Hình ảnh kẻ sĩ Thăng
Long trong sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng
Từ những tác phẩm đầu tay cho đến những trang ghi chép cuối cùng trên giường
bệnh, Nguyễn Huy Tưởng không ngừng trăn trở với câu hỏi lớn về thiên chức và số
phận của nghệ thuật, của người nghệ sĩ. Cuộc đời Nguyễn Huy Tưởng cũng như văn
nghiệp của ông có sự nhất quán, xuyên suốt, là quá trình tự đấu tranh vừa âm thầm vừa
quyết liệt để khẳng định phẩm chất trung thực của người trí thức trước những sóng gió
lịch sử, trước biến động thời thế. Nhiều nhà phê bình đã khẳng định sự nhất quán ấy đã
tạo nên một nhân cách đặc sắc trong văn học hiện đại Việt Nam: nhân cách Nguyễn Huy
Tưởng.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học ở vùng đất ngoại thành Hà
Nội, Nguyễn Huy Tưởng sớm hình thành một nhân cách bền vững theo hình mẫu sĩ
phu Nho học. Bước vào đời vào nghề trong bối cảnh mất nước, xã hội đang biến động
dữ dội, phong trào cách mạng sôi sục, nhà văn ý thức rất rõ về trách nhiệm, bổn phận
của một công dân với đất nước, một trí thức với văn hóa dân tộc và vai trò nhập thế
của kẻ sĩ. Cũng như nhiều trí thức cùng thời, chịu ảnh hưởng cả văn hóa phương Đông
và phương Tây, Nguyễn Huy Tưởng chọn cho mình một lẽ sống khá hài hòa giữa hai
luồng tư tưởng ấy, theo hướng tích cực: hăm hở nhập thế, sục sôi nhiệt huyết đấu
tranh vì “lý tưởng quốc gia”. Điều này được ghi lại trong những trang nhật ký của nhà
văn từ ngày đầu cầm bút. Ông sớm đề ra cho mình những nguyên tắc sống, nguyên tắc
trong sự nghiệp, những nguyên tắc nghiêm ngặt của kẻ sĩ theo Nho giáo: lấy đức Nhân
làm lẽ sống, lấy Trung Dung làm nguyên tắc hành xử. Vì thế, trải qua bao sóng gió của
lịch sử đất nước cũng như bao thăng trầm của đời tư, Nguyễn Huy Tưởng vẫn giữ cho
mình đôi mắt người nghệ sĩ trung thực, chân thành, ngay cả khi hiện thực có bi đát đến
đâu, ta vẫn thấy những tia hi vọng, ánh sáng của nhân văn lấp lánh từ nhãn quan ấy.
Cũng như bất kỳ một nghệ sĩ nào từng được sinh ra, trưởng thành trên đất kinh đô
Thăng Long ngàn năm văn hiến, Nguyễn Huy Tưởng yêu tha thiết mảnh đất oai hùng,
thiêng liêng này. Khát khao suốt đời văn của ông là có thể tái hiện lại những nét đẹp rất
riêng của đất và người Thăng Long - Hà Nội, bởi đó là nét đẹp hội tụ tinh hoa khắp mọi
miền đất nước được bồi đắp qua năm tháng, qua sóng gió, thăng trầm của lịch sử. Trong
đó, nổi bật lên là hình ảnh nhân sĩ Thăng Long – những trí thức, những nghệ sĩ có phẩm
cách, lương tri, được đặt trong bối cảnh đầy biến động của thời cuộc, và để lại trong
lòng người đọc những ám ảnh, suy tư, day dứt.
Chủ đề người trí thức trong văn học Việt Nam hiện đại được khai thác khá nhiều,
song nổi bật hơn cả trong sáng tác của ba cây bút: Thạch Lam, Nam Cao và Nguyễn
Huy Tưởng. Ở Thạch Lam, những truyện ngắn nhẹ nhàng mà sâu sắc cho thấy những
dằn vặt, băn khoăn của người trí thức trong quá trình tu thiện, hoàn thiện nhân cách.
Nam Cao tiếp tục đề tài người trí thức đặt trong bi kịch đấu tranh để tồn tại, để “sống đã
rồi hãy viết”, đầy day dứt về khát vọng nghệ thuật chân chính bị áo cơm ghì sát đất. Với
Nguyễn Huy Tưởng, hình ảnh người trí thức có phần lãng mạn, bay bổng và lí tưởng
hơn; họ không còn chịu những vướng bận đời thường nhỏ mọn. Thế giới nhân vật kẻ sĩ
của ông hiện lên với những khát khao, hoài vọng lớn lao, những bi kịch của thế giới
nhân vật ấy không phải là thứ bi kịch đời thường mà là bi kịch mang âm hưởng anh
hùng ca.
1. Kẻ sĩ trong bão táp lịch sử
Tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng thường lấy bối cảnh đất nước có chiến tranh để
làm nơi thử thách và tạo dựng tính cách nhân vật. Hai tiểu thuyết lịch sử An Tư, Sống
mãi với thủ đô là nơi nhà văn thể hiện những quan niệm về hình ảnh kẻ sĩ - trí thức
Thăng Long trong thời tao loạn. Điều đáng nói là ở trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng, hình ảnh kẻ sĩ không chỉ giới hạn hẹp là các đấng anh hào (như học thuyết của
Khổng Tử) mà có cả những bậc anh thư. Ở An Tư, hình ảnh nhân sĩ Thăng Long được
đặt trong bối cảnh đầy thử thách: cả dân tộc đối mặt với đạo quân xâm lược hùng mạnh
và bạo tàn, Thăng Long là trung tâm đầu não chính trị bị rơi vào tay giặc. Trong tác
phẩm này, Thăng Long không chỉ là biểu tượng cho dân tộc bị giày xéo mà còn là chiến
trường để người con gái hoàng tộc nhà Trần vận dụng tài trí, nhan sắc âm thầm hủy diệt
ý chí chiến đấu của binh đoàn thiện chiến Mông Cổ, là cái đích cao cả để mỗi người con
dân tộc sẵn sàng hi sinh để gìn giữ, là niềm kiêu hãnh của một đất nước hào hoa thanh
lịch đối với kẻ thù tàn bạo, man rợ từ phương Bắc. An Tư – công chúa hoàng tộc Đông
A mang vẻ đẹp thánh thiện, với tâm hồn cao cả, thủy chung, nhân hậu, khuất phục kẻ
thù bạo tàn bằng chính vẻ đẹp tâm hồn kẻ sĩ Thăng Long: thanh lịch, tài hoa, khéo léo,
kiên cường. Những nhà lãnh đạo cuộc kháng chiến như vua Thiệu Bảo và Hưng Đạo
Vương là những gương mặt kẻ sĩ tiêu biểu theo quan niệm của Nho giáo: nhân hậu,
khoan hòa với tướng sĩ dưới quyền, có trách nhiệm, dám hi sinh vì quyền lợi muôn dân,
có tấm lòng yêu nước thiết tha, đại diện cho trí tuệ Đại Việt. “Quốc gia hưng vong, thất
phu hữu trách”. Những thân vương hay thường dân triều Trần đều dốc sức cho công
cuộc giải phóng Thăng Long. Ở họ sục sôi ý chí, khát vọng chiến đấu vì dân tộc nhưng
không vì thế mà hành động nôn nóng, trái lại, mỗi vị tướng lĩnh ấy khi xuất quân đều có
sự điềm đạm tinh tế, lịch lãm ngay cả khi hiện diện trên chiến trường. Hưng Đạo
Vương- vị tướng thống lĩnh quân đội tài giỏi, đối với tì tướng bằng cả ân uy, dám đem
sinh mạng của mình ra để yên lòng quân vương, củng cố ý chí chiến đấu cho Đại Việt.
Hình tượng Trần Nhật Duật - vị tướng có tài cầm quân - một ông hoàng am hiểu nghệ
thuật được Nguyễn Huy Tưởng kỳ công khắc họa như một hình mẫu lý tưởng của kẻ sĩ
đất Thăng Long: ra trận ung dung như một nghệ sĩ trên hành trình tìm thi hứng, bài binh
bố trận như sáng tạo nghệ thuật mà khiến kẻ thù tan tác. Phẩm chất hào hoa thanh lịch
không chỉ toát lên ở kẻ sĩ trong đời thường mà còn hiện hữu trong những thời khắc
nghiệt ngã nhất: ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Đây chính là một đặc
trưng của người Đại Việt nói chung và cũng là của các nhân sĩ Thăng Long nói riêng.
Ta còn gặp lại vẻ đẹp ấy trong những trang viết về người Hà Nội trong thời khắc
lịch sử của 60 ngày đêm khói lửa trong Lũy hoavà Sống mãi với thủ đô. Nhân vật trí
thức Hà thành phải lựa chọn lẽ sống và chết, quyền lợi cá nhân với quyền lợi dân tộc.
Đó là lúc để tầng lớp sĩ phu Hà Nội thời hiện đại thể hiện hết phẩm chất của “kẻ sĩ
Thăng Long”. Từ vở kịch Những người ở lại đến tiểu thuyếtSống mãi với thủ đô và
truyện phim Lũy hoa, đều thấy nổi bật trên cái nền tăm tối của chiến tranh, của chết chóc
là những gam màu tươi sáng của niềm tin, lý tưởng mà những trí thức trẻ - những người
con của thủ đô yêu dấu mang vào cuộc chiến. Họ là Lan, Sơn, Kính (Những người ở
lại), là Oanh, Trần Văn, Loan, Quyên, Phúc, Hương… (Sống mãi với thủ đô, Lũy hoa),
là hiện thân của một thế hệ trí thức trẻ sục sôi tâm huyết với những tên tuổi tiêu biểu một
thời: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Công Mỹ, Lưu Văn Lợi… và chính
bản thân Nguyễn Huy Tưởng. Đó là những con người dám từ giã tuổi học trò đầy mộng
mơ, từ bỏ cảnh sống êm đềm, sung túc, hào hoa của những cậu ấm cô chiêu đất Hà
Thành để dấn thân vào cuộc chiến gian khổ thiếu thốn, vì lí tưởng giải phóng dân tộc.
Dấu ấn hào hoa ngàn năm chung đúc trong những thanh niên ấy để đoàn quân tự vệ
“sống mãi với thủ đô” sừng sững như một tượng đài giản dị mà kiêu dũng. Dấu ấn linh
hồn Thăng Long hào hoa đậm nét trong từng góc nhìn, cách nghĩ, lối hành động của mỗi
nhân vật. Trần Văn trước giờ nổ súng tần ngần ngắm thủ đô yêu dấu bằng con mắt người
trí thức, thấy linh hồn của Hà Nội trong rất nhiều biểu thái: hồi hộp, âu lo trước những gì
đang và sắp tới, nuối tiếc một thủ đô hào hoa thanh lịch của những ngày đã qua. Những
gì diễn ra trong tâm tưởng của Trần Văn là thước phim sống động về vẻ đẹp của con
người, văn hóa và cảnh vật nơi đây suốt ngàn năm lịch sử. Nét trữ tình ngoại đề bên lề
cuộc chiến tàn khốc ấy là vẻ đẹp rất riêng trong tâm hồn người lính thủ đô hào hoa. Tấm
lòng hào sảng của Phùng Gia Lộc - ông chủ nhà in sẵn sàng cống hiến tất cả tài sản,
thậm chí cả sinh mạng của mình cho cuộc chiến bảo vệ thủ đô, là nét đẹp trong không ít
người Hà Nội những năm đầu kháng chiến.
Kẻ sĩ Thăng Long trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng không thuần nhất, đơn
điệu trong suy nghĩ và hành động. Trước sóng gió của lịch sử, họ có những cách nghĩ,
cách thể hiện lòng yêu nước khác nhau. Ở An Tư, trước họa xâm lăng, Trần Hưng Đạo
chọn con đường quyết chiến để bảo vệ quyền độc lập dân tộc, thì vua Thiệu Bảo lại
muốn chủ hòa để bảo toàn sinh mệnh cho nhân dân. Chứng kiến cảnh nhân dân điêu linh
vì chiến tranh, là người mang tư tưởng “dân vi bản”, ông vua nhân hậu ấy thà hi sinh
quyền lợi gia tộc để giữ cho non sông khỏi tiếp diễn cảnh đầu rơi máu chảy. Hưng Đạo
Vương lại quan niệm “thương dân phải thương đến muôn đời sau”, hi sinh cái trước mắt
để giữ non sông lâu bền. Hai luồng tư tưởng yêu nước ấy thống nhất ở hai chữ “vì dân”,
cũng là những đắn đo trong tâm trí lãnh tụ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong
những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ. Vở kịchNhững người ở lại đã tạo ra sự
tranh cãi về hình tượng nhân vật bác sĩ Thành - trí thức Tây học - với quan niệm trái
chiều với những người trong hàng ngũ kháng chiến về lòng yêu nước, về trách nhiệm kẻ
sĩ: “Yêu nước không phải cứ tranh đấu bằng gươm súng. Làm cho nền khoa học rực rỡ
cũng là yêu nước. Tôi chọn con đường ấy ”
(1)
. Người đọc tìm thấy ở bác sĩ Thành, hình
ảnh của một người trí thức quốc gia, muốn ở lại Hà Nội, để làm nhịp cầu thương thảo
Pháp - Việt. Bác sĩ Thành có thể là một Hoàng Xuân Hãn, một Phan Anh hay một Vũ
Văn Hiền, qua cách phân tích, suy luận và xử trí với tình hình đất nước. Họ biết vị trí và
uy tín của họ đối với giới trí thức, trọng lực của họ đối với Pháp. Yêu nước nhưng không
theo cộng sản, họ băn khoăn, suy tính, tìm cách hành động theo con đường riêng của
mình
(2)
. Không thể quy kết việc ở lại thành của ông là phản động, không thể đánh giá
ông thiếu phẩm cách kẻ sĩ. Không đơn điệu, phiến diện trong quan niệm về kẻ sĩ Thăng
Long hay về lòng yêu nước, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã chứng tỏ tính đúng
đắn tạo nên sức hấp dẫn đối với độc giả trong và ngoài nước, qua nhiều giai đoạn lịch
sử, qua nhiều góc độ đánh giá và thẩm bình.