Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ Phùng Khắc Khoan_2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.91 KB, 7 trang )

Mối quan hệ giữa Nguyễn
Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ -
Phùng Khắc Khoan

Trên đây là những gì người xưa và các nhà nghiên cứu ở thế kỷ XX đã
khẳng định về mối quan hệ anh em giữa Trạng Trình và Trạng Bùng.
Tiếp theo đây là ý kiến của chúng tôi về vấn đề trên.

2. Theo thiển ý, dù người xưa có khẳng định như thế nhưng chúng tôi
thiết nghĩ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan chỉ có mối
quan hệ thầy - trò (sư - đệ), chứ không có mối quan hệ anh em cùng mẹ
khác cha.

Xin thưa, chúng tôi không phải là người đầu tiên nêu thắc mắc này,
cũng như phản bác ý kiến khẳng định mối quan hệ anh em trên. Trước
đây, trong sách Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Bùi Duy Tân và Ngọc
Liễn, các vị đã nêu ra rồi, có điều các tác giả đã lý giải vấn đề này mà
theo tôi là chưa thuyết phục, khi viết: Trong thơ văn, Phùng Khắc Khoan
không nói gì về người mẹ đẻ của mình. (…) Nguyễn Bỉnh Khiêm hơn
Phùng Khắc Khoan đến 38 tuổi, bà mẹ họ Nhữ khó có thể sinh một đứa
con sau cách đứa con trước nhiều năm như thế. (…) Câu chuyện về bà
mẹ họ Nhữ và việc gặp gỡ ngẫu nhiên, thú vị giữa Phùng Khắc Khoan và
Nguyễn Bỉnh Khiêm chắc chỉ là huyền thoại, khó tin và có thực (8).

Ý kiến trên của nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân và Ngọc Liễn vừa dẫn, ông
Trần Lê Sáng trong công trình viết về cuộc đời và thơ văn Phùng Khắc
Khoan có phản biện, nhưng theo chúng tôi, những ý kiến phản biện lại
của ông Trần cũng vòng vo, không thuyết phục. Đó là chưa nói lập luận
có chỗ nhầm lẫn (không chỉ ở chỗ này mà trong công trình trên còn có
những sai sót khác, để tránh dông dài, tôi không nêu ra ở đây, hẹn sẽ
nói kỹ trong bài viết khác, khi có dịp). Xin trở lại ý vừa trích dẫn trên.


Thiết nghĩ, nếu một phụ nữ nào đó lấy chồng từ lúc 13, 14 hay 15 tuổi
(người xưa có quan niệm “Nữ thập tam, nam thập lục” mà!) và năm sau
sinh con ngay thì 38 năm tiếp vẫn có thể sinh con vì mới có dưới 53
tuổi, cái tuổi vẫn còn có thể sinh đẻ được. Cho nên viết như các tác giả
vừa nêu là chưa hết lý lẽ.

Người thứ hai là Nguyễn Quân trong cuốn Trạng trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã căn cứ vào câu “Bà (tức Nhữ Thị Thục, mẹ của Nguyễn Bỉnh
Khiêm) vẫn không nguôi giận, bỏ về ở bên cha mẹ đẻ, cách ít lâu sau thì
mất” trong bài Phả ký của Vũ Khâm Lân “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn
công Văn Đạt phả ký” (Phả ký về Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Văn Đạt)
mà khẳng định mẹ cụ Trạng trình không phải là mẹ cụ Trạng Bùng (9).

Ở đây, Nguyễn Quân, Trần Lê Sáng và một số nhà nghiên cứu khác,
trong số đó có cả học giả nước ngoài như Trần Ích Nguyên ở Đại học
Trung Chính, Đài Bắc, trong sách Tiễn đăng tân thoại dữ Truyền kỳ mạn
lục tỷ giảo so sánh (10) v.v đều đã nhầm bài văn này là của Thuần Phủ
Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp ký. Bởi khi viết sách Công dư tiệp ký
vào năm 1755 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 16, đời vua Lê Hiển Tông (theo
lời Tựa), thì cụ Vũ Phương Đề đã chép lại toàn văn bài Phả ký trên của
Vũ Khâm Lân vào sách của ông.

Vấn đề này, thiển ý của chúng tôi như sau:

Một là, cũng như Nguyễn Quân, chúng tôi căn cứ vào bản Phả ký trên
của Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân cẩn thuật vào mùa đông năm Quý Hợi
(1743) có chép trong sách Đại Việt sử loại tiệp lục, mà sau đó quan Thự
Tham chính xứ Sơn Nam là Tiến sĩ Vũ Phương Đề đã sao chép lại
nguyên văn bài ký trên vào sách Công dư tiệp ký (Ghi nhanh lúc rỗi việc
quan) của ông, để khẳng định rằng, bà Nhữ Thị Thục thân mẫu cụ Trạng

Trình sau khi giận chồng không biết dạy con, bà bỏ về nhà cha mẹ đẻ, ít
lâu sau thì mất. Trong khi đó, để phản bác lại ý của Nguyễn Quân và của
Bùi Duy Tân, ông Trần Lê Sáng có lập luận rằng: “Còn danh hiệu Từ Thục
phu nhân của mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm thì chúng ta cũng đừng vội tin của
bà nào, bởi lẽ thân phụ của Nguyễn không chỉ có một bà vợ” (11). Nếu
lập luận như thế thì thử hỏi ông Trần Lê Sáng nghĩ gì khi chính cụ Vũ
Khâm Lân đã khẳng định trong Phả ký là “Thân mẫu họ Nhữ được
phong Từ Thục phu nhân”? Cũng nên lưu ý, đây chỉ là hàm vinh phong
của vua nhà Mạc khi cụ Trạng Trình ra làm quan cho triều đại này, chứ
không có thực quyền, hơn nữa lúc ấy, các cụ đã quy Tiên rồi. Trong bài
ký, Vũ Khâm Lân còn cho biết: Ông nội được tập phong là Thiếu bảo Tư
Quận công; bà nội là Chinh phu nhân Phạm thị Trinh Huệ; thân sinh
được tặng phong Thái bảo Nghiêm Quận công; thân mẫu họ Nhữ được
phong là Từ Thục phu nhân (12).

Hai là, cũng trong bài ký trên, cụ Ôn Đình hầu còn cho biết vì bà “vốn
người thông minh, học rộng văn hay, lại tinh giỏi cả môn tướng số”; “có
chí hướng phò vua giúp nước của bậc trượng phu, muốn chọn một
người vừa ý mới chịu kết duyên, nên đã chờ ngót 20 năm trời, khi gặp
ông Văn Định có tướng sinh quý tử, bà mới chịu lấy” (trong bản Phả ký
này, Vũ Khâm Lân còn ghi lại chi tiết bà gặp Mạc Đăng Dung ở bến đò
Hàn thuộc dòng Tuyết Giang, mà bà đã than tiếc “Lúc trẻ chẳng gặp,
ngày nay tới đây làm gì?” (13), cũng đủ rõ thêm cái chí muốn lớn lao
của bà).

GS. Bùi Văn Nguyên trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2
(thế kỷ X - giữa thế kỷ XVIII), xuất bản 1962 và Văn học Việt Nam thế kỷ
X - giữa thế kỷ XVIII, xuất bản 1989 đã căn cứ vào lời trên mà cho rằng
“cuối cùng bà lấy ông Văn Định, khi bà đã quá lứa, xấp xỉ tuổi 30. Mãi
cho đến khi sinh ra Văn Đạt, bà vẫn ôm ấp hoài bão không tưởng của

mình, cuối cùng bỏ chồng, bỏ con, đi lang thang, rồi trở về quê hương
cha mẹ đẻ ở An Tử thượng”. Nhiều tài liệu cũ, trong đó có nhiều bộ văn
học sử đều ghi rằng “cụ Nguyễn Văn Định nhờ nổi tiếng hay chữ, giỏi
thơ văn nên quan Thương thư Nhữ Văn Lan gọi đến gã con gái luống
tuổi cho” (14).

Chúng tôi cũng đồng ý với suy luận của GS. Bùi Văn Nguyên về tuổi tác
của bà Thục lúc lấy chồng. Đồng thời xin bổ sung thêm, người xưa đã có
tục tảo hôn và quan niệm rằng con gái 13, con trai 16 tuổi là có thể
dựng vợ gã chồng, vì đủ trưởng thành về sinh lý (nữ thập tam, nam
thập lục). Con gái bấy giờ mà luống tuổi có thể là ngoài 20 hay hơn nữa.
Thân mẫu cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm “đã chờ ngót 20 năm trời”, như vậy,
nếu làm phép tính giản đơn là: 13,14, hay 15 cộng với ngót 20 sẽ là 30
hoặc trên 30 tuổi. Bà ở với ông Văn Định, đến khi Nguyễn Văn Đạt (Bỉnh
Khiêm) 4 tuổi thì bỏ chồng con ra đi. Vậy khi ấy ít ra lúc này bà cũng đã
khoảng 35. Hãy chưa nói chuyện bà bỏ về nhà cha mẹ đẻ, mà nói việc
có thể bà đi lang thang lên mạn Từ Sơn rồi gặp nho sinh họ Phùng, thấy
người này phúc hậu, có tướng sinh quý tử, bà thổ lộ nỗi niềm rồi hai
người gá nghĩa vợ chồng, đưa về Sơn Tây như truyện về Mai Lĩnh hầu
(tước của Phùng Khắc Khoan lúc đi sứ lần thứ nhất trở về được vua Lê
chúa Trịnh ban cho) đã chép mà ở trên có lược dịch, thì lúc này bà đã
35 hay ngoài 35 tuổi rồi. Giả dụ như khi bà lấy ông Định và lúc sinh
Nguyễn Bỉnh Khiêm thì bà đã 30, và khi bà lấy ông nho sinh họ Phùng
để hơn ba chục năm sau sinh ra Phùng Khắc Khoan thì lúc lấy ông nho
sinh họ Phùng, ít ra bà cũng đã 35 hay ngoài 35. Mà theo sử sách chính
thống ghi Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, Phùng Khắc Khoan sinh
năm 1528, có nghĩa là cụ Trạng Trình lớn hơn cụ Trạng Bùng 37 tuổi.
Chẳng lẽ khi sinh ra Phùng Khắc Khoan, bà Nhữ Thị Thục đã ngoài 70
tuổi? Còn nếu cho luống tuổi, qua lứa là ngoài 20 đến 25 chẳng hạn, rồi
bà mới lấy chồng và sinh con, thì khi bà sinh ra Phùng Khắc Khoan cũng

đã 60 hay ngoài 60 tuổi. Mấy năm nay, chúng tôi hay vẩn vơ tính toán
lẩm cẩm như thế. Với cái tuổi này, thể trạng người phụ nữ Việt của
chúng ta còn có khả năng sinh đẻ được không? Cho dù có thuốc tiên đi
nữa! Vì thế, căn cứ vào bản Phả ký của Vũ Khâm Lân, cùng với suy tính
trên, chúng tôi hoàn toàn không đồng ý, không đồng tình với giai thoại,
truyền thuyết dân gian đã lưu truyền và người xưa đã viết lại, khi cho
rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan là anh em cùng mẹ khác
cha mà những tài liệu xưa nhất hiện được biết là phả ký họ Phùng ở
Phùng Xá và truyện Mai Lĩnh hầu thành mẫu chí truyện chép trong sách
Danh gia thi truyện tập.

Thiết nghĩ, cụ Vũ Khâm Lân thật có lý khi trong bài Phả ký về Nguyễn
Văn Đạt (Bỉnh Khiêm), đã viết rằng bà Thục giận chồng, bỏ về nhà cha
mẹ đẻ, cách ít lâu sau thì mất, mà không đá động gì đến chuyện bà
Thục “bước đi bước nữa” với ông nho sinh họ Phùng ở Thạch Thất để
sinh ra cụ Phùng Khắc Khoan, một nhân vật lỗi lạc đầu thời Lê trung
hưng. Và có thể là hồi ấy cụ cũng đã có nghe lời truyền về mối quan hệ
đó trong dân gian, chứ không phải là cụ né tránh việc này. Bởi bài Phả
ký được cụ Vũ Khâm Lân hoàn thành vào cuối năm Quý Hợi 1743, tức
sau khi cụ Trạng Trình đã quy Tiên đúng 158 năm; và cụ Trạng Bùng đã
tạ thế đúng 130 năm. Trong bài Phả ký, tác giả có nói đến tận nhà, hỏi
người cháu 7 đời của cụ Trạng Trình là Nguyễn Thì Đương để xem tộc
phả, nhưng ông này lại đưa ra những trang giấy rách nát, chỉ biên danh
tính tiền nhân, ngoài ra chẳng có gì khác. Cho nên họ Vũ đành phải
“thâu thái ý kiến mọi người rồi hợp với những điều mắt thấy tai nghe
trong lúc ngày thường để viết nên bài ký” (15). Như vậy, tuy không viết
ra cụ thể nhưng cụ Ôn Đình hầu ngày ấy cũng không tin là giữa cụ Trạng
Trình và cụ Trạng Bùng có mối quan hệ anh em cùng mẹ khác cha !


×