Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

“Tương tư” - Nguyễn Bính pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.6 KB, 9 trang )

“Tương tư” - Nguyễn Bính

Thôn Ðoài ngồi nhớ thôn Ðông,
Một người chín nhớ mười mong một người,
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương Tư là bệnh của tôi yêu nàng,

Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này,
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng,

Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành,
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi,

Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai hỏi ai người biết cho,
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau,

Nhà em có một giàn trầu,
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng,
Thôn Ðoài thì nhớ thôn Ðông,
Cau thôn Ðoài nhớ trầu không thôn nào.

Màu sắc dân tộc trong Tương tư của Nguyễn Bính?
Nguyễn Bính thuộc thế hệ các nhà Thơ mới. Nhưng nếu phần lớn các thi
sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại
tìm về với điệu thơ dân tộc.



“Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm được chú ye hơn cả trong sự nghiệp
sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc
duyên dáng, mang phong vị ca dao: tác phẩm này đã đem đến cho người
đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và một tình
người đằm thắm thiết tha. Bài thơ “Tương tư” được in lần đầu trong tập
thơ “Lỡ bước sang ngang”. Đây là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ
Nguyễn Bính nói chung và cho lập “Lỡ bước sang ngang” nói riêng.

Tương tư là trai gái nhớ nhau. Dĩ nhiên đây là nỗi niềm u ẩn của những
người yêu nhau phải xa nhau. “Tương tư” là một thi đề quen thuộc trong
cả văn chương dân gian lẫn văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính đã
có những thi sĩ lừng danh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ… viết về
đề tài này. Và ngay trong làng “Thơ mới” đã có bài “Tương tư chiều”
nổi tiếng của Xuân Diệu. Tất cả những điều đó là những thử thách to lớn
đối với những cây bút đi sau. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách
đó, mang đến cho đề tài này phần nội dung mới và cách nói mới.

Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính được thể hiện bằng những sắc
thái muôn thuở của chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa nhau. Có nhớ
nhung, có trách móc, có giận hờn, và dĩ nhiên cả khắc khoải đợi
chờ…Nỗi niềm tương tư ở đây chưa đến độ cháy bóng mãnh liệt như
trong thơ Xuân Diệu (“Bữa ni lạnh, mạt trời đi ngủ - Anh nhớ em, em
hỡi anh nhớ em!”), nhưng cũng thật tha thiết chân thành:

“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gío mưa là bệnh của giời


Tương tư là bện của tôi yêu nàng”.

Thì ra, nếu gió mưa là “căn bệnh”, là sự vận động thường xuyên của
thiên nhiên thì nhớ mong là căn bệnh cố hữu diễn ra như một quy luật tất
yếu của những người đa tình, đa cảm, dường như có mặt ở trên đời này
chỉ để thương thầm nhớ vụng. Giữa chàng trai – nhân vật trữ tình – và
bạn gái dường như chẳng có cách trở gì về cả không gian lẫn thời gian?
Họ ở chung một làng, chỉ cách nhau có “một đầu đình”. Cô gái có thể
thuận lợi đủ điều càng khiến cho nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn
thêm hờn dỗi. Nhưng nào có ai đâu mà chờ với đợi. Cũng như một số
bài thơ khác của Nguyễn Bính thường nói đến mối tình đơn phương
(như trong bài Hoa và rượu. Người phương nên lời trách móc, hờn dỗi
kia rõ ràng trở thành vu vơ. Thực ra, những lời nói đó chính là sự tự bộc
lộ tâm hồn nhạy cảm, khao khát yêu thương của chính nhà thơ. Khi cuộc
đời còn những mối tình đơn phương, khi còn những con tim ít tuân theo
những quy tắc rạch ròi; thì người đọc cũng không mấy ai nõ trách
Nguyễn Bính đã “tương tư” một cách vu vơ…

Đặc biệt nỗi niềm chờ mong đáng trân trọng ấy đã đựoc nhà thơ thể hiện
một cách mới mẻ. Trước hết là hình ảnh cái “tôi” có nhu cầu giãi bày,
phơi trải được Nguyễn Bính diễn tả một cách trực diện không chút vòng
vo:

“Gió mưa là bện của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

Ngoài ra còn phải kể đến việc tác giả đã thành công khi đưa vào lời ăn
tiếng nói của người nhà quê trong cuộc sống thường nhật. Những lời ăn

tiếng nói ấy xuất hiện một cách tự nhiên mộc mạc, tạo nên không khí
dân dã, quê mùa cho toàn bài thơ:

“Hai thôn chung lại một làng,

Có sao bên ấy chẳng sang bên này?

Nhưng đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”

Đưa vào thơ lời ăn tiếng nói của đời thường, Nguyễn Bính cũng như
những nhà Thơ mới đã gặt hái được một mùa hoa trái bội thu. Thơ của
họ trở nên gần gũi với người đọc và nó góp phần phát hiện ra những cái
mới mẻ của con người và tạo vật, mà trước đây ít nhiều thi ca bác học
chưa làm được.

Như vậy, nội dung “Tương tư” có tính chất muôn thuở đã được nhà thơ
Nguyễn Bính thể hiện bằng một lời nói hiện dại, mang dấu của thời đại,
phản ánh một mảng tâm hồn của lớp thanh niên tiểu tư sản những năm
30 của thế kỷ này.

Song giá trị cơ bản của bài thơ không chỉ ở chỗ tác giả diễn tả khá mới
mẻ cái “tôi” thiết tha chân thành, khao khát yêu đương; mà điêu chủ yếu
nó gợi lên được cái “hồn xưa đất nước”, theo cách nói của nhà phê bình
Hoài Thanh. “Hồn xưa đất nước” không nằm riêng ở chi tiết nào, câu
thơ nào mà toát ra từ toàn bộ bài thơ qua hệ thống hình ảnh, lời ví von,
cũng như giọng điệu chung.

Vốn sinh ra ở một nước nông nghiệp, cho dù đã từng “dan díu với kính

thành” nói theo Nguyễn Bính, mấy ai trong số chúng ta không có trong
mình một đôi kỷ niệm về một làng quê Việt Nam truyền thống? Tương
tư có khả năng khơi gợi trong đáy sâu tâm hồn người đọc. Trong khi các
nhà thơ cùng thời Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng sâu
đậm thơ phương Tây và chính điều đó đem lại cho phong trào Thơ mới
những nét đặc sắc, thì Nguyễn Bính lại thành công khi ông tìm về với
điệu thơ dân tộc, với làng quê Việt Nam thân thuộc, với những hình ảnh
gần gũi tự ngàn xưa: những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên
các vườn hoa cải hoa vàng, những vườn bưởi vườn cam ngào ngạt
hương thơm, ven đê là ruộng dâu bãi đay, bên giậu mùng tơi, cạnh giếng
khơi là những cô thôn nữ đôn hậu, quanh năm dệt lụa chăn tằm, trẩy hội,
xem chèo,… với trang phục cổ truyền: áo đồng lầm, quần lĩnh tía, yếm
lụa sồi… Ở bài thơ “Tương tư” dường như có một sự kết nối giữa hệ
thống hình ảnh đã trở thành ước lệ đối với làng quê Việt Nam. Ở đó có
thôn Đoài, thôn Đông, có con đò và bến nước, có hàng cau và giàn
trầu… Ở đó còn có nơi sinh thành và nuôi dưỡng lối thơ lục bát và
Nguyễn Bính đã sử dụng nhuần nhuyễn lối thơ này, cách ví von mộc
mạc, thực chất là những ẩn dụ: bến – đò, hoa - bướm, trầu – cau, thôn
Đông – thôn Đoài… Hệ thống hình ảnh, lối thơ truyền thống với cách ví
von ấy đã đánh thức con người nhà quê lâu nay ẩn náu trong lòng độc
giả, làm cho họ bồi hồi xao xuyến về một làng quê Việt Nam, một dân
tộc Việt Nam gần gũi và thiêng liêng.

Không những thế, “Hồn xưa đất nước” còn được biểu hiện ngay trong
lối suy nghĩ gắn với trời đất, cỏ cây quê hương. Ngày xưa, năm tháng
trôi qua đã được ông cha ta miêu tả qua sự biến đổi của cây lá:

“Nửa năm hơi tiếng vừa quen

Sân ngô cành biếc đã chén lá vàng”.


(“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)

Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đo đếm thời gian dựa vào chính
sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Điều này được thể hiện bằng
những câu thơ dân dã, mộc mạc:

“Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.

Đồng thời thiên nhiên còn là chuẩn mực để nhân vật trữ tình nhớ nhung,
suy tưởng: “Gió mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu
nàng”.

Do sống hoà hợp gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên, nên trong ca dao –
dân ca, trai gái quê ta không chỉ mượn Thuyền và Bến, Sen - Hồ, Mận –
Đào… để giãi bày tình yêu một cách kín đáo vừa duyên dáng, vừa tinh
tế. Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng triệt để các cách nói ấy
mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Nếu như ở khổ thơ thứ hai còn có
câu dường như lạc hệ thốn, thiếu sự dung dị(“Hoa khuê các, “bướm
giang hồ gặp nhau”) thì khổ thơ cuối cùng chính là sự kết tinh nghệ
thuật của toàn bài. Ở khổ thơ này “hồn xưa đất nước” toát lên từ cách
dùng hình ảnh, cách bộc lộ tình cảm kín đáo, mộc mạc của tác giả. Thay
vì lối diễn đạt trực tiếp ở phần đầu đến khổ thơ cuối, Nguyễn Bính dùng
lối diễn đạt gián tiếp rất tinh tế, phảng phất chất hương đồng cỏ nội của
ca dao thuần khiết:

“Nhà em có một giàn giầu


Nhà tôi có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

Trong phong trào Thơ mới, nhiều thi sĩ như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ,
Bàng Bá Lân… miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp. Nhưng có
lẽ chỉ mình Nguyễn Bính nói đúng được cái hồn quê Việt Nam. Ngày
nay ở nông thôn Việt Nam phong cảnh cũng như hồn người đã đổi khác
rất nhiều. Thanh niên nam nữ thường thích điệu bộ bò hơn là áo tứ thân,
chít khăn mỏ quạ, xe Cub đã thay cho ngựa tía võng điều…

Tuy vậy, phần nào bài thơ “Tương tư” trên đây của Nguyễn Bính vẫn
như một dấu tích tâm hồn dân tộc, góp phần cho tâm hồn người đọc
thêm phong phú và tươi sáng. Đấy chính là sự đóng góp đặc sắc của nhà
thơ trong bài thơ này nói riêng và trong phần nhiều bài thơ của Nguyễn
Bính trước Cách mạng nói chung, đấy cũng là lý do khiến nhiều người
yêu thích thơ ông.
theo trần quang

×