Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bình luận “tắt đèn, việc làng, lều chõng” của Ngô Tất Tố_4 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.01 KB, 6 trang )

Bình luận “tắt đèn, việc làng, lều
chõng” của Ngô Tất Tố

Nếu không tuân theo, khi chết làng sẽ không chôn, khi làng có ăn
uống, sẽ không ai ngồi chung với người ấy. Mà đối với người dân trong
làng, không ai ngồi chung, không ai chôn cất mình sau khi chết là một
điều sỉ nhục lớn. Lão Sửu trong câu chuyện này cũng vậy. Ông là một
nông dân hiền lành, thật thà, nhờ siêng năng làm lụng mà có được bát
cơm để ăn. Một lão trùm đến ngỏ ý muốn vay lúa. Bà Sửu từ chối vì biết
rằng loại người ấy chỉ biết vay chứ không hề trả. Lão trùm đem lòng thù
oán, tìm cách gây sự và vu cho lão Sửu chửi làng. Hắn đem câu chuyện
đó đi trình làng, và làng đã liền hùa nhau bắt vạ lão Sửu. Một bữa tiệc ăn
vạ như vậy, lão Sửu đã phải tốn hơn trăm bạc. Buổi sáng cả làng ăn
uống linh đình vui vẻ thì đến buổi chiều lão Sửu thắt cổ tự tử. Cái chết
ấy đã tố cáo tính chất vô nhân đạo của các hur tục ở nông thôn. Phần
nhiều những người bị làng ăn vạ thường không có tội vạ chi, mà thực ra
bọn lý dịch tìm cách “ bới bèo ra bọ’ để kiếm chác, chè chén hoặc để trả
thù riêng.
Qua tập phóng sự “Việc làng”, ta thấy nạn xôi thịt, rượu chè sở dĩ tồn tại
ở nông thôn lâu đời như thế không chỉ do bọn cường hào trong làng duy
trì để mưu lợi riêng mà còn vì người nông dân bao đời qua đã quen với
những hủ tục ấy, chúng đã ăn sâu vào nếp sống hàng ngày của người
nông dân ở nông thôn. Truyện “Con gà thờ” đã chỉ ra tâm lý sùng kính
các hủ tục, tôn kính các lệ làng đã tồn tại ngàn năm ấy của họ. Con gà
nuôi để thờ họ được mọi người chăm sóc, trọng vọng hơn cả một người
mẹ già bị ốm nằm liệt giường. Chăm sóc con gà ấy rất công phu, tốn
kém, khiến người ta không còn tâm trí nào để nghĩ đến chuyện khác. Bà
cụ dường như cũng thấy được thân mình không quan trọng bằng con gà
nên bà cũng không đòi hỏi sự quan tâm chăm sóc ấy. Bà không cho đứa
cháu gọi bố đến trông bà vì “ việc thờ không thể nói chơi. Cứ để thầy
mày trông nom cho gà’. Con gà bị cảm, cả làng đổ đến hỏi thăm, nhưng


không một ai hỏi han bà cụ. Ngày làm lễ, con gà cân nặng được bảy cân,
ông ta đã sung sướng mãn nguyện với công lao chăm sóc con gà thờ ấy.
Bên cạnh đó, ngoài việc bóp nặn nhân dân thì giữa nội bộ bọn chức dịch
trong làng cũng có sự tranh giành, xâu xé lẫn nhau. Việc tranh giành ăn
uống, tranh giành chỗ ngồi, tranh giành địa vị vẫn diễn ra hàng ngày và
làng nào cũng có. Trong truyện “ Một cái lăm lợn”, chỉ vì tranh nhau
ngôi chủ tế và cái lăm lợn mà đã xảy ra một cuộc hỗn chiến, nhiều người
bị thương nặng. Trong đám tranh giành ấy, chúng ta thấy có những
người mặc lễ phục, áo thụng lam, mũ nhiễu hoa bạc, ở nơi cửa Khổng,
sân Trình ấy, những người tham chiến đều là bọn “tư văn” trong làng!
Cái thành công của tập phóng sự “Việc làng” là ở chỗ tác giả đã nhin
đúng sự thật. Cuộc sống ở nông thôn đã được miêu tả một cách chân
thực. Dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố, cuộc sống làng quê sau lũy tre xanh
không có gì thơ mộng, đẹp đẽ mà là một cuộc sống đen tối, cơ cực. Đây
là một bản kết án bọn thực dân phong kiến về những thủ đoạn thâm
hiểm của chúng ở nông thôn. Chúng duy trì những hình thức bóc lột với
mọi hình thức: trắng trợn như địa tô, sưu thuế, hay nấp sau những hủ tục
của từng vùng, gieo rắc vào tư tưởng của những con người thôn quê ao
tù nước đọng, chân lấm tay bùn, sự hiểu biết cũ kỹ, hạn hẹp tâm lý tôn
sùng thần thánh, tôn kính các hủ tục hà khắc ấy như một vị thần để
chúng có thể duy trì bộ máy thống trị phục vụ cho lợi ích riêng của
chúng.
Bằng tấm lòng vị tha rất phương Đông, Ngô Tất Tố đã nhìn vào hiện
thực mà lên án nạn xôi thịt ở “cửa Khổng, sân Trình”. Phê phán tâm lý
hiếu danh vô thực của người dân làng xã, nhưng không xem đó là bản
chất của họ. Đấu tranh cho con người, Ngô Tất Tố không chỉ phê phán
mà còn cảm thông với họ, nếu có điều kiện thì đề cao họ, và trực tiếp
vạch mặt những kẻ gây ra cảnh khổ của họ.
Từ cách chọn đề tài đầy mâu thuẫn, chọn nhân vật điển hình, chọn chi
tiết để chứng minh cho kết luận của mình bằng một thái độ có trách

nhiệm, cái “tôi” trong phóng sự của ông được thể hiện một cách khá rõ
nét. Vì thế, phóng sự của Nguyễn Tất Tố thực ra là một hình thức văn
phóng sự, một cách sáng tạo tìm tòi trong công việc sử dụng phương
pháp của văn học nghệ thuật để phản ánh kịp thời những bức xúc của
thời cuộc.
Bằng sự thông hiểu sâu sắc về con người và cuộc sống nông thôn, bằng
tấm lòng cảm thông chân thành với những nỗi thống khổ của người dân
quê bị giày vò, chèn ép dưới những gánh hủ tục nặng nề, với cách nhìn
sâu sắc, chân thực, ngòi bút sắc sảo, lối kể chuyện hấp dẫn, linh hoạt,
ngôn ngữ giàu hình ảnh, Ngô Tất Tố đã dựng nên một bức tranh biếm
họa đặc sắc về những hủ tục “quái gở, mọi rợ” ở nông thôn Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám. “Việc làng” đã tố cáo thủ đoạn của bọn
cường hào, lý dịch tàn ác và đê tiện, dùng những hủ tục, luật lệ dã man
và vô lý để bóc lột, nắn bóp đến xương tủy người nông dân. Đồng thời
nhà văn cũng sẻ chia với nỗi nhọc nhằn, khốn khổ của người dân quê.
Một số truyện đã vượt khỏi khuôn khổ phóng sự về “việc làng”, đi sâu
vào phân tích giải trình cảnh thê thảm của người nông dân, tác phẩm đã
đạt tới giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Đặt trong hoàn cảnh ra đời của nó, “Việc làng” có ý nghĩa tích cực đối
lập với cách viết thi vị hóa nông thôn và cuộc sống của người dân quê
sau lũy tre xanh của các nhà văn lãng mạn. “Việc làng” là một thành
công nghệ thuật đáng kể của Ngô Tất Tố, biểu hiện tài năng xuất sắc của
ông ở thể loại phóng sự.
C. LỀU CHÕNG
1. Tóm tắt tác phẩm:
“Lều chõng”đăng tải lần đầu tiên trên báo Thời vụ từ số 112 ngày
21/3/1939 đến số 155 ngày 1/9/1939. Và được xuất bản thành sách năm
1941. “ Lều chõng” ra đời trong thời đại chiến tranh thế giới thứ 2, giữa
lúc thực dân Pháp đang dấy động lên phong trào phục cổ nhằm lôi cuốn
trí thức văn nghệ sĩ vào con đường thoát li thực tế.

“Lều chõng” là cuốn tiểu thuyết phóng sự về giáo dục và khoa cử thời
phong kiến triều Nguyễn. Đào Văn Hạc – Nhân vật chính của tiểu thuyết
là một nho sĩ trẻ, tài hoa, học giỏi, phóng túng, khác thường. Chàng đã
phá lối học nhồi sọ, lối văn sáo rỗng, giả dối. Văn chương của Vân Hạc
sắc sảo tài hoa nhưng là thứ văn bướng bỉnh, không chịu theo đúng
khuôn phép. Vân hạc không ham khoa cử. Tuy vậy. chàng vẫn phải lẽo
đẽo với đèn sách, lều chõng để đáp lại sự trông đợi của họ hàng, và đặc
biệt chiều theo mong muốn thiết tha, khao khát được làm bà nghè bà cử
của cô Ngọc _ vợ chàng. Đã mấy lần “lều chõng” thi Hương, Vân hạc và
những người bạn thân của chàng vẫn bị trượt. Người do học lực yếu (
nguyễn Khắc Mẫn); người vi phạm trường quy ( Bùi Đốc Cung); còn
Vân Hạc dù các bài thi đều xuất sắc nhưng vì tuổi còn quá trẻ nên bị
triều đình đánh hỏng. Vân Hạc đã chán thi cử nhưng vẫn phải dùi mài
đèn sách. Đến khoa thi thứ 4, Vân Hạc may mắn đỗ thủ khoa, Nguyễn
Khắc Mẫn đỗ tú tài, và Bùi Đốc Cung đỗ cử nhân. Vân Hạc cùng Đốc
Cung sửa soạn, vượt qua chặng đường dài vô cùng vất vả, nguy hiểm
vào kinh đô Huế thi Hội. Giữa đường Đốc Cung ngã bệnh phải quay về.
Còn lại một mình Vân Hạc vào cung ứng thí. Chàng đỗ Hội nguyên.
Vào thi Đình, Vân hạc làm bài thi xuấy sắc. Ai cũng hi vọng chắc chắn
chàng sẽ đỗ Đình nguyên. Không ngờ chàng bị bắt giam vì “phạm húy”
trong bài thi. Tin dữ bay về quê Vân Hạc làm người nhà chàng xáo xác.
Giữa lúc mọi người đang vật vã lo lắng thì chàng trở về. Chàng bị đánh
hỏng thi và còn bị cách cả thủ khoa. Cùng lúc mọi người hay tin nghè
Long từng đỗ đạt, được bổ làm tri phủ, cũng vừa bị đi đày làm lính nơi
biên ải. Từ tấm gương của nghè Long và đặc biệt là từ những tai họa cay
đắng trên đường khoa cử của mình, Vân hạc thấm thía thực chất vô
nghĩa, phù phiếm của con đường cử nghiệp. Chàng đoạn tuyệt với cuộc
đời “lều chõng”. Cô Ngọc vợ chàng cũng cùng tỉnh ngộ, từ bỏ mộng làm
bà thám, bà bảng, cùng chồng tương đắc, cuộc sống ấm cúng thanh
nhàn.


2. Bình Luận :
Ngày nay nhắc tới hai tiếng “lều chõng” có lẽ nhiều người sẽ lấy làm lạ,
vì những vật ấy từ biệt chúng ta mà đi đến chỗ mất tích. Nhưng đã một
thời nó làm chủ vận mệnh giang sơn cũ kĩ mà người ta vẫn khoe là “ bốn
nghìn năm văn hiến”. Những ông ngồi trong miếu đường làm rường cột
cho nước nhà, những ông ở nơi tuyền thạch, làm khuôn mẫu cho đạo
đức phong hóa đều ở trong đám “lều chõng” mà ra. “Vì đó nước Việt
Nam một thời kì rất dài đã hiện ra nhiều cảnh tượng kì quái, có thể khiến
người ta phải cười, phải khóc, phải rùng rợn hồi hộp”.
Chủ nghĩa phục cổ kêu gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ với những
giá trị tinh thần và tôn ti trật tự của giáo lí Khổng Mạnh, với những hủ
tục ở chốn hương thôn, với quan trường và đại gia đình phong kiến.

×