ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) là nguyên nhân hàng
đầu gây gánh nặng bệnh tật và đứng thứ ba gây tử vong cho trẻ dưới
5 tuổi ở Việt Nam. Chậm trễ tiếp cận dịch vụ y tế và không được điều
trị đúng là hai lý do chính gây tử vong cho trẻ NKHHCT. Từ năm
1982, Chương trình Phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính Toàn
cầu, mà Việt Nam là một thành viên đã thực hiện nhiều biện pháp can
thiệp tập trung chủ yếu vào hệ thống y tế công. Sau nhiều năm triển
khai, tỷ lệ tử vong đã giảm, nhưng tần suất mắc bệnh còn cao. Việc
sử dụng thuốc điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính thiếu an toàn xảy
ra khá phổ biến.
Trong nhiều can thiệp, thông tin- giáo dục- truyền thông (TT-
GD-TT) nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ nhiễm
khuẩn hô hấp cấp tính luôn là biện pháp hàng đầu được Tổ chức Y tế
thế giới (TCYTTG) khuyến cáo thực hiện. Phạm vi, đối tượng không
chỉ trong hệ thống y tế mà đã mở rộng ra các đối tượng khác có liên
quan như người chăm sóc và người bán thuốc.
Tại Việt Nam, nghiên cứu tìm hiểu biện pháp thông tin- giáo dục-
truyền thông phù hợp để phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
cho trẻ dưới 5 tuổi còn ít được tiến hành. Đặc biệt còn thiếu những
can thiệp đồng thời trên nhiều đối tượng để tạo ra chuyển biến mạnh
mẽ cho toàn bộ chu trình chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính.
Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu: "Đánh giá hiệu quả
can thiệp cộng đồng trong thực hành xử trí nhiễm khuẩn hô hấp
cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Đan Phượng và Ba Vì, Hà
Nội" với 3 mục tiêu sau:
1. Đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành
của bà mẹ trong xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi
tại Đan Phượng và Ba Vì từ năm 2005 đến 2008.
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành
xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi của cán bộ y tế
tại tuyến xã tại Đan Phượng và Ba Vì từ năm 2005 đến 2008.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành
bán thuốc của người bán thuốc tại tuyến xã cho trẻ nhiễm khuẩn hô
hấp cấp tính dưới 5 tuổi tại Đan Phượng và Ba Vì từ năm 2005 đến
2008.
1
Đóng góp mới của luận án
1. Nghiên cứu đã xây dựng, triển khai có hiệu quả các can thiệp thay
đổi kiến thức, thực hành chăm sóc trẻ NKHHCT dựa vào cộng đồng
ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ với đối tượng đích cũng là
người xây dựng và triển khai can thiệp. Huy động sự tham gia của
cộng đồng ngoài lợi ích tận dụng được nguồn lực sẵn có còn tăng
cường sự chủ động, trách nhiệm của đối tượng hưởng lợi đối với sức
khỏe gia đình và cộng đồng.
2. Các can thiệp này, khác với nhiều nghiên cứu trước đây, đã hướng
tới được cả ba nhóm đối tượng chính có liên quan, do đó đã tác động
đến toàn bộ chu trình chăm sóc trẻ NKHHCT.
3. Nghiên cứu chỉ lựa chọn và tập trung vào những nội dung ưu tiên
theo nhu cầu của các nhóm đối tượng để can thiệp chứ không dàn trải
ở tất cả các nội dung.
4. Để tăng tính hiệu quả, nghiên cứu đã lựa chọn phối hợp nhiều hình
thức TT-GD-SK (truyền thông tại nhà, họp nhóm, khi đi khám, khi đi
bán thuốc, tập huấn kỹ năng….) và nhiều hình thức giám sát (trong
nhóm, giữa các nhóm và từ tuyến trên) tạo ra gói can thiệp.
5. Nghiên cứu đã đánh giá được hiệu quả thay đổi kiến thức, thực
hành của các nhóm đối tượng được can thiệp, từ đó chứng minh sự
kết hợp can thiệp TT-GD-TT với giám sát hỗ trợ thực hành và sự
tham gia chủ động của các đối tượng đích sẽ đạt hiệu quả cao, phù
hợp và dễ duy trì.
Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 141 trang không kể phụ lục, gồm 4 chương, 33
bảng, 8 hình, 1 danh sách tài liệu tham khảo trong và ngoài nước và
phụ lục. Bố cục luận án gồm: Đặt vấn đề (2 trang); Tổng quan (26
trang); Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (25 trang); Kết quả (42
trang); Bàn luận (42 trang); Kết luận (2 trang); Kiến nghị (1 trang).
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Tình hình mắc và tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
Tại Việt Nam, NKHHCT đang là nguyên nhân hàng đầu gây mắc
và tử vong cho trẻ em dưới 5 tuổi với ước tính mỗi năm có khoảng 30
đến 80 triệu lượt trẻ mắc NKHHCT các thể. Nhóm bệnh NKHHCT
có tỷ lệ mắc cao nhất tại bệnh viện. Trong các nguyên nhân tử vong ở
trẻ em, viêm phổi chiếm tỷ lệ cao nhất.
1.3. Thực trạng chăm sóc trẻ NKHHCT của bà mẹ
Mặc dù kiến thức đã được cải thiện, kỹ năng nhận biết dấu hiệu
bệnh của bà mẹ còn nhiều bất cập. Năm 2008, tại Việt Nam, tỷ lệ bà
mẹ nhận biết được các dấu hiệu NKHHCT khá thấp: 5,0% đối với
dấu hiệu không uống/bú được, 4,1% với dấu hiệu co giật và 3,4%
nhận biết dấu hiệu ngủ li bì. Đối với 2 dấu hiệu chỉ báo điển hình của
viêm phổi, chỉ có 37,3% nhận biết được dấu hiệu thở và 0,9% biết
dấu hiệu RLLN (rút lõm lồng ngực).
Kỹ năng tìm kiếm dịch vụ y tế cho trẻ mắc NKHHCT còn nhiều
vấn đề cần được cải thiện. Năm 2000, chỉ có 86% bố, mẹ cho rằng
viêm phổi là một bệnh nguy hiểm cần đưa trẻ đi khám tại cơ sở y tế.
Năm 2003, chiếm tỷ lệ cao nhất (20,9%) là bà mẹ tự chữa ở nhà cho
trẻ NKHHCT. Việc thiếu hiểu biết về dấu hiệu và cách xử trí trẻ bệnh
cũng góp phần dẫn đến nguy cơ tử vong cao ở trẻ NKHHCT. Trong
các ca tử vong có tới 5,3% số trẻ mắc NKHHCT được đưa đến trạm y
tế khi tình trạng bệnh đã nguy kịch, 39,2% đến khi bệnh đã nặng và
26,1% trẻ đã chết tại nhà.
Mục tiêu của Chương trình NKHHCT Quốc gia Việt Nam là
giảm tỷ lệ mắc và sử dụng thuốc an toàn hợp lý cho trẻ NKHHCT.
Hiện tượng KS (kháng sinh) được mua bán lan tràn, ít kiểm soát cùng
với thiếu kiến thức trong sử dụng thuốc đã và đangcản trở đến
Chương trình. Vấn đề lạm dụng KS cho những trường hợp nhiễm
khuẩn hô hấp thể nhẹ cũng như sử dụng KS không đủ liều, không
đúng loại là khá phổ biến.
Thực hành chăm sóc trẻ tại nhà cũng còn nhiều bất cập. Đối với
trẻ đang bị bệnh, 67,4% số bà mẹ biết cho trẻ ăn ngon hơn 56,8% biết
giữ ấm cho trẻ về mùa đông và thoáng mát trong mùa hè. Chỉ có
3
54,6% biết cho trẻ uống nhiều nước. Làm thông thoáng mũi để trẻ dễ
thở là biện pháp ít bà mẹ biết đến nhất (23,8%).
Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành của bà mẹ gồm có:
mức độ bệnh và thu nhập có mối liên quan đến việc lựa chọn cơ sở y
tế. Sự thuận tiện (29,0%) và gần nhà (27,1%) là những yếu tố quan
trọng nhất trong việc lựa chọn cơ sở y tế; chất lượng tốt là yếu tố
đứng thứ ba. Các kênh thông tin đại chúng là những nguồn quan
trọng cung cấp thông tin cho các bà mẹ. Đối với phụ nữ ở nông thôn,
CBYT xã và hệ thống loa truyền thanh địa phương cũng đóng vai trò
rất quan trọng. Quan niệm sai lầm của người sử dụng có liên quan
đến việc sử dụng thuốc bất hợp lý.
1.4. Thực trạng điều trị trẻ NKHHCT của cán bộ y tế
Mặc dù chương trình NKHHCT đã bao phủ 100% số xã, huyện
trên toàn quốc, kỹ năng thăm khám và phân loại bệnh của CBYT
tuyến xã vẫn còn nhiều bất cập. CBYT thường không khai thác hết
các dấu hiệu bệnh nặng. Kỹ năng đếm nhịp thở vẫn chưa đạt yêu cầu.
Tỷ lệ CBYT phân loại bệnh đúng đạt khoảng 80,4%. Kiến thức và
thực hành của CBYT tư nhân cũng còn cần được cải thiện. Chỉ có
khoảng 77,5% thày thuốc tư nhân biết RLLN là một dấu hiệu của
viêm phổi nặng. Lạm dụng KS, kê đơn KS không đúng loại, đủ liều
là những phát hiện chính trong nghiên cứu sử dụng thuốc điều trị
NKHHCT. Tỷ lệ trẻ không bị viêm phổi vẫn dùng KS còn cao, chiếm
tới 39%. Năm 2004, đơn kê từ 2 loại KS trở lên chiếm 11% và 20%
KS được sử dụng bằng đường tiêm. CBYT còn ít tư vấn chăm sóc tại
nhà cho bệnh nhân. Rất ít bà mẹ (5,6%) đưa con đi khám được thày
thuốc hướng dẫn cách dùng thuốc tại nhà. Năm 2008, 31% bà mẹ đưa
trẻ đi khám được nhận thông tin từ CBYT. Thiếu đào tạo, phác đồ
điều trị chưa phù hợp, quả tải trong công việc và yếu tố lợi nhuận có
tác động tiêu cực đến thực hành của CBYT.
1.5. Thực trạng bán thuốc cho trẻ NKHHCT
Tình trạng bán thuốc bất hợp lý, thiếu an toàn ngày một tăng.
Thuốc được bán tự do, không có chỉ dẫn, thậm chí không cần có đơn,
kể các các loại thuốc bắt buộc phải có chỉ định của bác sĩ. Đại đa số
trẻ (91%) NKHHCT đã được sử dụng KS. Khi quyết định sử dụng
KS, 67% số gia đình đã dùng theo lời khuyên của người bán thuốc,
4
11% tự quyết định sử dụng và chỉ có 22% mua theo đơn của bác sĩ.
Như vậy người dân có nguy cơ sử dụng thuốc sai mục đích, không
hiệu quả, thậm chí có thể có hại cho sức khỏe.
Kỹ năng thực hành chuyên môn của nhân viên nhà thuốc tư bị
ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như: kiến thức chuyên môn, đòi hỏi
của khách hàng, văn bản quy chế quy định và lợi nhuận
1.6. Can thiệp thay đổi hành vi chăm sóc trẻ NKHHCT
Nhờ TT-GD-TT kết hợp với các can thiệp khác nên việc phòng
chống NKHHCT đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Đã có một số
nghiên cứu đề xuất, cần thực hiện can thiệp thay đổi hành vi của tất
cả các đối tượng liên quan đến chu trình chăm sóc trẻ bệnh.
Nghiên cứu can thiệp TT-GD-TT lên đối tượng bà mẹ còn chưa
nhiều. Các thử nghiệm can thiệp gồm có: CBYT truyền thông trực
tiếp theo nhóm, sử dụng băng hình hướng dẫn tại trạm y tế, tuyên
truyền trên loa truyền thanh xã. Nội dung của các thông điệp truyền
thông được xây dựng sẵn bởi các nhà chuyên môn.
Đối với CBYT, đã có thử nghiệm can thiệp CBYT tuyến dưới
tự xây dựng phác đồ để phù hợp với thực tế nhưng chưa đạt hiệu quả
cao do thiếu sự tự giám sát tại chỗ, giám sát đồng đẳng. Việc đưa
CBYT tuyến dưới lên tuyến trên để đào tạo cũng chưa có hiệu quả vì
những khác biệt về mô hình bệnh tật và điều kiện giữa các tuyến.
Đối với người bán thuốc, các can thiệp tập trung vào thực hành
bán thuốc và tư vấn sử dụng thuốc hợp lý một số bệnh trong đó có
NKHHCT nhưng chưa nhiều và chỉ ở khu vực đô thị.
CHƯƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bà mẹ có con dưới 5 tuổi (tức là bà mẹ có con dưới 3 tuổi được
lựa chọn ở điều tra ban đầu, theo dõi 2 năm đến khi kết thúc nghiên
cứu); cán bộ y tế và người bán thuốc ở trạm y tế và tư nhân ở các xã
được lựa chọn.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Huyện Đan Phượng và Ba Vì thuộc tỉnh Hà Tây cũ (nay là Hà Nội).
2.3. Thời gian nghiên cứu
Từ 3/2005 đến 1/2008, trong đó can thiệp thực hiện trong 2 năm.
5
2.4. Các khái niệm, định nghĩa dùng trong nghiên cứu
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng.
2.5.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
2.5.2.1. Đối tượng bà mẹ
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu so sánh 2 tỷ lệ:
{ }
2
21
2
221112/1
)(
)1()1()1(2
pp
ppppzppz
n
−
−+−+−
=
−−
βα
Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu (số bà mẹ); p
1
=46,2%; p
2
=60%;
p
=(p
1
+p
2
)/2
;
Z
1-α /2
=1,96 với α = 0,5%; Z
1-β
=0,84 (đặt β =80%). Cỡ
mẫu theo tính toán là 157 (mỗi nhóm). Để đảm bảo cỡ mẫu cho phân
tích, mẫu được chọn là 300 cho mỗi nhóm. Tổng là 600 bà mẹ.
2.5.2.2. Đối tượng cung ứng dịch vụ y tế
Nghiên cứu chọm mẫu toàn bộ CBYT (trạm y tế và tư nhân) và
người bán thuốc tại các xã có can thiệp đối với nhóm bà mẹ.
2.5.3. Chọn mẫu nghiên cứu
- Sử dụng chọn mẫu nhiều giai đoạn. Sau đánh giá ban đầu, hai
huyện được bốc thăm ngẫu nhiên để chọn huyện can thiệp và chứng.
- Lựa chọn ngẫu nhiên 5/10 cặp xã tương đồng đưa vào nghiên cứu.
- Lựa chọn ngẫu nhiên 3 thôn trong xã để nghiên cứu .
- Tất cả bà mẹ có con dưới 3 tuổi được lựa chọn theo dõi suốt quá
trình can thiệp 2 năm và đánh giá sau can thiệp (lúc đó vẫn đảm bảo
là bà mẹ có con dưới 5 tuổi). Sau 2 năm, trừ một số trường hợp bỏ
cuộc, trẻ quá tuổi, đánh giá trước-sau can thiệp có 625 bà mẹ (Ba Vì
có 301 và Đan Phượng có 324 ).
- Chọn mẫu toàn bộ CBYT và người bán thuốc tại các xã đã chọn.
2.5.4. Phương pháp thu thập số liệu
2.5.4.1. Kỹ thuật, công cụ thu thập số liệu định lượng
- Bà mẹ được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi. Tất cả bà mẹ
được đánh giá kiến thức. Những bà mẹ có con mắc NKHHCT trong
vòng 2 tháng trước điều tra được đánh giá thực hành.
- CBYT được phỏng vấn đánh giá kiến thức và đánh giá thực hành
bằng quan sát có sử dụng bảng kiểm.
6
- Người bán thuốc được đánh giá kiến thức bằng phỏng vấn trực tiếp
và đánh giá thực hành bằng phương pháp đóng vai người mua thuốc
để quan sát và đánh giá bằng bảng kiểm.
2.5.4.2. Kỹ thuật, công cụ thu thập số liệu định tính
Tại mỗi huyện, trước và sau can thiệp, tiến hành thảo luận nhóm
với bà mẹ, bà mẹ tích cực, CBYT, người bán thuốc và nhóm quản lý.
2.5.5. Biện pháp khống chế sai số
2.5.6. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu định lượng được nhập bằng Epi-DATA và phân tích
bằng phần mềm STATA theo tỷ lệ phần trăm và trung bình, kiểm
định sự khác biệt và tính toán CSHQ (chỉ số hiệu quả).
Số liệu định tính được xử lý theo phương pháp mã hóa theo nhóm
chủ đề và được trích dẫn trong báo cáo.
2.6. Xây dựng và triển khai can thiệp
Can thiệp được thực hiện tại 5 xã đã được lựa chọn tại Ba Vì với
TT-GD-TT trong 12 tháng và giám sát hỗ trợ trong 12 tháng tiếp
theo. Các bước triển khai can thiệp gồm có:
- Xây dựng tài liệu can thiệp gồm: “Nhật ký sức khỏe của trẻ” dành
cho bà mẹ, hướng dẫn điều trị cho CBYT và hướng dẫn bán thuốc
cho người bán thuốc.
- Triển khai can thiệp TT-GD-TT cho bà mẹ (tư vấn của bà mẹ tích
cực, hội họp nhóm, tư vấn khi đi khám và khi đi mua thuốc) và tập
huấn kỹ năng CBYT và người bán thuốc.
- Triển khai giám sát (từ tuyến trên, chéo giữa 3 nhóm và trong
nhóm) để thay đổi thực hành và theo dõi tính bền vững.
2.7. Đạo đức nghiên cứu
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ
3.1. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành chăm sóc
trẻ NKHHCT của bà mẹ.
3.1.1. Một số đặc điểm của đối tượng bà mẹ
Độ tuổi trung bình là 27,6±4,9 tuổi. Bà mẹ làm nông nghiệp và có
trình độ cấp 2 chiếm tỷ lệ cao nhất. Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thông kê về tuổi trung bình, nghề nghiệp, trình độ học vấn và đặc
điểm hộ gia đình giữa hai nhóm.
7
3.1.2. Hiệu quả can thiệp tới kiến thức của bà mẹ
3.1.2.1. Nhận biết dấu hiệu bệnh
Sự khác biệt về phân bố tỷ lệ bà mẹ ở Ba Vì sau can thiệp (SCT)
theo số lượng dấu hiệu bệnh mà họ nhận biết được có ý nghĩa thống
kê so với trước can thiệp (TCT).
Bảng 3.3: So sánh số lượng dấu hiệu bệnh cần đưa trẻ đi khám bà mẹ
biết trước-sau can thiệp (%)
Số lượng
dấu hiệu
bệnh
Can thiệp Đối chứng* CSHQ
TCT
n=301
SCT
n=301
p TCT
n=324
SCT
n=324
Không biết 11,6 0,3 <0.001 13,9 13,3 -93,1
1 dấu hiệu
29,2 4,0 <0.001 34,6 31,5
- 77,3
2 dấu hiệu 32,6 9,6 <0.001 29,6 30,2 -72,6
3 dấu hiệu 22,3 18,9 <0.001 17,3 17,0 -13,5
4 dấu hiệu 3,7 39,5 <0.001 4,3 6,5 915,9
5 dấu hiệu 0,3 21,7 <0.001 0,3 1,5 7729,0
6 dấu hiệu 0,3 6,0 <0.001 0 0 1900,0
*Ghi chú: Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số ở nhóm chứng
Trước can thiệp, nhóm can thiệp biết hai dấu hiệu chiếm tỷ lệ
nhiều nhất (32,6%). Sau can thiệp, chiếm tỷ lệ chiếm nhiều nhất là bà
mẹ biết bốn dấu hiệu (39,53%).
3.1.2.2. Kiến thức xử trí trẻ bệnh
Bảng 3.5: So sánh kiến thức về xử trí trẻ NKHHCT của bà mẹ trước-sau
can thiệp (%)
Cách
xử trí
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=301
SCT
n=301
p TCT
n=324
SCT
n=324
Khi trẻ có dấu hiệu cần đi khám
Đi khám 73,8 93,0 <0,05 75,6 80,8 19,1
Khi trẻ có dấu hiệu ho, cảm lạnh
Đi khám 50,2 53,2 >0,05 48,5 49,4 46,6
Theo dõi tại nhà 1,3 23,9 <0,001 1,0 2,1 1837,3
Xử trí đúng 51,5 77,1 <0,001 49,4 51,5 45,4
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Tỷ lệ nhóm can thiệp biết cần đưa trẻ đi khám khi có dấu hiệu cần
khám ngay tăng từ 13,8% lên 93,0% (p<0,05). Tỷ lệ bà mẹ biết có
8
thể theo dõi/chăm sóc trẻ tại nhà đã tăng tới 23,9% ở nhóm can thiệp
so với 1,3% trước can thiệp (p<0,001).
3.1.2.3. Kiến thức sử dụng thuốc
Bảng 3.6: So sánh kiến thức dùng kháng sinh cho trẻ NKHHCT của bà mẹ
trước-sau can thiệp(%)
Sử dụng KS
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=301
SCT
n=301
p TCT
n=324
SCT
n=324
KS theo đơn 62,8 94,4 <0,001 55,2 58,0 45,2
KS đủ ngày 39,2 70,1 <0,001 47,8 42,6 91,1
Cảm lạnh
không dùng KS 49,5 63,8 <0,05 50,0 47,5 33,8
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Cả 3 chỉ số đánh giá kiến thức sử dụng KS của bà mẹ sau can
thiệp tại Ba Vì đều tăng có ý nghĩa thống kê so với trước can thiệp
cũng như cao hơn hẳn nhóm đối chứng.
3.1.2.3. Kiến thức chăm sóc, theo dõi trẻ
Sau can thiệp, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng ở từng chỉ số đánh
giá kiến thức chăm sóc trẻ đã tăng thêm khoảng 20% hoặc cao hơn.
Cả bốn chỉ số đều tăng có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.7: So sánh kiến thức chăm sóc và theo dõi trẻ của bà mẹ trước- san can
thiệp (%)
Chăm sóc
Theo dõi
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=301
SCT
n=301
p TCT
n=324
SCT
n=324
Tăng cường ăn 59,1 79,7 <0,05 67,3 71,6 28,4
Uống/bú nhiều
hơn 55,5 74,4 <0,05 64,2 59,6 41,3
Làm thông
thoáng mũi, họng
47,2 69,1 <0,001 48,1 48,5 45,9
Giữ ấm/làm mát 60,7 96,0 <0,001 67,0 72,2 50,4
Theo dõi trẻ ốm 39,2 57,8 <0,01 41,4 37,4 51,5
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Sau can thiệp, tỷ lệ biết cần theo dõi trẻ ở Ba Vì tăng thêm 16,8%
với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kiến thức tái khám (khám ngay
và khám theo hẹn) cũng tăng có ý nghĩa thống kê.
9
3.1.3. Hiệu quả của can thiệp tới thực hành của bà mẹ
3.1.3.1. Thực hành xử trí khi trẻ bệnh
Bảng 3.8: So sánh thực hành xử trí trẻ có dấu hiệu cần đi khám của bà mẹ
trước-sau can thiệp(%)
Cách
Xử trí
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT SCT p TCT SCT
n=27 n=38 n=25 n=21
Đi khám 74,1 92,1
<0,001
57,1 68,0
5,2
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Sau can thiệp, hầu hết nhóm can thiệp (92%) đã đưa trẻ đi khám
khi phát hiện dấu hiệu nặng cần khám ngay (p<0,001) (Bảng 3.8).
Hình 3.2: So sánh thực hành xử trí khi trẻ ho,cảm lạnh trước và sau
can thiệp (%)
Khi trẻ có dấu hiệu ho, cảm lạnh, tỷ lệ bà mẹ Ba Vì xử trí đúng
tăng có ý nghĩa thống kê so với trước can thiệp. Lý do tăng chủ yếu
là do tự theo dõi trẻ tại nhà tăng thêm 14,7% so với ban đầu với
CSHQ can thiệp đạt trên 472,4% (Hình 3.2).
3.1.3.2. Thực hành sử dụng thuốc
Bảng 3.9: So sánh thực hành dùng KS cho trẻ của bà mẹ trước-sau can thiệp
Sử dụng KS
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT SCT p TCT SCT
n=178 n=113 n=172 n=160
KS có đơn
53,4 70,8 >0,05 50,0 53,1 26,4
KS đủ ngày 25,3 63,7 <0,001 33,1 41,9 125,2
Cả hai tiêu chí 18,0 47,8 <0,001 19,8 24,4 142,2
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Tình hình sử dụng KS đúng có sự chuyển biến tích cực ở nhóm
can thiệp. Tỷ lệ sử dụng KS có đơn và đủ ngày tăng từ 18,0% lên
47,8% (p<0,001) và CSHQ can thiệp đạt 142,2%.
10
Bảng 3.10: So sánh thực hành mua thuốc cho trẻ ho, cảm lạnh của bà mẹ
trước-sau can thiệp (%)
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT SCT p TCT SCT
n=98 n=53 n=85 n=87
Không dùng KS 16,3 28,3
>0,05
27,1 24,1
84,5
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Trường hợp trẻ ho, cảm lạnh, sau can thiệp, tỷ lệ bà mẹ có thực
hành đúng ở Ba Vì có tăng nhưng không có ý nghĩa thống kê.
3.1.3.4. Thực hành chăm sóc, theo dõi trẻ
Sau can thiệp, tỷ lệ có thực hiện từng loại chăm sóc thiết yếu trẻ
ốm tại nhà ở Ba Vì đều tăng rõ rệt, ngoại trừ tỷ lệ thực hành theo dõi
trẻ bệnh tăng không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.11: So sánh thực hành chăm sóc trẻ của bà mẹ trước-sau can thiệp
Chăm sóc
Theo dõi
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT SCT P TCT SCT
n =211 n =198 n =171 n=189
Tăng cường ăn
28,9 54,4 <0,001 38,0 29,6 110,2
Uống/bú nhiều hơn
33,2 53,8 <0,001 38,0 32,3 68,8
Làm thông thoáng
mũi, họng
24,6 32,8 <0,05 33,3 31,2 33,9
Giữ ấm/làm mát
46,4 59,1 <0,001 47,4 45,0
50,6
Theo dõi trẻ ốm
32,7 40,9 >0,05 49,1 51,9 19,4
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Sau can thiệp, tỷ lệ bà mẹ đưa trẻ đi khám lại sau 2-3 ngày dùng
KS tăng lên 38,2% (p<0,001). CSHQ can thiệp đạt 599,4%.
3.2. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành điều trị trẻ
NKHHCT của cán bộ y tế.
3.2.1. Đặc điểm của đối tượng cán bộ y tế
Hai nhóm CBYT của hai huyện có một số đặc điểm cơ bản như
độ tuổi, số năm công tác trung bình, trình độ chuyên môn, và loại
hình cơ sở y tế (tư nhân/nhà nước) khá tương đồng nhau. Kiểm định
sự khác biệt giữa 2 nhóm về các chỉ số nêu trên không thấy sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Độ tuổi trung bình là 40 tuổi. Đại đa số
(74,68%) có trình độ y sĩ. Số lượng CBYT tư nhân cao hơn gấp hai
lần cán bộ trạm y tế xã. Đa số đã khám chữa bệnh trên 10 năm.
11
3.2.2. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức của cán bộ y tế
3.2.2.1. Kiến thức nhận biết dấu hiệu bệnh
Với bệnh rất nặng: CBYT cần nhớ 11 dấu hiệu bệnh nặng (6 ở trẻ
dưới 2 tháng tuổi và 5 ở trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi). Trước can thiệp tại
cả hai huyện, hầu hết CBYT chỉ nhớ được từ 4 đến 6 dấu hiệu. Một
vài CBYT không biết bất cứ dấu hiệu nào. Không có CBYT nào nhớ
đầy đủ tất cả dấu hiệu. Sau can thiệp, phần lớn CBYT Ba Vì đã biết
từ bảy đến chín dấu hiệu, không có CBYT nào biết ít hơn 4 dấu hiệu
và 11% biết tất cả 11 dấu hiệu.
Với bệnh viêm phổi nặng: Sau can thiệp, hầu hết CBYT Ba Vì đã
nhớ được các dấu hiệu. Tỷ lệ biết dấu hiệu RLLN là 88,9%, cao hơn
hẳn so với trước. Có sự gia tăng có ý nghĩa thống kê ở tất cả các tỷ lệ
biết dấu hiệu viêm phổi nặng ở hai nhóm tuổi
Bảng 3.13: So sánh kiến thức về dấu hiệu viêm phổi nặng của CBYT trước
sau can thiệp(%)
Dấu hiệu viêm
phổi nặng
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=36
SCT
n=36
p TCT
n=43
SCT
n=43
Trẻ dưới 2 tháng tuổi
RLLN 55,6 88,9 <0,01 67,4 72,1 53,1
Thở nhanh 55,6 100 >0,05 53,5 55,8 75,7
Ngưỡng thở nhanh 41,7 88,9 >0,05 41,9 39,5 118,9
Trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi
RLLN 55,6 88,9 <0,01 67,4 72,1 53,1
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Với viêm phổi: Tại Ba Vì, tỷ lệ CBYT biết dấu hiệu của viêm
phổi tăng từ 66,7% lên 100%, tỷ lệ biết ngưỡng thở nhanh, chỉ báo
của viêm phổi, tăng từ 47,2% lên 83,3%.
3.2.2.2. Kiến thức xử trí và kê đơn thuốc
Bảng 3.14: So sánh kiến thức dấu hiệu viêm phổi của CBYT trước-sau can
thiệp(%)
Dấu hiệu viêm
phổi
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=36
SCT
n=36
p
TCT
n=43
SCT
n=43
Thở nhanh 66,7 100
<0,001
65,1 55,6 64,7
Ngưỡng thở nhanh 47,2 83,3
<0,001
48,8 46,5 81,3
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
12
Với bệnh viêm phổi: Tỷ lệ nhóm can thiệp có kiến thức xử trí
đúng tăng có ý nghĩa thống kê với CSHQ đạt 1062,0%. Tỷ lệ biết sử
dụng KS đúng loại tăng có ý nghĩa thống kê còn tỷ lệ biết sử dụng
KS đủ ngày thì không (Bảng 3.14).
Với trẻ ho, cảm lạnh: Tỷ lệ CBYT Ba Vì có kiến thức
đúng(không sử dụng KS) tăng lên có ý nghĩa thống kê và CSHQ can
thiệp là 96,8%.
3.2.2.3. Kiến thức tư vấn sau khám bệnh
Ở nhóm can thiệp tất cả các chỉ số đánh giá tư vấn chăm sóc trẻ
tại nhà đều tăng có ý nghĩa thống kê khi so sánh trước và sau can
thiệp.
Hình 3.6: So sánh kiến thức tư vấn chăm sóc trẻ CBYT trước-sau can thiệp
Trong các kiến thức tư vấn theo dõi các dấu hiệu cần đi khám, tỷ
lệ CBYT biết dấu hiệu thở khác thường tăng nhiều nhất, đạt 61,1%
với CSHQ can thiệp đạt 225,0%. Kiến thức hẹn tái khám tăng không
đáng kể so với trước can thiệp.
3.2.3. Hiệu quả của can thiệp tới thực hành của cán bộ y tế
3.2.3.1. Thực hành xác định dấu hiệu bệnh
Bảng 3.18: So sánh thực hành hỏi xác định dấu hiệu bệnh của CBYT trước-
sau can thiệp
Hỏi bệnh
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=36
SCT
n=36
p TCT
n=43
SCT
n=43
Tuổi 80,6 91,7 >0,05 62,8 67,4 6,5
Thời gian ho 69,4 75,0 >0,05 48,8 51,2 3,2
Bú/uống 22,2 58,3 <0,05 14,0 23,3 96,2
Co giật 33,3 66,7 <0,05 41,7 34,9 116,6
Sốt 44,4% 52,8 >0,05 32,6 25,6 40,2
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
13
Sau can thiệp, tỷ lệ CBYT Ba Vì có hỏi về dấu hiệu co giật và
bú/uống tăng đáng kể (p<0,05). Trong khi đó câu hỏi đơn giản (tuổi
và sốt), tỷ lệ hỏi lại tăng lên không có ý nghĩa thống kê (Bảng 3.18).
Bảng 3.19: So sánh thực hành thăm khám của CBYT trước-sau can thiệp
Thăm khám
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=36
SCT
n=36
p TCT
n=43
SCT
n=43
Quan sát RLLN 38,9 80,6 <0,05 37,2 41,9 94,6
Đếm nhịp thở 22,2 55,6 <0,05 23,3 27,9 170,2
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Đánh giá sau can thiệp cho thấy tỷ lệ CBYT có thực hiện quan
sát dấu hiệu RLLN và đếm nhịp thở đều tăng có ý nghĩa thống kê.
3.2.3.2. Thực hành xử trí và kê đơn thuốc
Với trẻ viêm phổi ở Ba Vì: trước can thiệp, tất cả đều được
chuyển tuyến. Sau can thiệp, cả 5 trường hợp đều được xử trí đúng là
kê đơn KS và không chuyển tuyến.
Bảng 3.21: So sánh th c h nh kê n kháng sinh ự à đơ đủ
ng y, úng lo i tr c-sau can thi pà đ ạ ướ ệ
Kê đơn KS
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT SCT p TCT SCT
n =28 n=26 n =35 n =36
Đúng loại
50,0 61,5 >0,05 45,7 30,6 56,0
Đủ ngày 32,1 50,0 >0,05 34,3 33,3 57,9
*Ghi chú: Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số ở nhóm chứng
Tỷ lệ kê đơn KS đúng loại và đủ ngày tăng không có ý nghĩa
thống kê ở cả nhóm can thiệp và nhóm chứng.
3.2.3.3. Thực hành tư vấn sau khám bệnh
Bảng 3.22: So sánh thực hành tư vấn sau khám bệnh trước-sau can thiệp
Tư vấn sau khám
bệnh
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=36
SCT
n=36
p TCT
n=43
SCT
n=43
Chăm sóc trẻ tại nhà 33,3 75,0
<0,01
18,6 20,9
112,5
Theo dõi trẻ NKHHCT 22,2 63,9
<0,001
14,0 23,3
120,8
Hẹn tái khám 33,3 63,9
>0,05
34,9 41,9 71,7
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Tại Ba Vì, sau can thiệp, tỷ lệ CBYT thực hiện các nội dung tư
vấn đều tăng. Hướng dẫn chăm sóc trẻ tại nhà và theo dõi dấu hiệu
14
bệnh là hai chỉ số tăng có ý nghĩa thống kê.
3.3. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành bán thuốc
cho trẻ NKHHCT của người bán thuốc.
3.3.1. Đặc điểm của đối tượng người bán thuốc
Đặc điểm nhân khẩu học của hai nhóm chứng và can thiệp khá
tương đồng nhau về các chỉ số: độ tuổi trung bình, trình độ chuyên
môn, học vấn, nơi và số năm công tác.
3.3.2. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức của người bán thuốc
3.3.2.1. Kiến thức hỏi bệnh trẻ NKHHCT trước khi bán thuốc
Bảng 3.24: So sánh kiến thức hỏi trước khi bán thuốc trước-sau can thiệp
Câu hỏi
Can thiệp Đối chứng*
CSH
Q
TCT
n=23
SCT
n=23
p TCT
n=24
SCT
n=24
Tuổi của trẻ 73,9 100 >0,05 62,5 66,7 28,6
Đơn thuốc 30,4 91,3 <0,01 33,3 33,3 200,0
Thời gian ho 43,5 73,9 >0,05 70,8 62,5 81,6
Bú/uống được không 39,1 69,6 >0,05 45,8 41,7 87,0
Thở khác thường 30,4 78,3 <0,05 20,8 25,0 137,5
Mệt hơn 52,2 78,3 >0,05 45,8 58,3 22,1
Sốt cao 82,6 91,3 >0,05 75,0 79,2 4,9
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Sau can thiệp, chỉ có kiến thức hỏi về thở (thở khác thường)
và đơn thuốc tăng có ý nghĩa thống kê với CSHQ can thiệp lần lượt
là 137,5% và 200,0%.
3.3.2.2. Kiến thức bán thuốc cho trẻ NKHHCT
Bảng 3.25: So sánh ki n th c bán thu c cho tr ế ứ ố ẻ
NKHHCT c a ng i bán thu c tr c-sau can ủ ườ ố ướ
thi p (%)ệ
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=23
SCT
n=23
p TCT
n=24
SCT
n=24
Bán KS
Bán KS theo đơn 43,5 82,6 >0,05 45,8 54,2 71,6
Bán thuốc cho trẻ ho, cảm lạnh
Không bán KS 13,0 56,5 <0,05 62,5 66,7 327,9
Bán thuốc ho 87,0 91,3 >0,05 75,0 75,0 4,9
15
Bán thuốc hạ sốt 73,9 87,0 >0,05 100 100 0
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Kiến thức khuyên đi khám: Sau can thiệp, tỷ lệ người bán thuốc
có biết khuyên đi khám khi trẻ có dấu hiệu cần khám ngay tăng có ý
nghĩa thống kê, CSHQ can thiệp đạt 121,7%. Còn kiến thức khuyên
trẻ dưới 2 tháng đi khám không khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ có kiến thức bán KS đúng (khi có đơn) tăng gần gấp hai
lần sau can thiệp, nhưng không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ biết không
bán KS cho trẻ ho, cảm lạnh tăng có ý nghĩa thống kê sau can thiệp.
3.3.2.3. Kiến thức tư vấn sau khi bán thuốc
Sau can thiệp, kiến thức tư vấn dùng thuốc ở Ba Vì đã tăng,
với tỷ lệ kiến thức 2 nội dung tư vấn: theo dõi dấu hiệu cần khám
ngay và khuyên đi khám tăng rõ rệt (p<0,01 và p<0,05). Các tỷ lệ còn
lại tăng nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.26: So sánh kiến thức tư vấn của người bán thuốc trước-sau can
thiệp (%)
Nội dung tư vấn Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=23
SCT
n=23
p TCT
n=24
SCT
n=24
Cách dùng thuốc
91,3 100 >0,05 87,5 95,8 0
Tác dụng phụ
30,4 60,9 >0,05 25,0 12,5 150,3
Theo dõi bệnh
17,4 69,6 <0,01 33,3 37,5 289,1
Khuyên đi khám
39,1 86,9 <0,05 41,7 41,7 122,3
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
3.3.3. Hiệu quả can thiệp thay đổi thực hành của người bán thuốc
3.3.3.1. Thực hành hỏi bệnh trước khi bán thuốc
Trong quá trình can thiệp, người bán thuốc đã được tập huấn
kỹ năng hỏi sáu câu hỏi thiết yếu nhất trước khi bán thuốc cho trẻ
NKHHCT bao gồm: tuổi của trẻ, thời gian ho, trẻ có bú/uống được
không, thở khác thường, mệt nhiều, sốt.
Trước can thiệp, ở cả hai huyện, những câu hỏi tìm hiểu dấu hiệu
cần khám ngay, cũng như tuổi của trẻ tỷ lệ người bán thuốc hỏi rất
thấp. Thấp nhất là tỷ lệ hỏi về cách thở của trẻ, mặc dù câu hỏi này
rất quan trọng đối với trường hợp trẻ NKHHCT. Tại Ba Vì, tỷ lệ có
hỏi từng nội dung đều tăng lên sau can thiệp. Tuy nhiên, chỉ có ba
16
(hỏi về đơn thuốc, cách thở và bú/uống) trong bảy câu hỏi thiết yếu
có sự khác biệt về tỷ lệ có ý nghĩa thống kê so với trước can thiệp.
17
Bảng 3.27: So sánh thực hành hỏi trước khi bán thuốc trước-sau can thiệp
Các câu hỏi Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=23
SCT
n=23
p TCT
n=24
SCT
n=24
Tuổi của trẻ
56,5 82,6 >0,05 54,2 50,0 54,0
Đơn thuốc
4,3 34,8 <0,05 8,3 8,3 709,3
Thời gian ho
43,5 52,2 >0,05 41,7 37,5 30,1
Bú/uống được
không 26,1 65,2 <0,05 41,7 37,5 159,8
Thở khác thường
17,4 52,2 <0,05 8,3 0 200,0
Mệt nhiều hơn
30,4 52,2 >0,05 33,3 29,2 74,0
Sốt cao
60,9 78,3 >0,05 45,8 41,7 37,6
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
3.3.3.2.Thực hành bán thuốc cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
Bảng 3.28: So sánh thực hành bán thuốc cho trẻ ho, cảm lạnh trước-sau can
thiệp(%)
Can thiệp Đối chứng*
CSHQ
TCT
n=23
SCT
n=23
p TCT
n=24
SCT
n=24
Không bán KS
0 34,8 >0,05 0 0
Thuốc ho
47,8 100,0 <0,05 54,2 58,3 101,5
Paracetamol
65,2 87,0 >0,05 66,7 70,8 27,0
* Khác biệt không có ý nghĩa thống kế ở tất cả các chỉ số đánh giá nhóm chứng
Sau can thiệp, đã có 34,8% (8 người) trong nhóm can thiệp đã có
thực hành đúng, không bán KS cho trẻ ho, cảm lạnh. Tỷ lệ chỉ bán
thuốc ho cũng đã tăng đáng kể.
3.3.3.3. Thực hành tư vấn chăm sóc cho trẻ NKHHCT
Sau can thiệp, 100% người bán thuốc Ba Vì đã tư vấn cách dùng
thuốc. Các tư vấn khác đều tăng có ý nghĩa thống kê với CSHQ can
thiệp là: tư vấn tác dụng phụ 498,8%, theo dõi trẻ 577,7%, khuyên đi
khám 290,6%.
18
Hình 3.8: So sánh thực hành tư vấn của người bán thuốc trước -sau can
thiệp
3.4. Tính khả thi và khả năng duy trì của can thiệp
3.4.1. Can thiệp cho bà mẹ
Tỷ lệ bà mẹ tham gia, thụ hưởng các can thiệp khá cao. Tỷ lệ
thường xuyên tham gia sinh hoạt nhóm đạt 65,8%. Tỷ lệ không bao
giờ tham gia chỉ có 4,6%. Chỉ có 5 (1,7%) bà mẹ không được bà mẹ
tích cực đến thăm tại nhà. Tỷ lệ bà mẹ được CBYT hoặc người bán
thuốc tư vấn chiếm gần 90%.
Về tính hữu ích, nội dung tư vấn “phát hiện dấu hiệu bệnh” được
70,8% bà mẹ cho rằng rất có ích và 26,2% có ích. “Tư vấn chăm sóc
trẻ ốm” cũng được 93% đánh giá là có ích.
Về khả năng duy trì, khoảng từ 70% đến hơn 95% bà mẹ cho
rằng các can thiệp là dễ duy trì.
3.4.2. Can thiệp cho cán bộ y tế
100% CBYT đã tham gia tập huấn và họp trao đổi kinh nghiệm.
Riêng giám sát hỗ trợ từ tuyến trên vẫn còn 44,4% cho rằng chưa
được thường xuyên. Trên 90% CBYT cho rằng nội dung kiến thức,
kỹ năng là có ích. Cả 3 can thiệp đã nêu đều được trên 80% đánh giá
là dễ duy trì.
3.4.3. Can thiệp cho người bán thuốc
Tỷ lệ được thụ hưởng các can thiệp đều đạt 100%. Kiến thức, kỹ
năng hỏi bệnh và tư vấn dùng thuốc được hầu hết nhận xét là rất có
ích; chỉ riêng nội dung bán thuốc có 39,1% thấy không có ích. Can
thiệp giám sát đồng đẳng được phần lớn (78,3%) đánh giá “rất dễ duy
trì”. Hai can thiệp tập huấn và giám sát từ tuyến trên chỉ được đánh
giá ở mức “dễ duy trì”.
19
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành chăm sóc
trẻ NKHHCT của bà mẹ
4.1.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu bà mẹ
4.1.2. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức của bà mẹ
4.1.3. Hiệu quả can thiệp thay đổi thực hành của bà mẹ
Sau can thiệp, hầu hết nhóm can thiệp đã đưa trẻ đi khám khi
thấy dấu hiệu bệnh nặng. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ có kiến thức
đúng tương đương với tỷ lệ thực hành đúng. Điều này chứng tỏ bà
mẹ nếu đã thu nhận được kiến thức đều đã áp dụng vào thực hành.
Có lẽ đồng thời với thu nhận được kiến thức, họ cũng có môi trường
hỗ trợ nên dễ dàng thay đổi hành vi.
Khái niệm tự chăm sóc theo dõi tại nhà khi trẻ bệnh là hoàn toàn
mới đối với bà mẹ. Sau can thiệp, tỷ lệ nhóm can thiệp tự chăm sóc
theo dõi trẻ tại nhà tăng gấp 6 lần. Vẫn còn gần 40% tự mua thuốc
điều trị (thực hành sai) mặc dù chỉ có dưới 25% thiếu kiến thức; cho
thấyviệc thay đổi hành vi, thói quen đã tồn tại từ lâu sẽ đòi hỏi những
can thiệp tích cực và lâu dài hơn nữa.
Do thói quen tự mua thuốc còn tồn tại, với NKHHCT thể nhẹ,
nghiên cứu này đã lựa chọn biện pháp can thiệp để hạn chế tác hại.
Bên cạnh lời khuyên không nên tự mua thuốc, không dùng KS với
thể bệnh nhẹ, chúng tôi còn hướng dẫn một số loại thuốc ho an toàn
để bà mẹ mua. Biện pháp này đã đạt được hiệu quả nhất định: tỷ lệ
chỉ mua thuốc ho, không mua KS điều trị ho, cảm lạnh đã tăng lên
thêm 12% so với ban đầu ở nhóm can thiệp.
Đánh giá việc chăm sóc, theo dõi trẻ NKHHCT tại nhà của bà
mẹ cho thấy: Tất cả bốn chỉ số đánh giá thực hành chăm sóc trẻ của
nhóm can thiệp đều tăng sau can thiệp và khác biệt có ý nghĩa thống
kê. Ngược lại thực hành theo dõi dấu hiệu cần khám ngay lại không
tăng đáng kể. Cũng có thể do xã hội ngày một phát triển, bà mẹ ngày
càng bận rộn hơn với các công việc ngoài gia đình. Để tăng tính chủ
động, nghiên cứu hướng dẫn dù có được hẹn hay không, trẻ vẫn cần
được tái khám sau 2 ngày. Kết quả đạt được khá tích cực.Tỷ lệ bà mẹ
đưa trẻ đi tái khám ở Ba Vì tăng từ 10% lên gần 40% sau can thiệp.
20
4.2. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành điều trị trẻ
NKHHCT của cán bộ y tế
4.2.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu cán bộ y tế
4.2.2. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức của cán bộ y tế
4.2.3. Hiệu quả can thiệp thay đổi thực hành của cán bộ y tế
Ở Ba Vì, qua quan sát quá trình khám bệnh trước và sau can
thiệp, chúng tôi thấy tỷ lệ CBYT có hỏi từng câu hỏi xác định dấu
hiệu bệnh đều tăng. Sau can thiệp, tỷ lệ thực hiện hai kỹ thuật thăm
khám là quan sát RLLN và đếm nhịp thở đều tăng từ 30% đến 40%
và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Vấn đề này chứng tỏ can thiệp
đã có tác động tích cực làm thay đổi hành vi của CBYT.
Đánh giá trước can thiệp cho thấy, do ngại trách nhiệm, trình độ
có hạn nên tất cả các trường hợp viêm phổi đều được chuyển lên
tuyến trên. Hạn chế được chuyển tuyến không cần thiết sẽ đem lại lợi
ích cho cả người cung cấp và người sử dụng dịch vụ. Sau can thiệp,
cả 5 trường hợp viêm phổi quan sát được tại Ba Vì đều được CBYT
kê đơn KS và điều trị ngay tại cộng đồng. So sánh kết quả đánh giá
thực hành kê đơn KS cho thể ho, cảm lạnh, chúng tôi thấy can thiệp
chưa đạt hiệu quả cao. Tỷ lệ có thực hành đúng chỉ tăng thêm khoảng
13%, không có ý nghĩa thống kê.
Sau can thiệp , tỷ lệ CBYT có tư vấn cách chăm sóc tại nhà và
theo dõi trẻ đều tăng thêm khoảng 40% và có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ
CBYT có hẹn tái khám không tăng rõ rệt như vậy.
Tóm lại, nếu không tốn thời gian, không ảnh hưởng đến thu
nhập và làm tăng uy tín của CBYT, có thể thay đổi hành vi thông qua
cung cấp và nhắc lại kiến thức thường xuyên. Những thay đổi gây tốn
thời gian hoặc làm giảm thu nhập sẽ khó đạt được hơn dù trang bị
đầy đủ kiến thức. Đối với những vấn đề này, có lẽ một môi trường
pháp lý với những quy định và chế tài cụ thể sẽ hỗ trợ tích cực hơn.
21
4.3. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành bán thuốc
cho NKHHCT của người bán thuốc.
4.3.1.Đặc điểm mẫu nghiên cứu người bán thuốc
4.3.3. Hiệu quả can thiệp kiến thức bán thuốc
4.3.3. Hiệu quả can thiệp thực hành bán thuốc
Sau can thiệp, tỷ lệ hỏi hai câu hỏi về đơn thuốc và dấu hiệu thở
ở Ba Vì đều tăng rõ rệt. CSHQ các can thiệp đạt từ 200% đến 700%
và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Duy trì giám sát, cung cấp kiến
thức thường xuyên đã có thể thay đổi thói quen của người bán thuốc.
Can thiệp cũng đã có tác động khá rõ rệt trong thay đổi thực
hành bán thuốc cho trẻ ho, cảm lạnh theo hướng tích cực. Trước can
thiệp 100% trường hợp mua thuốc đều được bán KS. Sau can thiệp,
có khoảng một phần ba không bán KS, nhưng tỷ lệ bán các thuốc
điều trị triệu chứng đều tăng. Can thiệp thay thế bán thuốc không cần
thiết sang bán thuốc không có hại mà vẫn duy trì nguồn lợi cho người
bán thuốc đã hỗ trợ thay đổi hành vi theo hướng tích cực.
Thực hành tư vấn theo dõi bệnh cũng được cải thiện đáng kể với
tỷ lệ thực hiện nội dung này tăng thêm 78%
4.4. Bàn luận về tính mới, tính khả thi và khả năng duy trì của
can thiệp
Các can thiệp trong nghiên cứu này được xây dựng dựa trên
bằng chứng và nhu cầu nên tất cả các hoạt động can thiệp đều được
phần lớn đối tượng tham gia. Nghiên cứu này là một trong những
nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam can thiệp phối hợp đồng thời với cả
ba nhóm đối tượng chính tham gia chăm sóc và điều trị cho trẻ
NKHHCT, để từ đó tạo ra sự chuyển biến cho toàn bộ chu trình.
Các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị cũng như nội dung thông
tin truyền thông sử dụng trong can thiệp hoàn toàn dựa trên tài liệu
chuẩn đã được ban hành của Bộ Y tế. Tuy nhiên, chúng tôi không can
thiệp dàn trải mà chỉ tập trung vào những nội dung ưu tiên theo nhu
cầu của từng nhóm đối tượng. Tùy theo tính khả thi của từng nội
dung, nghiên cứu đã lựa chọn can thiệp hoàn toàn theo hướng dẫn
chuẩn hoặc mới chỉ thay đổi từng bước (giảm thiểu tác hại).
22
Nhiều nghiên cứu kết thúc sau khi can thiệp TT-GD-TT, không
có quá trình giám sát hỗ trợ tiếp tục. Nghiên cứu này đã được kéo dài
thêm một chu kỳ để triển khai các hoạt động giám sát và theo dõi tính
bền vững của can thiệp.
Việc huy động sự tham gia của cộng đồng ngoài lợi ích giảm chi
phí, tận dụng được nguồn lực sẵn có của địa phương còn tăng cường
trách nhiệm của đối tượng đối với sức khỏe bản thân, gia đình và
cộng đồng xung quanh; do đó đã góp phần tăng tính khả thi và bền
vững của các can thiệp.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã xây dựng, thử nghiệm các giải pháp can thiệp
và đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành của
những đối tượng chủ chốt trong quá trình chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn
hô hấp cấp tính là bà mẹ có con dưới 5 tuổi, cán bộ y tế tuyến xã,
người bán thuốc. Địa bàn thử nghiệm can thiệp là 5 xã thuộc huyện
Ba Vì và đối chứng là 5 xã thuộc huyện Đan Phượng trong thời gian
từ tháng 3/2005 đến 1/2008. Từ đó chứng minh sự kết hợp can thiệp
thông tin-giáo dục-truyền thông với giám sát hỗ trợ thực hành có sự
tham gia chủ động của các đối tượng đích là những giải pháp can
thiệp thay đổi kiến thức, thực hành phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp
cấp tính cho trẻ dưới 5 tuổi đạt hiệu quả cao, phù hợp và dễ duy trì.
Cụ thể là:
1. Hiệu quả can thiệp đối với bà mẹ
- Can thiệp đã có hiệu quả rõ rệt trong thay đối kiến thức của bà mẹ
về cả bốn nhóm nội dung mà họ đã được cung cấp, bao gồm: (1)
nhận biết dấu hiệu bệnh; (2) xử trí ban đầu; (3) sử dụng kháng sinh
(theo chỉ định, đủ ngày, không dùng kháng sinh cho trẻ ho, cảm
lạnh); (4) chăm sóc, theo dõi, tái khám cho trẻ.
- Can thiệp có hiệu quả cải thiện một số thực hành của bà mẹ: (1) xử
trí ban đầu (đưa trẻ có dấu hiệu cần đi khám đến cơ sở y tế; tự theo
dõi trẻ ho, cảm lạnh); (2) sử dụng kháng sinh đủ ngày; (3) chăm sóc
và tái khám cho trẻ.
- Can thiệp còn chưa có hiệu quả cao trong thay đổi một số thực
hành: (1) sử dụng kháng sinh (theo chỉ định của cán bộ y tế và sử
23
dụng kháng sinh cho trẻ ho, cảm lạnh) và (2) theo dõi trẻ nhiễm
khuẩn hô hấp cấp tính.
2. Hiệu quả can thiệp đối với cán bộ y tế
- Kiến thức của cán bộ y tế về tất cả các nội dung được can thiệp đã
cải thiện rõ rệt, gồm: (1) kiến thức nhận biết dấu hiệu bệnh; (2) kiến
thức xử trí và kê đơn và (3) tư vấn sau khám bệnh.
- Can thiệp đã thay đổi tích cực một số thực hành của cán bộ y tế: (1)
xác định dấu hiệu bệnh thông qua khám (thực hành quan sát dấu hiệu
rút lõm lồng ngực và đếm nhịp thở) và (2) tư vấn sau khám bệnh.
- Can thiệp chưa tạo thay đổi lớn trong một số thực hành khám chữa
bệnh của cán bộ y tế: (1) xác định dấu hiệu bệnh thông qua hỏi tiền
sử và (2) kê đơn kháng sinh (cán bộ y tế vẫn kê đơn kháng sinh
không cần thiết cho trẻ ho, cảm lạnh, kê kháng sinh không đúng loại
hoặc đủ ngày).
3. Hiệu quả can thiệp đối với người bán thuốc.
- Can thiệp đã nâng cao kiến thức về cả ba nội dung đã được can
thiệp, cụ thể là: (1) hỏi thông tin của trẻ trước bán thuốc; (2) bán
thuốc (không nên bán kháng sinh cho trẻ ho, cảm lạnh và khuyên trẻ
đi khám khi có dấu hiệu cần khám ngay); (3) tư vấn sau khi bán
thuốc (cách dùng thuốc và theo dõi trẻ).
- Can thiệp đã cải thiện đáng kể thực hành hỏi thông tin của trẻ
trước bán thuốc và tư vấn gồm: (1) thực hành hỏi 2 câu hỏi quan
trọng nhất trước khi bán thuốc (là đơn thuốc và dấu hiệu thở khác
thường); (2) thực hành tư vấn sau khi bán thuốc (về tác dụng phụ,
theo dõi trẻ và khuyên đưa trẻ đi khám khi có dấu hiệu nguy hiểm).
- Can thiệp chưa có hiệu quả giảm tình trạng bán kháng sinh không
cần thiết: (1) thực hành bán kháng sinh không cần thiết đối với
những trường hợp ho, cảm lạnh vẫn không giảm.
KIẾN NGHỊ
Từ kinh nghiệm thu được trong nghiên cứu can thiệp- đối chứng tại
hai huyện Ba Vì và Đan Phượng, chúng tôi có một số kiến nghị sau:
24
1. Các can thiệp dựa vào cộng đồng đã được thử nghiệm thành công
trong nghiên cứu này cần được tiếp tục nghiên cứu và triển khai
áp dụng ở những vùng nông thôn có điều kiện tương tự với
những điều chỉnh nội dung và hình thức cho phù hợp tùy từng
điều kiện cụ thể tại địa phương.
2. Để can thiệp cải thiện tình hình chăm sóc và điều trị trẻ nhiễm
khuẩn hô hấp cấp tính đạt hiệu quả cần lưu ý một số điều kiện
sau:
- Cần đề cao vai trò chủ động, tích cực tham gia của cá nhân, gia
đình, người cung ứng dịch vụ y tế, các tổ chức chính trị-xã hội và
cộng đồng để tạo sự chuyển biến tích cực, toàn diện chu trình
chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Cần khuyến khích sự
chủ động tham gia của các nhóm đối tượng hưởng lợi suốt quá
trình thực hiện can thiệp (từ thiết kế, triển khai đến giám sát can
thiệp).
- Thường xuyên, định kỳ triển khai các hoạt động Thông tin-Giáo
dục- Truyền thông cung cấp kiến thức và giám sát hỗ trợ thay đổi
thực hành cho tất cả các đối tượng tham gia chăm sóc trẻ nhiễm
khuẩn hô hấp cấp tính.
- Các hình thức can thiệp (nhóm bà mẹ tích cực, tự giám sát )
hoặc những nội dung can thiệp (tự chăm sóc theo dõi trẻ bệnh, tư
vấn sau cung ứng dịch vụ… ) đã có hiệu quả tích cực trong
nghiên cứu này cần được xem xét để triển khai mở rộng, đồng
thời tiếp tục đánh giá và sửa đổi, hoàn thiện khi áp dụng tại các
địa bàn khác.
- Những vấn đề còn khó cải thiện như lạm dụng kháng sinh hoặc
tự điều trị, cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra giải pháp thích hợp,
chuyên biệt hơn.
25