người đọc cảm nhận rõ hơn thế giới
tâm hồn của cái tôi đối diện với hiện tại cuộc sống đầy biến động.
3.3. Tổ chức câu thơ, lời thơ
Lời thơ là yếu tố quan trọng để tạo thành tác phẩm thơ. Do cảm xúc của thơ luôn ở thời hiện tại nên lời
thơ là lời đánh giá trực tiếp thể hiện một quan niệm của chủ thể với cuộc đời. Câu thơ vừa là đơn vị về hình
thức vừa trọn vẹn về nội dung. Nghĩa của câu thơ hầu hết là nghĩa hàm ẩn và thường là sự kết hợp của các
thành phần: từ ngữ, nhịp điệu, vần,… Hình thức tổ chức lời thơ, câu thơ phụ thuộc vào cảm xúc cần giãi bày,
vào quan niệm, thế giới quan của cá nhân, thời đại. Hữu Thỉnh không phải là nhà thơ riêng của thể thơ nào
nhưng ở hình thức biểu đạt nào ông cũng có những bài thơ hay.
+ Thể thơ 5 chữ: Hữu Thỉnh vận dụng cách ngắt nhịp truyền thống (3/2 và 2/3) nhưng không đơn điệu

mà có sự luân chuyển nhịp thơ ở cấp độ câu thơ. Ông sáng tạo cho thơ mình cách luân chuyển tiết tấu thơ
mới lạ, kết hợp cả cách ngắt nhịp cơ bản với cách ngắt nhịp dòng thơ là một nhịp: Sang thu,Chiều sông
Thương.

19
+ Thể thơ 8 chữ: Nhà thơ tạo nhịp thơ dài hơn, ngắt câu thành nhịp 3/5 hoặc 5/3; có khi kết hợp cả hai
loại nhịp: Thưa thầy, Xa vắng,… Cách ngắt nhịp này làm cho câu thơ có tiết tấu chậm lại, như một cách tỏ
bày, liệt kê những điều mà nhà thơ trăn trở, nghĩ suy.
+ Thơ lục bát: Nhịp thơ kéo dài ra nhịp 4, đồng thời nó được kết hợp với cách ngắt nhịp 3/5 ở câu lục
bát tựa như tiết tấu của thể thơ 8 chữ mà ông vẫn quen dùng: Trước tượng Bay-on, Những người đi lại phía
tôi,…
+ Thơ tự do: mở rộng biên độ câu thơ, khổ thơ và các luật lệ khác cho phép thơ tự do có ưu thế trong
việc ôm chứa hiện thực, tăng cường dung lượng đời sống trong thơ: Nghe tiếng cuốc kêu, Thơ viết ở biển,…
3.3. Một số biện pháp tu từ
3.3.1. Nghệ thuật so sánh
So sánh là một biện pháp làm cho thơ có hình ảnh, có sức biểu cảm, nâng cao chức năng nhận thức đối
với đối tượng từ việc tri giác một sự vật đã biết đến cách nhìn trừu tượng. Biện pháp so sánh là nơi thử thách
vốn từ vị, năng lực liên tưởng, tưởng tượng của người làm thơ.
Trong thơ mình, Hữu Thỉnh tạo ra được các so sánh vừa độc đáo, vừa mang đậm sắc thái dân tộc.
Những sự vật được ông đem ra so sánh không có gì cao siêu bí hiểm mà vô cùng gần gũi với đời sống ở
những làng quê, nơi nào cũng có đó là: mây trắng bay qua, dòng sông chảy xiết, cốc chén trên bàn, mẻ bánh
đa đỏ nắng Hữu Thỉnh vừa tiếp thu vừa đổi mới sáng tạo thành quả của người đi trước góp phần “đánh
thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta khi chúng ta ngày một cố lìa xa nề nếp cũ để hòng đi tới chỗ
mà ta gọi là văn minh”. Sự từng trải trong cuộc sống, sống sâu sắc và mạnh mẽ trong biển nhân dân để lời

20
ăn tiếng nói bình dân ngấm vào máu thịt, không ngừng học hỏi và tài năng cá nhân … Tất cả những điều
đó đã làm nên một Hữu Thỉnh với nét đặc sắc riêng ít ai có được.
3.4.2. Nghệ thuật ẩn dụ
Ẩn dụ là biện pháp nghệ thuật quan trọng, là thế mạnh của thơ đặc biệt là trơ trữ tình. Ẩn dụ không

gọi thẳng tên đối tượng mà để cho người đọc tự tìm đến đối tượng đó trong văn cảnh theo quy luật của
lôgich, của tâm lý. Ẩn dụ thực tế là so sánh ngầm mà ở đó “cái được nói tới thì giấu đi một cách kín
đáo”[16,11]. Ngôn ngữ thơ trở nên giàu hình ảnh và biểu cảm hơn khi ẩn dụ phát huy tác dụng.
Với hồn thơ nhiều trăn trở khi đứng trước hiện thực bề bộn và thế giới nội cảm phong phú của con
người thì Hữu Thỉnh đã sử dụng ẩn dụ ở nhiều cấp độ nhưng chủ yếu ở cấp độ ngữ và câu. Và rộng hơn là
cấp độ cả bài thơ như Thương lượng với thời gian là sự tính toán bon chen trong đời sống của con người; Lọc
là tình yêu vượt qua những thứ tầm thường; Một thoáng làm người lại nói về cuộc sống con người nhiều
phức tạp sóng gió… Thông qua ẩn dụ, nhà thơ bày tỏ được những suy tư, trăn trở trước cuộc đời một cách
hàm súc, biểu cảm và sâu sắc.
3.4.3. Nghệ thuật nhân hoá
Nhân hoá là một biến thể của ẩn dụ, ở đó người ta chuyển đổi ý nghĩa của các từ ngữ chỉ thuộc tính
của người sang đối tượng không phải là người hoặc coi các đối tượng không phải là người như con người,
tâm tình trò chuyện với chúng. Nhân hoá thường gắn với cách nhìn, tình cảm thái độ của người nói một cách
kín đáo. Nhờ nhân hoá mà cảnh vật thiên nhiên, đồ vật được miêu tả trở nên sinh động gần gũi, tạo sự liên
tưởng nhiều khi bất ngờ cho người đọc.

21
Hình ảnh trong thơ Hữu Thỉnh lung linh nhiều nét mới một phần là do ông sử dụng biện pháp nhân
hoá: Rừng bỗng quên vừa qua trận bom đau, Núi tốt bụng đang ngồi xanh phía trước, Sóng mang đi âu yếm
đất liền, Biển mệt nhoài nằm thở ở Nha Trang…Đó là sự vận dụng sáng tạo phép nhân hoá, vốn từ ngữ, cách
nói của quần chúng nhân dân để diễn đạt nội dung hiện thực và cảm xúc mới đồng thời luôn trăn trở để tìm
tòi cái “lạ hoá”, “hiện đại hoá” của ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ. Chính điều đó đã ghi dấu cái tên Hữu
Thỉnh trong lòng bạn đọc và các nhà nghiên cứu.
* Tiểu kết: Thơ Hữu Thỉnh dung dị, mộc mạc mang điệu hồn ca dao, điệu hồn dân tộc đem theo hơi
thở của cuộc sống. Ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh giàu yếu trực giác, cảm giác, giàu sức liên tưởng, tưởng tượng
và tính tạo hình. Những yếu tố đó góp phần quan trọng giúp Hữu thỉnh bộc lộ cái tôi thành thực và một hồn
quê hồn hậu, đậm chất triết lý. Những tìm tòi của Hữu Thỉnh về phương diện hình thức chính là một nỗ lực
để tạo nên một phong cách riêng, một đặc điểm nghệ thuật riêng mang tên Hữu Thỉnh. Có lẽ ở đây Hữu
Thỉnh đã hiểu được điều mà Lêônốp đã từng nói: “Mỗi một tác phẩm nghệ thuật là một phát hiện về nội
dung và là một phát minh về hình thức”.


22
KẾT LUẬN
Thơ ca là nghệ thuật biểu hiện tâm trạng, là nơi để cái tôi chủ quan của mỗi chủ thể sáng tác bộc lộ
đời sống riêng của mình. Nghiên cứu Đặc điểm nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh giúp ta có được cái nhìn khái
quát về những đặc điểm nổi bật trong những sáng tác đồng thời hình dung được tính độc đáo về tư duy nghệ
thuật của nhà thơ. Thông qua những thay đổi vận động của thơ Hữu Thỉnh giữa hai thời kỳ thơ chống Mỹ và
thơ đương đại, người đọc có thể hình dung những biến chuyển chung trong tư tưởng và nghệ thuật của thơ ca
Việt Nam trong những thập niên gần đây.
Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Hữu Thỉnh luôn dồn hết tâm trí và tài năng cho nghệ
thuật để có những tìm tòi, trải nghiệm, đổi mới cho thơ với những cách thể hiện hết sức mới mẻ và đầy ấn
tượng. Cùng với hành trình sáng tạo của các nhà thơ kháng chiến chống Mỹ, Hữu Thỉnh đã mang đến cho
thơ ca một cái nhìn mới mẻ, riêng biệt và khá độc đáo khi viết về cuộc chiến cũng như về con người trong
cái nhìn toàn diện và theo nhiều chiều hướng.
Những đóng góp của Hữu Thỉnh cho thơ ca Việt Nam trong hơn 30 năm trở lại đây là không nhỏ.
Ngay từ những bài thơ đầu tay cho đến nay Hữu Thỉnh đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu
đậm về một hồn thơ giàu nhiệt huyết, luôn trăn trở, lo âu cho nhân thế đồng thời đã mang đến cho thơ mình
một vẻ đẹp riêng: sắc sảo, tinh tế mà vẫn bình dị, chân thật mà không kém phần hư ảo, hồn nhiên mà bay
bổng, tự nhiên mà không nông cạn. Như một dòng suối nhỏ, thơ Hữu Thỉnh khi về với dòng sông của thơ ca
Việt Nam đương đại mang trong mình những giọt nước lấp lánh, những hạt phù sa chắt chiu từ lao động, từ
đời sống cần lao dân dã của quê hương để mang đến những vần thơ làm đẹp cho đời./

×