Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thân thế và sự ngiệp thơ ca của nhà thơ Đỗ Phủ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.6 KB, 9 trang )

Thân thế và sự ngiệp thơ ca của
nhà thơ Đỗ Phủ

I.Thân thế

Đỗ Phủ tự là Tử Mĩ,sinh năm đầu tiên Tiên Thiên(712),đời Đường Duệ
Tông.Quê ở huyện Củng tỉnh Hà nam.Xuất thân từ một gia đình phong
kiến quan liêu “thờ đạo nho và làm quan” suốt mấy đời.Ông nội Đỗ Phủ
là nhà thơ nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngônt thời sơ Đường.

Từ năm 20 tuổi ông lần lượt ngao du mười mấy năm trời suốt vùng
Ngô,Việt,Tề,Triệu.

Năm Thiên Bảo thứ ba(744),ông gặp Lý Bạch ở lạc Dương.Hai người
nảy sinh tình cảm như anh em.Năm sau hai người chia tay ở Quận
lỗ(Duyện Châu – Sơn Đông) rồi không gặp nhau nữa.Từ đó Đỗ Phủ luôn
tưởng nhớ tới người bạn siêu thoát khác thường ấy.

Năm 746 ông đến Trường An,sau đó ông ra ứng thí.Xong triều đình
không lấy người hiền,ông đâm ra chán ghét.

Ông sống cơ cực ở Trường An tới tận năm 40 tuổi thì gặp lúc Đường
Huyền Tông cử hành một cuộc đại lễ.Ông liền dâng 3 bài phú và đã
được vua khen cho vào tận hiền viện chờ thi sẽ bổ dụng.Nhưng viên
quan Lý Lâm Phủ lại cản trở ông.

Trong những năm đói rét ông sống gần nhân dân,ông thấu hiểu được nỗi
thống khổ của nhân dân lớp dưới.Ông viết binh xa hành(bài ca chiến
xa),ông căm ghét bọn thống trị lớp trên.

Sống nghèo khổ ở Trường An gần 10 năm,ông mới được nhận một chức


quan nhỏ quản lý kho quân giới(Hữu vệ soái phủ trụ tào tham
quân).Nhận chức xong ông về Phụng Thiền(Thiểm Tây) thăm gia
đình.Đúng lúc cuộc chiến nổi loạn của An lộc Sơn nảy sinh ở Phạm
Dương chúng đánh vào Trường An.Ông mang vợ con theo đoàn người
bị nạn nếm đủ cay đắng.Cuối cùng ông để gia đình ở Khương Thôn,Phu
Châu rồi một mình đi về phía bắc đến Linh Vũ,định đi tìm Đường Túc
Tông(Lý Hanh) vừa lên ngôi,giữa đường ông bị quân phản nghịch bắt
mang về Trường An.Nhà thơ đau đớn vô cùng,liều mạnh vượt chiến
tuyến của quân phiến loạn và quân Đường,trốn khỏi Trường An.Vượt
qua bao chông gai đến Phượng Tường.Ông đến bái kiến Đường Túc
Tông,ông được phong Tả Thập Di.Sau đó lấy được Trường An và Lạc
Dương,ông đưa gia đình về Trường An.

Quãng đường đau khổ từ tháng 11 năm 755 đến tháng 9 năm 757,chưa
đầy 2 năm cơn bão táp lịch sử đã tôi luyện ông trở thành một nhà thơ vĩ
đại của nền văn học cổ đại Trung Quốc.

Sau khi về Trường An,ông và gia đình gần gũi nhà vua nên thơ ông
không còn hay như trước,một số bài có âm vị cung đình.,tư tưởng hành
lạc.Sau đó ông bị đả kích về chính trị,ông rời xa Trường An đến sống
với những con người bị áp bức,thơ ông lại toả sáng.

Đời Đường Túc Tông,năm Càn Nguyên thứ 2(759),ông từ quan,cả nhà
mang nhau đi lưu lạc ở Tần Châu - Đồng Cốc.Đến thành đô ông dựng
lều cỏ bên bờ suối Cán Hoa phía tây thành.Ở đây ông trồng ngô,trồng
thuốc,quan hệ với nhân dân.Thiên nhiên,tình người đã vỗ về,an ủi tâm
hồn ông.Ông làm nhiều thơ điền viên rất cảm động.Đến mùa thu lều bị
cuốn.

Năm Bảo Ứng thứ nhất(762) Thiếu Doãn thành đô là Từ Tri Đạo nổi lên

làm loạn,nhà thơ phải lưu lạc ở Tử Châu – Lãng Châu.Ông định rời
nước Thục,thì người bạn là Nghiêm Cũ đến trấn thủ Tứ Xuyên,ông đã
bỏ ý định đó.


Ông được bạn cất nhắc làm Tiết độ tham mưu kiểm hiệu công bộ viên
ngoại lang.Ít lâu sau bạn chết,ông phiêu dạt lên Quỳ Châu(Tứ
Xuyên).Tại Quỳ Châu ông viết thơ hồi tưởng cuộc sống thời trẻ gồm 8
bài Thu hứng.

Năm 768,năm đại lịch thứ 3,ông rời Quỳ Châu rồi quanh quẩn ở Giang
Lăng,Công An,Nhạc Châu,Hành Châu.Đói khát bệnh tật giày vò,mái tóc
đã bạc,sức khoẻ giảm sút nhiều.Mùa đông năm 770 đời Đường Đại
Tông(Lý Dự)trong chiếc thuyền con trên sông Tương nhà thơ đã vĩnh
viễn ngừng ca hát.

II.Nội dung tư tưởng trong thơ Đỗ Phủ

Thơ ông phản ánh chân thực cảnh tượng xã hội trong quá trình chuyển
biến từ thịnh đến suy vong của xã hội phong kiến đời Đường,vì thế được
gọi là “thi sử”.

Ông rất mực yêu nhân dân,cùng nhân dân nếm trải loạn lạc,ông căm
ghét xã hội phong kiến.

Lời thơ cô đọng,xúc tích,giàu cảm xúc.Ông ca ngợi nhân dân:

“Dọc đường chỉ nghe khóc
Thành thị vắng tiếng ca” (Chinh phu)


Ông chỉ rõ loạn lạc xã hội gay gắt:

Tam lại;Tuồng quan lại,Tân an lại,Thạch hào lại
Tam biệt:Thuỳ lão biệt,Tân hôn biệt,Vô qua biệt

Ông là nhà thơ chính trị vĩ đại nhất trong lịch sử văn học Trung
Quốc.Đôi lúc do cuộc sống nặng nề,ông cũng có đôi chút ý nghĩ tiêu
cực.

Ông là người kết hợp nghệ thuật và chính trị đến mức độ cao.Ông có
phạm vi sáng tác rộng.Ngoài những bài lấy việc trọng đại trong xã hội
làm chủ đề.Ông còn viết về nhiều mặt khác như:cảm hoài,tống tặng,vịnh
vật,đề hoạ,đăng lâm,hoài cổ.

Ông làm nhiều bài thơ nhớ Lý Bạch,bài nào cũng hay.Bài “Bất kiến”là
bài cuối:
“Lâu lắm không gặp Lý
Giả cuồng tội nghiệp thay
Người đời đều muốn giết
Ta ý vẫn thương tài”

Ông có tài viết về thiên nhiên:

“Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn non heo hắt khí thu nhoà
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa

Khóm trúc tuôn thêm dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà

Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thạch bàn chày vang bóng ác tà”
(Thu hứng 8 bài – Bài 1)

“Hồn hậu,hàm súc,tràn đầy mênh mông,thâu tóm nuôn hình vạn trạng,cổ
kim đều có cả”(Tân đường thư).

Ông là người tôn thờ tư tưởng đạo nho,ông tự hào về gia đình,ông lấy lí
tưởng nho giáo làm mý tưởng của mình.

“Tài mình tưởng chẳng mấy
Sẽ nắm quyền trị dân
Giúp vua vượt Nghiêu,Thuấn
Lại cho phong tục thuần”


Ông mang tư tưởng “dân quý quân khinh” “giúp thời cứu mình”,xong
ông rất gần gũi nhân dân,học làm nghề nông.

Ông là một nhà thơ vĩ đại không có những hạn chế về thế giới quan,về
tư tưởng và sáng tác,có nhiều cống hiến mới mẻ.

III.Thành tựu nghệ thuật thơ ca Đỗ Phủ

“Sách đọc vỡ muôn quyển
Hạ bút như có thần”

Ông là người có kinh nghiệm,sự tu dưỡng tri thức,bất kể ngũ ngôn,thất
ngôn,cổ thể,cận thể…đều được ông thể hiện thành công.


Ông thường nói:

“Không khinh người nay,yêu người xưa
Học được nhiều thấy yêu mới hay”
Thơ ca ông kế thừa và phát triển truyền thống hiện thực của văn hoá
Trung Quốc từ kinh thi trở đi đạt mức độ chưa từng thấy.Thơ ông chứa
chan không khí cuộc sống hiện thực mãnh liệt,ngòi bút của ông khách
quan.

Qua hơn 1.400 bài thơ ông để lại hầu hết là những bài thơ trữ tình,có
một số ít là thơ tự sự khác với tiểu thuyết bằng thơ.Thơ ông miêu tả
được nhập thần,phát huy đầy đủ đặc điểm “hàm ý vô cùng,phải xem ở
ngoài lời”

Tính hiện thực là đặc sắc chủ yếu trong thơ của ông,nhưng cũng có
những bài lãng mạn hoặc sắc thái lãng mạn:Tốy bích mã,Mộng Lý
Bạch,Mao ốc vi thu phong sở phá ca

Đặc sắc ngôn ngữ Đỗ Phủ là tinh xảo,công phu,thích đáng,mạnh mẽ.Đọc
thơ ông ít khi ta thấy có cảm giác bằng phẳng,dễ dãi,mà trong âm điệu
du dương ta thấy lời hay ý nhiều,không có nét bút nào thừa.

Ông cũng là người nắm vững thanh vận trong thơ Trung Quốc.Ông sáng
tạo được những hình tượng thi vị,hình ảnh trong thơ ông không những
rõ ràng,sinh động mà lại hết sức mới lạ,độc đáo,có sức truyền cảm mãnh
liệt.Ông tả tiếng gió trên sông hồ thì cuồn cuộn,dào dạt,tả tiếng khóc của
bà già thì như có thể nghe thấy,tả núi sông,chim chốcha trái như hiện ra
trước mắt.

IV.Những ảnh hưởng to lớn của thơ ca Đỗ Phủ


Nhiều nhà thơ sau này lấy ông làm tấm gương để học tập.Thơ ông là
nguồn cội nghiên cứu cho nhiều học giả.Trong lịch sử Trung Quốc chưa
có một nhà thơ nào được học tập nhiều như ông.Ông có ảnh hưởng to
lớn đến toàn bộ lịch sử phát triển thơ ca cổ điển của Trung Quốc từ đời
Đường đến nay.

Tinh thần sáng tác hiện tượng vì nhân dân của ông có tác dụng thúc đẩy
sự phát triển tích cực của thơ ca đời Đường.

×