SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÌM HIỂU NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ
TỪ KHÍA CẠNH NỘI TÂM
NHÂN VẬT
A/ Đặt vấn đề.
Như chúng ta đã biết tác phẩm tự sự chiếm một số lượng lớn trong chương trình
văn học ở trường phổ thông .Việc tìm hiểu, khám phá tác phẩm tự sự một cách đúng
đắn, có hiệu quả cao vẫn đang là một thử thách lớn với giáo viên và học sinh. Có
nhiều cách để tìm hiểu tác phẩm tự sự: Có thể đi từ cốt truyện, tình tiết, biến cố, nhân
vật Nhưng có lẽ trong tác phẩm tự sự thì nhân vật là một thành phần trung tâm của
tác phẩm, là yếu tố quyết định tạo thành cốt truyện, là nơi để tác giả gửi gắm những tư
tưởng chủ đề. Nhân vật trong tác phẩm tự sự thường được khắc hoạ qua những khía
cạnh như: Lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội tâm, hành động ở đề tài này người
viết chỉ đề cập đến một khía cạnh khám phá nhân vật đó là : Từ nội tâm nhân vật,
tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm tự sự. Bởi vì, nhân vật trong tác phẩm tự sự hầu
hết đều được các tác giả khắc hoạ rõ nét yếu tố nội tâm từ đó nhân vật được khắc hoạ
sâu sắc .
B/ Lý do chọn đề tài.
Trong trường THPT học sinh thường lúng túng trong việc khai thác tác phẩm tự sự.
Đặc biệt là khó khăn trong việc tìm hiểu các nhân vật trong tác phẩm tự sự. Học sinh
thường thể hiện nhân vật một cách chung chung mà không làm nổi bật được nhân vật.
Mà trong tác phẩm tự sự thì nhân vật thường thể hiện chủ đề của tác phẩm. Hơn nữa
trong khai thác nhân vật học sinh thường khó khăn trong việc tìm hiểu thể hiện nội
tâm nhân vật. Với đề tài này, người viết muốn đưa ra một vài cách tìm hiểu nhân vật
trong tác phẩm tự sự qua nội tâm nhân vật. Từ đó hướng dẫn học sinh tìm hiểu cụ thể
nội tâm nhân vật qua giờ học tác phẩm tự sự và giờ làm văn phân tích nhân vật trong
tác phẩm tự sự. Người viết sẽ cụ thể hoá vấn đề này trong một số tác phẩm tự sự trong
trường phổ thông như: "Đời thừa " của Nam Cao, " Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài.
C/ Phạm vi đề tài.
Với đề tài này người viết nghiên cứu trong diện hẹp: Tìm hiểu nội tâm một số nhân
vật trong tác phẩm tự sự ở chương trình văn học lớp 11 và lớp 12.
D/ Phương pháp nghiên cứu.
- Từ việc tìm hiểu đặc điểm chung về tác phẩm tự sự giáo viên hướng dẫn học sinh
tìm hiểu tính cách nhân vật trong giờ học tác phẩm tự sự và trong giờ làm văn phân
tích nhân vật trong tác phẩm tự sự:
- Từ đó hướng dẫn học sinh thực nghiệm cụ thể về tính cách nhân vật trong hai tác
phẩm tự sự: "Đời thừa " của Nam Cao, " Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài.
E/ Cấu trúc của đề tài: Gồm 3 phần.
- Phần I: Giới thiệu chung.
- Phần II: (Trọng tâm) gồm 4 chương.
+ Chương I : Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
+ Chương II: Nội tâm nhân vật trong tác phẩm tự sự và việc hướng học sinh tìm
hiểu nội tâm nhân vật.
+ Chương III: Thực nghiệm.
+ Chương IV: Trắc nghiệm kiểm chứng đề tài
- Phần III: Kết luận.
Phần nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu về nội tâm nhân vật trong một số tác phẩm tự
sự ở trường phổ thông ta cần hiểu rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận xoay quanh thể
loại tự sự.
I/ Tác phẩm tự sự - và đặc điểm của tác phẩm tự sự.
1- Khái niệm về tác phẩm tự sự.
Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong: "Từ điển thuật ngữ văn
học" (NXB ĐHQGHN- 1997) thì tự sự được hiểu là : "Phương thức tái hiện đời sống
bên cạnh hai phương diện khác là trữ tình và kịch, được dùng làm cơ sở để phân loại
tác phẩm văn học" (SĐD- trong 317) .
Theo "Từ điển tiếng Việt": "Tự sự là thể loại văn học phản ánh hiện thực bằng cách
kể lại sự việc, miêu tả tính cách thông qua cốt truyện, tương đối hoàn chỉnh".
Trong lý luận văn học thì :"Tác phẩm tự sự là loại tác phẩm phản ánh đời sống trong
quá trình khách quan của nó, qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một
người kể chuyện nào đó".
Theo Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Tiến sĩ Huỳnh Như Phương:"Tự sự là kể chuyện,
trình bày sự việc, sự vật một cách cụ thể, chi tiết, có đầu có đuôi, tự sự tập trung chủ
yếu vào việc miêu tả thế giới bên ngoài".
Từ các hướng nghiên cứu trên chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về thể loại
tự sự như sau: Tự sự là thể loại văn học phản ánh cụ thể hiện thực đời sống một cách
khách quan bằng cách kể lại sự việc, sự kiện, miêu tả tính cách nhân vật, chi tiết có
đầu có đuôi thông qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh và được kể lại bởi một người
kể chuyện nào đó.
2- Những đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự bao gồm:
- Cốt truyện.
- Nhân vật.
- Ngôn ngữ.
3- Nhân vật và đặc điểm của nhân vật trong tác phẩm tự sự.
- Nhân vật: Thường là con người, có thể là sự vật, loài vật
- Đặc điểm nhân vật trong tác phẩm tự sự: Thường được thể hiện qua các khía cạnh:
Lai lịch, ngoại hình, nội tâm, hành động, ngôn ngữ
II/ ý nghĩa của việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội tâm nhân vật
trong tác phẩm tự sự trong trường THPT .
1- Trong giờ giảng văn tác phẩm tự sự.
Vấn đề lớn đặt ra là làm thế nào để học sinh tiếp cận tác phẩm hiệu quả nhất trong giờ
học. Trong tác phẩm tự sự tác phẩm nào cũng có nhân vật và nhân vật bao giờ cũng
thể hiện chủ đề tác phẩm cho nên tìm hiểu tác phẩm là tìm hiểu nhân vật. Nhưng tìm
hiểu nhân vật như thế nào để đạt đựơc hiệu quả cao nhất.Trong khi tiếp cận tác phẩm
văn học chúng ta tìm hiểu nhân vật qua nhiều yếu tố như ngoại hình, nội tâm, hành
động, ngôn ngữ Như vậy tìm hiểu nội tâm nhân vật để khái quát về nhân vật không
phải là một con đường duy nhất. Tuy nhiên nội tâm có vai trò hết sức quan trọng vì
ngoại hình và hành động của nhân vật không phải bao gìơ cũng bộc lộ rõ về nhân vật
.Ta lấy một ví dụ: Khi tiếp xúc nhân vật Cadimôđô của VicToHuygô trong tác phẩm:
"Nhà thờ Đức bà Pari" ai cũng thấy anh ta là một người có ngoại hình xấu xí nhưng
lại có một tâm hồn cực kỳ cao đẹp. Như vậy: " nhìn mặt không thể bắt hình dong
được".
Vậy nên vấn đề hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội tâm nhân vật trong tác phẩm tự sự ở
trường THPT qua giờ dạy tác phẩm có ý nghĩa hết sức to lớn.
2- Trong giờ làm văn phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự
Nhà văn sáng tạo ra nhân vật văn học để nhận thức về: Con người, xã hội, để thể
hiện tư tưởng thái độ của mình đối với con người, xã hội.Hiểu đúng nhân vật trong tác
phẩm chính là để tiếp nhận đúng nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm đó. Để
hướng dẫn học sinh phân tích nhân vật qua đó toát lên được nội tâm nhân vật trong
giờ làm văn chúng ta có thể thực hiện các thao tác sau:
- Thao tác 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chung về tác phẩm , nhân vật, như: Nhân
vật thuộc tác phẩm nào? Thuộc thời đại nào ? Của tác giả nào? Như thế mới hiểu sâu
về nhân vật.
- Thao tác 2: Tìm hiểu nhân vật qua chi tiết cụ thể như:
+ Hình dáng:
+ Nội tâm.
+ Quan hệ của nhân vật với các nhân vật khác.
+ Hoàn cảnh, môi trường sống.
+ Ngôn ngữ nhân vật.
Trong các yếu tố trên thì nội tâm thể hiện một cách sâu sắc nhất nhân vật. Khi hướng
dẫn học sinh tìm hiểu về nội tâm nhân vật cần lưu ý mỗi nhân vật có nôị tâm riêng,
cho nên khi tìm hiểu cần có cách khám phá riêng, đặt nội tâm nhân vật trong hoàn
cảnh cụ thể để khai thác.
- Thao tác 3: Những kết luận về nội tâm nhân vật: Nhân vật là loại người nào, đại
diện cho vấn đề gì về tư tưởng của tác phẩm, đóng góp về mặt nhận thức và giáo dục
thẩm mỹ cho người đọc như thế nào? Nhân vật đã có nội tâm rõ, điển hình chưa
Cần có những dẫn chứng về nội tâm cụ thể để kết luận về nhân vật mang tính thuyết
phục cao.
Chương II: Nội tâm nhân vật trong tác phẩm tự sự với việc
hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhân vật.
I/ Nội tâm nhân vật trong tác phẩm tự sự.
1- Khái niệm: Theo từ điển thuật ngữ văn học thì: nội tâm nhân vật là những tâm tư
tình cảm bên trong của nhân vật.
2 - Vai trò của nội tâm nhân vật.
- Nội tâm nhân vật sẽ có vai trò rất lớn trong việc thể hiện một cách toàn diện về nhân
vật. Qua nội tâm nhân vật độc giả sẽ hiểu được diễn biến tâm lí nhân vật từ đó sẽ hiểu
được tính cách nhân vật.
II/ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhân vật thông qua nội tâm nhân vật.
1- Lựa chọn nhân vật để phân tích .
Nhân vật trong tác phẩm tự sự rất đa dạng phong phú. Dựa trên phương diện kết cấu
và ý thức hệ có thể chia nhân vật ra thành các loại sau: Nhân vật chính, nhân vật phụ,
nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện các nhân vật sẽ góp
phần thể hiện tư tưởng chủ đề và nội dung của tác phẩm.
Tuy nhiên trong giờ học ở trường phổ thông chúng ta không có đủ thời gian để hướng
dẫn học sinh phân tích hết các nhân vật được nên chúng ta phải lựa chọn các nhân vật
để phân tích. Ví dụ trong "Đời thừa" của Nam Cao xuất hiện rất nhiều nhân vật nhưng
chỉ có nhân vật nhà văn Hộ thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Cho nên khi phân tích tác
phẩm này cần chú ý khai thác kĩ hai nhân vật Hộ. Hay trong "Vợ chồng Aphủ " của Tô
Hoài cũng xuất hiện nhiều nhân vật nhưng nhân vật Mị mới là hình tượng điển hình
cần phân tích.
2- Xác định nội tâm nhân vật.
Nội tâm nhân vật được thể hiện trong nhiều thời điểm, có thể trong quá khứ, hiện tại
hoặc trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
Trong tác phẩm " Đời thừa" nhân vật Hộ bộc lộ nội tâm trong những hoàn cảnh đời
thường của cuộc sống mưu sinh, trong mối quan hệ với bạn văn chương, gia đình.
Trong tác phẩm " Vợ chồng Aphủ" nội tâm của Mị được bộc lọ khá rõ qua hai thời
điểm đó là trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cứu Aphủ.
Như vậy qua hai tác phẩm trên chúng ta sẽ tập trung khai thác nội tâm hai nhân vật
Hộ và Mị để tìm hiểu toàn diện về nhân vật.
Chương III: Thực nghiệm
A/ Trong giờ dạy tác phẩm tự sự.
I/ Tác phẩm " Đời thừa" của Nam Cao.
Văn học Việt Nam 1930 - 1945 có rất nhiều biến động. Có thể nói nhân dân Việt
Nam phải chịu một cổ ba tròng áp bức bóc lột: Phong kiến, thực dân, phát xít. Nhân
dân rơi vào hoàn cảnh sống đầy rẫy những khó khăn, quẫn bách mà điển hình ở hai
giai cấp là: Người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. Nhà văn Nam Cao đã nhìn
thấu được hoàn cảnh xã hội và hiện thực cuộc sống đó, cho nên những sáng tác trước
cách mạng tháng Tám tác giả chủ yếu khai thác hai đề tài này. Nhà văn đã thâm nhập
vào những bí ẩn trong tâm hồn người trí thức bằng những độc thoại nội tâm trong
tâm hồn đau khổ của họ. Tác giả để cho nhân vật tự ngẫm lại mình, tự nhận thức
mình, tự mổ xẻ nội tâm của mình, tự phê phán mình, từ đó tác giả khai thác sâu sác
những bi kịch tinh thần của họ: Bi kịch của những con người có những hoài bão ước
mơ cao đẹp về cuộc sống và nghề nghiệp nhưng do hoàn cảnh cùng cực của cuộc
sống mà phải sống một đời thừa, cuộc sống mòn và có nguy cơ bị xói mòn về nhân
phẩm.
Có thể xem " Đời thừa " là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nam Cao trước
cách mạng về đề tài người trí thức tiểu tư sản nghèo. Trong tác phẩm nhà văn đã xây
dựng thành công nhân vật nhà văn Hộ với những mảng nội tâm phong phú phức tạp
để từ đó nổi lên những bi kịch trong cuộc đời của Hộ. Nội tâm của Hộ được bộc lộ
trong cuộc sống đời thường thông qua hai bi kịch là: Bi kịch lí tưởng nghề nghiệp và
bi kịch tình thương.
1, Nội tâm của nhà văn Hộ qua bi kịch về lí tưởng và nghề nghiệp.
Hộ vốn là một nhà văn một trí thức trẻ say mê nghệ thuật: " Đói rét không có nghĩa lí
gì với gã tuổi trẻ say mê lí tưởng" Hắn say mê sáng tác, lao động nghệ thuật một cách
miệt mài, cần cù, nhẫn nại. Hắn viết lách một cách thận trọng, hắn đọc, suy nghĩ tìm
tòi bình luận về văn chương không biết chán. Hắn có những quan điểm đẹp đẽ, đúng
đắn về nghề văn:" Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một
vài kiểu mẫu đưa cho mà văn chương chỉ dung nạp những người biết khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có". và " Một tác phẩm thật có giá
trị phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, nó ca
tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn".
Nhưng vì gánh nặng cơm áo mà hắn đã vi phạm vào những nguyên tắc, quan niệm về
nghề văn: " Hắn viết vội vàng cẩu thả, nhạt nhèo" để cho người ta có thể quên ngay
sau khi đọc. Để rồi mỗi lần nhìn lại tác phẩm của mình hắn lại tự mắng mình" Khốn
nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi ví chính hắn là một thằng khốn nạn, sự cẩu thả
trong bất cứ nghề nghiệp gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn
chương thì thật là đê tiện". Hắn là một kẻ vô ích, một đời thừa. Hắn nghĩ thế và buồn
lắm. Còn gì buồn hơn một con người tự mình lại chán chính mình, một con người
luôn khao khát làm một cái gì đó để nâng cao giá trị đời sống nhưng kết cục chẳng
làm được gì cả phải sống một đời thừa vô nghĩa trong cuộc đời.
Có thể nói bằng những lời nói nội tâm gay gắt Hộ đã lâm vào bi kịch đau đớn giằng
xé giữa một bên là lương tâm và khát vọng nghề nghiệp với một bên là vòng kim cô
khắc nghiệt của sự mưu sinh hàng ngày.
2, Nội tâm của nhà văn Hộ qua bi kịch về tình thương.
Hộ có những suy nghĩ về tình thương rất đúng đắn :" Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm
lên vai người khác để thoả mãn lòng ích kỉ mà kẻ mạnh là kẻ nâng đỡ người khác trên
đôi vai của mình". Với Hộ tình thương chính là một nguyên tắc sống, một lẽ sống cao
đẹp, một tiêu chuẩn để xác định tư cách làm người. Hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ
tình yêu vị kỉ nhưng hắn không thể bỏ lòng thương. Có lẽ hắn nhu nhược hèn nhát
tầm thường nhưng hắn vẫn được coi là người. Phải đặt giữa lí tưởng và tình thương
hắn chọn tình thương " Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền, đến khi Từ có một số
vốn con để làm ăn " Nhưng cuối cùng hắn điên lên vì kiếm tiền, điên lên vì con
khóc, ốm đau Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá, hắn trở lên cáu gắt. Nhiều khi
không chịu được hắn bỗng đứng phắt lên, nước mắt chan chứa, mặt hắn hầm hầm, hắn
vùng vằng bỏ đi ra phố, vừa đi vừa uất nghẹn. Hắn nhớ đến một cái gì xa xôi những
mộng đẹp ngày xưa một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu
tự bảo:" Thôi thế là hết, ta đã hỏng, ta đã hỏng đứt rồi". Hắn quay về với quá khứ
nhưng những hồi ức đó càng làm cho hắn đau hơn, bứt rứt hơn trước cuộc sống của
hiện tại. Trong nỗi đau đớn đó Hộ đã trở thành một người chồng vũ phu một người
cha tàn nhẫn. Rồi sau khi tỉnh rượu :" Hắn bẽn lẽn kêu mình quá chén" xin lỗi vợ con.
Nhưng rồi hắn lại vi phạm vào những lỗi lầm đó sâu hơn. Nhìn dáng nằm của vợ hắn
ân hận, hắn đã làm được gì cho đời Từ đỡ khổ hay hắn chỉ làm cho người đàn bà đó
khổ hơn. Hắn khóc:" Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp
mạnh". Hắn cố nói qua tiếng khóc: " Anh chỉ là một thằng khốn nạn". Đây là những
giọt nước mắt của tình thương, của sự hối hận, của giây phút xám hối chân thành, và
cũng là những giọt nước mắt bất lực. Những giọt nước mắt hói hận ấy đã giữu cho
anh không trượt xuống vực thẳm của cuộc đời tăm tối.
Như vậy qua nội tâm ta nhận thấy sự giày vò đến chảy máu trong tâm hồn Hộ: Một
con người lấy tình thương làm lẽ sống mà hàng ngày lại vi phạm nghiêm trọng vào lẽ
sống tình thương ấy.
Tóm lại qua những dằn vặt trong tâm hồn Hộ ta nhận thấy kiếp sống mòn, sống thừa
của người trí thức tiểu tư sản đang quằn quại trước cuộc sống của chế độ thống trị
phong kiến thực dân. Hộ được xây dựng là một phần những suy nghĩ cũng như cuộc
sống của Nam Cao. Vấn đề lớn mà nhà văn đặt ra ở đây là: Trong cuộc sống đó con
người phải làm thế nào để giữ gìn được nhân cách và phẩm giá của mình. Đó chính là
tiếng nói nhân đạo sâu sắc trong tư tưởng của Nam Cao.
II/ Tác phẩm " Vợ chồng Aphủ " của Tô Hoài.
Tác phẩm " Vợ chồng Aphủ" được Tô Hoài viết năm 1952 in trong tập truyện Tây
Bắc. Truyện viết về hai chặng trong cuộc đời của Mị và Aphủ qua đó thể hiện số phận
đau thương của họ cũng như khát vọng vượt lên trên số phận đau thương.
Mị là nhân vật chính của tác phẩm được Tô Hoài thể hiện những diễn biến tâm lí khá
tinh tế và phức tạp. Tâm lí của Mị được thể hiện khá rõ qua hai thời điểm là: đêm tình
mùa xuân và đêm đông cởi trói cứu Aphủ.
1, Tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Cuộc sống của Mị trong nhà Thống lí Patra là cuộc sống của một kiếp nô lệ bị bóc lột
bởi nhiều ách áp bức: Cường quyền, bạo lực, thần quyền, nam quyền.Sống trong cuộc
sống đó Mị mất hết nhiệt tình sống, cô làm việc và sống như con trâu con ngựa, con
rùa nuôi trong xó cửa. Kiếp sống đó đã đánh mất hết những nhiệt tình sống trong cô,
mất hết cảm giác làm người. Cô không kêu than, không oán trách, không cười, không
nói thậm chí còn không buồn chết khi cha cô không còn nữa.
Sức sống tiềm tàng của Mị thực sự trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân. Hình ảnh quen
thuộc của mùa xuân đã xuất hiện. Cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã được
đem ra phơi trên những mỏm đá xoè ra như những con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện
nở trắng rồi chuyển sang tím man mát, đám trẻ con chơi quay cười ầm trên trước sân
nhà. Đặc biệt mùa xuân đến bằng âm thanh của tiếng sáo gọi bạn tình. Tiếng sáo tha
thiết gọi bạn đầu làng, Mị nghe tiếng sáo vọng lại tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng
bay ngoài đường tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Âm thanh của tiếng
sáo khơi gợi trong Mị ý thức về thời gian, mùa xuân đã lại về và trong Mị lại dội về
những khát vọng yêu đương hạnh phúc một thời" Ngày trước Mị thổi sáo giỏi có biết
bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác". Tiếng
sáo khiến Mị sống lại niếm ham sống khát vọng hạnh phúc một thời tuổi trẻ. Mị ý
thức rằng mình vẫn còn trẻ " Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng
như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Mị đau
xót trước sự bó buộc của thực tại" Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết
ngay chứ không buồn nhớ lại nữa". Đây chính là sự phản kháng lại hoàn cảnh thực
tại, chứng tỏ rằng âm thanh của tiếng sáo đã đánh thức trong Mị những khao khát
sống đã bị lụi tắt. Trong cô vẫn tiềm tàng một thứ ánh sáng le lói đó là niềm ham
sống, sức sống tiềm tàng trong cô vẫn âm ỉ cháy đã bùng lên mạnh mẽ dưới lớp tro
tàn. Mị uống rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Đây là hành động không bình thường
của Mị. Cô không ý thức được hành động của bản thân. Hơi rượu khiến Mị nồng nàn
đưa cô trở về với quá khứ tươi đẹp của những đêm tình mùa xuân. Mị thắp đèn" Mị
đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng". ánh đèn đã
thắp sáng lên căn phòng Mị ở đồng thời cũng thắp lên một thứ ánh áng mới lạ trong
cuộc đời của Mị trong nhà Thống lí. Cô chuẩn bị trang phục đi chơi" Mị cuốn lại tóc
với tay lấy cái váy hoa mị muốn đi chơi". Hàng loạt những hành động của Mị nối
đuôi nhau như một phản ứng dây chuyền, theo bản năng của một con người tự do, đi
theo tiếng gọi của mình theo một quy luật biện chứng tâm hồn. Mị thực hiện hành
động của mình mặc ánh mắt lạ lẫm của bố con nhà Thống lí. Tâm lí của Mị được phát
triển lên đỉnh điểm vừa mơ hồ vừa tỉnh táo, vừa hiện thực vừa lãng mạn. ở Mị xuất
hiện hai con người, hai tâm trạng. Một con người cam chịu, day dứt lo lắng, tủi hờn
về thân phận, một con người trỗi dậy mạnh mẽ náo nức muốn tháo cũi sổ lồng. Mị thả
hồn đi theo âm thanh của những tiếng sáo, theo những cuộc chơi, hơi rượu nồng nàn
khiến Mị lúc mê lúc tỉnh, nồng nàn tha thiết nhớ. Đó chính là sức sống tiềm tàng
trong Mị tưởng đã bị vùi lấp nhưng nay bỗng trỗi dậy bùng lên một cách mạnh mẽ.
Như vậy nội tâm của Mị đã được thể hiện khá rõ qua diễn biến tâm lí của cô. Qua nội
tâm nhân vật ta thấy rõ về cuộc đời Mị - một người dân lao động miền núi có cuộc đời
éo le bất hạnh nhưng họ vẫn vượt lên trên cuộc đời, số phận để giành lấy tình yêu,
hạnh phúc, tự do.
2, Tâm lí của Mị trong đêm đông cởi trói cho Aphủ.
Hành động cứu Aphủ của Mị diễn ra khá phức tạp phù hợp với diễn biến tâm lí của
Mị. Thấy Aphủ bị trói bên bếp lửa Mị vẫn lạnh lùng dửng dưng" Mị vẫn thản nhiên
thổi lửa hơ tay, nếu Aphủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi đêm sau Mị vẫn ra
sưởi như đêm trước". Hành động của Mị thể hiện một sự vô cảm, tê dại, chai lì vì cô
đã quá quen với những cảnh đánh đập hành hạ trong nhà Thống lí.
Tâm lí của Mị được phát triển mạnh mẽ khi Mị nhìn thấy dòng nước mắt đồng cảm "
Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại". Giọt nước mắt của Aphủ cũng chính là giọt nước
mắt trước đây mà Mị phải rơi khi cô bị trói, nước mắt rơi xuống mà không lau đi
được. Sự đồng cảm khiến Mị hình thành những cảm xúc thương xót với Aphủ xen lẫn
với cảm xúc căm hờn, ý thức phản kháng lại hoàn cảnh đã bắt đầu hình thành trong
cô. Từ ý thức, từ tình thương yêu đồng loại khiến Mị không do dự trong hành động
cởi trói cứu Aphủ " Làm sao Mị cũng không thấy sợ Mị rút con dao nhỏ cắt lúa cắt
nút dây mây". Hành động này thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn Mị. Cứu Aphủ, nhìn
hoàn cảnh thực tại Mị đã quyết định chạy theo Aphủ " Aphủ cho tôi đi ở đây thì chết
mất". Đây là hành động thể hiện sự phát triển tâm lí theo quy luật biện chứng trong
con người Mị. Thể hiện bản năng tự vệ phản kháng tích cực, sự tháo cũi sổ lồng bứt ra
khỏi địa ngục trần gian, cất mình khỏi nấm mồ tăm tối bay ra vùng trời tự do của cánh
chim bằng. Mị đã đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui. Tâm lí của Mị diễn
biến khá phức tạp thể hiện phép biện chứng trong tâm hồn Mị diễn ra đầy mâu thuẫn
nhưng bất ngờ hợp lí, thể hiện ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo của Tô Hoài.
Như vậy thông qua tâm lí nhân vật Mị người đọc đã hiểu về con người Mị một kiểu
nhân vật người dân lao động miền núi bị bóc lột nhưng vẫn khao khát vươn lên tìm
hạnh phúc tự do. Đây chính là vẻ đẹp trong tâm hồn con người mà Tô Hoài muốn thể
hiện.
B/ Trong giờ làm văn
1-Lựa chọn nhân vật:
ở khâu này giáo viên không phải hướng dẫn học sinh vì nhân vật cần phân tích đã
được quy đinh rõ ở đề bài.
1- Xác định nội tâm nhân vật.
Cần xác định rõ nội tâm nhân vật được thể hiện trong thời gian, không gian, hoàn
cảnh nào.
3- Phân tích nội tâm nhân vật.
Đòi hỏi người phân tích phải khai thác kỹ diễn biến tâm lí nhân vật qua đó tìm hiểu
toàn diện về nhân vật. Quá trình phân tích có thể làm tương tự như giờ học tác phẩm.
Chương VI : Trắc nghiệm kiểm chứng đề tài.
Qua việc dạy tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm tự sự từ khía cạnh nội tâm nhân vật
trong giờ giảng văn và giờ làm văn áp dụng với 4 lớp 11A1,11A3,12A5,12A7 thu
được kết quả cụ thể như sau:
- Hầu hết học sinh hiểu, nắm chắc, khắc sâu được kiến thức về nhân vật.
- Học sinh hứng thú trong cách tìm hiểu về nhân vật.
- áp dụng làm các dạng bài về nhân vật một cách có hiệu quả.
Cụ thể.
- Kết quả kiểm tra viết trung bình các khối lớp:
+ Giỏi = 10%
+ Khá = 60%
+ Trung bình= 30%
Lớp Học hứng thú Hiểu bài
12A 5 40/45 học sinh 45/45 học sinh = 100%
12A7 38/45 học sinh 45/45 học sinh = 100%
11 A1 42/45 học sinh 45/45 học sinh = 100%
11A3 40/45 học sinh 45/45 học sinh = 100%
Phần III: Kết luận
1- Xuất phát từ yêu cầu mới của công việc giảng dạy lấy học sinh làm trung
tâm cho nên việc hướng đẫn học sinh tìm hiểu nội tâm nhân vật trong tác phẩm tự sự
ở trường phổ thông không nằm ngoài mục đích này. Việc làm này sẽ có tác dụng nâng
cao hiệu quả dạy của thày và học của trò.
2- Đề tài này không phải là một hướng đi mới mà chỉ là một phương pháp cụ
thể hoá vấn đề để khám phá tư tưởng chủ đề của tác phẩm một cách đúng đắn, hiệu
quả cao.
3- Tuy nhiên nội tâm nhân vật không phải là yếu tố duy nhất để thể hiện nhân
vật. Cho nên khi phân tích nhân vật không được xem nhẹ các yếu tố khác như : Ngoại
hình, ngôn ngữ, hành động Có như vậy nhân vật mới được hiện lên một cách toàn
diện hơn.
4- Với điều kiện thời gian ngắn trình độ bản thân có hạn chắc chắn đề tài còn
nhiều hạn chế. Với tâm huyết và tấm lòng của mình tôi muốn đóng góp cho công việc
dạy học một đề tài nhỏ để nâng cao hiệu quả dạy học. Rất mong được sự chỉ dẫn, góp
ý và đồng cảm của đồng nghiệp và bạn đọc.
Lý Nhân ngày 10/5/2007
Người viết sáng kiến
Phạm Hồng Dũng