Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Nghiên cứu khả năng phân giải Cacbuahydro cùa một số chủng nấm sợi phân lập từ rừng ngập mặn Cần Giờ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ THANH THÚY

Chuyên ngành : Vi sinh vật
Mã ngành
: 60 42 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THANH THỦY
TS. VÕ THỊ HẠNH

Thành phố Hồ Chí Minh- 2007


Lời cảm ơn
Luận văn này được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ và góp ý chân thành
của q thầy cơ và bạn bè khoa Sinh Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thanh Thuỷ, TS.
Võ Thị Hạnh - Người đã trực tiếp định hướng và hướng dẫn giúp tơi hồn
thành luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn TS. Dương Thị Bạch Tuyết, TS. Trần Thị
Thanh cùng toàn thể các thầy cơ tổ Vi sinh- Sinh hố, khoa Sinh Trường
ĐHSP TP. Hồ Chí Minh hết lịng giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi học tập và
nghiên cứu.
Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn đến Sở Giáo dục và Đào tạo Bình
Dương, trường THPT Phước Vĩnh đã động viên tôi trong suốt thời gian


học tập.
Cuối cùng, tôi xin gởi đến gia đình, các bạn cùng khố - Những
người ln bên tơi khi thực hiện luận văn này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2007


DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Từ viết tắt
- BTT

Bào tử trần

- BT

Bào tử

-C

Cacbon

- CFU

Đơn vị hình thành khuẩn lạc.

- DO

Dầu Diesel

- Đ/C


Đối chứng

- MT

Mơi trường

-N

Nitơ

-P

Photpho

- PTN

Phịng thí nghiệm

- RNM

Rừng ngập mặn

- VSV

Vi sinh vật


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ được đánh giá là nơi có giá trị kinh tế

và độ đa dạng sinh học cao trong khu vực đông nam Á. Bao gồm hệ sinh thái
đất liền và vùng ven biển. Áp lực từ những hoạt động kinh tế, do phải đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước trong những năm gần đây, dẫn đến tình trạng
ơ nhiễm mơi trường trầm trọng. Đặc biệt là môi trường ven bờ [45].
Hệ sinh thái RNM là nơi lưu trữ nguồn gen quý hiếm. Do đặc trưng của
vùng đất không ổn định, độ ẩm cao, sự dao động của thủy triều ra vào thường
xuyên, nên vi sinh vật ở đây có nguồn gen dễ biến đổi để thích nghi với môi
trường. Nhiều tài liệu đã nghiên cứu về hệ động-thực vật ở hệ sinh thái này.
Nhưng ít tài liệu nghiên cứu về VSV phân hủy-một mắt xích quan trọng trong
chu trình sinh thái, trong đó có nấm sợi phân giải cacbuahydro.
Ngày nay cùng với sự gia nhập vào WTO, sự phát triển và hội nhập của
nền kinh tế đất nước với thế giới. Các ngành đặc biệt là ngành khai thác, chế
biến dầu khí, vận tải biển làm nguy cơ ô nhiễm MT do sự cố tràn dầu gây ra
càng lớn. Ngành công nghiệp dầu mỏ đã và đang đem lại nguồn lợi lớn cho
các quốc gia có tài ngun này. Tuy nhiên, nó cũng đưa vào mơi trường một
lượng cacbuahydro khó phân hủy. Đặc biệt là mơi trường biển và khu vực gần
bờ ở mức độ khác nhau. Do rửa tàu chở dầu, khai thác, vận chuyển gây sự cố
tràn dầu... làm nguy hại đến thực vật, động vật và cả con người. Thành phần
dầu chủ yếu làm ô nhiễm môi trường là cacbuahydro no, cacbuahydro thơm
đơn nhân, đa nhân. Nhiều cơng trình nghiên cứu nhằm xử lí ơ nhiễm nguồn
nước do dầu với các biện pháp như: gạn vớt cơ học, lí học, hố học.. nhìn
chung khơng mang lại hiệu quả cao và an tồn cho môi trường. Ngay cả thiết
bị tách dầu tốt nhất cũng cịn khoảng một vài mg/lit. Vì vậy, sau khi xử lí


bằng phương pháp trên vẫn còn 1 lượng dầu nhỏ trên mặt biển. Hơn nữa, khi
lượng dầu tràn bị sóng đánh vào bờ, nhanh chóng thấm vào đất liền dẫn đến
suy thoái vùng sinh thái nơi này [42], [47].
Sử dụng VSV phân giải dầu là biện pháp hiện nay đang được thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng quan tâm để loại bỏ phần dầu cịn sót lại ảnh

hưởng đến vùng ven bờ [43]. Biện pháp này với tính ưu việt của nó là xử lí
triệt để lượng dầu mà không gây ô nhiễm môi trường, ngay ở cả mơi trường
nước, cát, đá. Đồng thời, trong q trình phân giải dầu các VSV này tạo sinh
khối, cung cấp dinh dưỡng cho chu trình trong hệ sinh thái. Nhiều cơng trình
nghiên cứu về VSV phân giải dầu ở các khu vực có nhiễm dầu khác nhau
[1],[17],[20],[21],[23],[24],[26], nhưng về VSV có khả năng phân giải dầu
của hệ VSV ở RNM còn ít đề tài quan tâm, đặc biệt là nấm sợi. Vì vậy, việc
tìm kiếm các chủng nấm sợi thích hợp trong khu hệ VSV đa dạng tự nhiên
RNM, tiềm năng ứng dụng của chúng trong công nghệ sinh học làm sạch môi
trường là cần thiết. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu khả
năng phân huỷ các hợp chất cacbuahydro của một số chủng nấm sợi
phân lập từ rừng ngập mặn Cần Giờ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu khả năng phân giải cacbuahydro của một số chủng nấm sợi
phân lập từ RNM Cần Giờ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các chủng nấm sợi được phân lập từ RNM Cần Giờ có khả năng phân
giải hợp chất cacbuahydro.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đất, lá cây, thân cây là nguôn phân lập nấm sợi ở RNM thuộc bảy xã:
An Thới Đơng, Bình khánh, Cần Thạnh, Lý Nhơn, Long Hồ, Tam Thơn
Hiệp, Thạnh An của huyện Cần Giờ.


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân lập nấm sợi từ đất, lá cây, thân cây ở một số khu vực RNM
Cần Giờ.
- Tuyển chọn một số chủng nấm sợi có khả năng phân giải
cacbuahydro cao.
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học, phân loại các chủng được tuyển

chọn. Định danh đến loài.
- Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và khả
năng phân giải dầu của chủng nấm sợi tuyển chọn.
- Đề xuất hướng ứng dụng
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp VSV.
- Phương pháp Sinh học.
- Phương pháp tốn học.
7. Địa điểm nghiên cứu
Phịng thí nghiệm Vi sinh Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh và PTN
viện Sinh học Nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh.
8. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 04 năm 2006 đến tháng 08 năm 2007.


Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm khu bảo tồn sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ
Rừng ngập mặn (Mangrove) là thuật ngữ dùng để chỉ các loài thực vật
hoặc một khu rừng có nhiều lồi sống ở vùng giao thoa giữa đất liền và biển.
Chúng có thể mọc tốt ở những vùng khí hậu nóng-ẩm. Theo đánh giá của GS.
Phan Nguyên Hồng (1995), diện tích RNM trên thế giới khoảng 16.670.000
ha. Trong đó, khu vực châu Á có diện tích lớn nhất. Theo thống kê ban đầu
của FAO, diện tích RNM ở Việt Nam khoảng 320.000 ha chiếm một phần khá
lớn so với các nước trong khu vực [3].
Cần Giờ là khu dự trữ sinh quyển RNM thế giới đầu tiên ở Việt Nam
được UNESCO công nhận vào 21/01/2000. Nằm ở phía đơng nam Thành phố
Hồ Chí Minh ở vĩ tuyến 10o22’14” đến 10o40’09”, kinh tuyến 106o46’12” đến
107o00’59”. Diện tích khoảng 75.750 ha với diện tích rừng là 38.664 ha trên
nền đất phù sa chủ yếu do sông bồi đắp[3],[42].
RNM Cần Giờ phát triển trên một đầm mặn mới, do phù sa sơng Sài Gịn

và Đồng Nai mang đến, lắng đọng thành nền đất. Theo thuyết khô hạn sinh lý
học của Schimper thì đây là yếu tố chính hình thành RNM. Đất RNM được
tạo bởi quá trình trầm tích sét, phèn hố và nhiễm mặn: Lớp đất sâu chưa ổn
định, đất chứa nhiều muối. Bốn loại đất chính: Đất mặn, đất mặn- phèn ít, đất
mặn-phèn nhiều, đất cát mịn có pha một ít bùn ven biển; nhưng diện tích đất
mặn chiếm ưu thế. Đất RNM có nồng độ muối cao, vào mùa nắng 4‰ - 18‰,
còn mùa mưa độ mặn cao hơn từ 24‰- 30‰, độ pH trung bình khoảng 6.87.2, nhiệt độ trung bình 26oC – 29oC, độ ẩm 74% - 83%. Cũng giống như các
RNM khác, đất RNM Cần Giờ có độ ẩm cao. Nhờ sự vào ra của thuỷ triều và
được che phủ bởi các tán lá cây ngập mặn nên đất ở đây hiếm khi trải qua thời
kì khơ hạn kéo dài. Khí hậu RNM Cần Giờ mang đặc tính nóng ẩm, chịu chi


phối của qui luật gió mùa cận xích đạo với 2 mùa mưa nắng rõ rệt. Có chế độ
bán nhật triều không đều, hai lần nước lớn và hai lần nước ròng trong ngày
[3], [44], [45].
Hệ sinh thái ở RNM cũng mang các nét đặc trưng của các hệ sinh thái
khác: Dòng năng lượng, chuỗi thức ăn, đặc trưng phân hố theo khơng gian
và thời gian, vịng tuần hồn vật chất. Trong hệ sinh thái này, thực vật chủ
yếu là các loại như: Mắm, Sú, Bần, Đước, Trang, Dừa nước, Đưng, Dà … có
157 lồi thực vật thuộc 76 họ. Sinh vật tiêu thụ gồm: 63 loài phiêu sinh vật,
130 loài tảo thuộc 3 ngành: Tảo Khuê, Tảo Giáp, Tảo Lam. 100 lồi động vật
đáy như: Tơm, cua, sị, ốc. Ngồi ra, cịn có 120 lồi cá trong đó có các lồi
có giá trị kinh tế cao như cá Ngát, cá Dứa, cá Chếm. 31 lồi bị sát như: Cá
Sấu Hoa cà, trăn, rắn, kì đà nước. 19 lồi hữu nhũ như: khỉ, heo rừng, rái cá,
mèo rừng và 145 lồi chim như: Ác là, Bồ Nơng chân xám [44]. Vi sinh vật
đặc biệt là vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn là các tác nhân quan trọng trong quá
trình phân giải các chất hữu cơ, cung cấp thức ăn cho các loài sinh vật khác
trong hệ sinh thái RNM. Các VSV này có thể sống hoại sinh trong đất, lá
mục, thân mục, một số sống kí sinh hoặc cộng sinh trong cây hay côn trùng.
Phức hợp quần xã VSV phân giải protein, xenlulose, cacbuahydro, kitin…

cung cấp mạnh vật chất và năng lượng cho chu trình tuần hồn trong suốt cả
hai pha của chu kì thủy triều. Hệ sinh thái RNM nằm ở lưu vực ven bờ có
nhiều thành phần cacbon phức tạp do thuỷ triều đưa vào. VSV đóng vai trò
quan trọng trong việc phân hủy các hợp chất độc có tính bền vững cao, trong
đó có dầu. Với dầu, VSV khơng chỉ có khả năng phân hủy cacbuahydro mạch
thẳng, cacbuahydro thơm đơn nhân hay đa nhân mà cịn có khả năng phân
hủy các hợp chất hữu cơ có chứa lưu huỳnh. Vì vậy, hệ VSV ở đây góp phần
rất lớn trong quá trình làm sạch các hợp chất này. Đặc biệt là nấm sợi phân
giải các chất hữu cơ trong thảm thực vật, động vật ở RNM. Góp phần làm


giảm sự ơ nhiễm MT trong đó có ơ nhiễm dầu. Khu hệ VSV ở RNM có khả
năng phân giải các chất hữu cơ cho điều kiện khơng có oxi, trong suốt mùa lũ
lụt và điều kiện có oxi trong suốt kì phơi ải [37].
Đây là hệ sinh thái có năng suất sinh học cao nhất trong các hệ sinh thái,
nơi hội tụ sự đa dạng của cả sinh vật biển và đất liền. Vì vậy, nó chính là
phịng thí nghiệm sống, để nghiên cứu về khả năng chịu đựng và phục hồi của
các tổ hợp gen, khả năng phát tán và định cư của các dạng sống. Đặc biệt là
năng suất sinh sản của các quần thể nấm sợi phân giải cacbuahydro sau khi
môi trường bị đảo lộn bởi con người do nhiễm dầu [44],[47].
1.2. Tổng quan về nấm sợi
1.2.1. Đặc điểm sinh học
1.2.1.1 . Điểm hình thái, cấu trúc
Nấm sợi thuộc nhóm vi nấm (filamentous fungi), có kích thước hiển
vi. Chúng là một hệ sợi phức tạp, đa bào có màu sắc phong phú (hình 1.1a).
Nấm sợi có cấu tạo cơ quan sinh sản với nhiều hình thức sinh sản khác nhau.
Đây là một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để phân loại chúng [7],[8].
Cơ thể nấm là một tản (thallus). Tản nấm được cấu tạo từ hệ sợi nấm
hay thể khuẩn ty (mycelium) do các sợi nấm hay khuẩn ty (hypha) phân nhánh
tập hợp lại. Những sợi này sinh trưởng ở đỉnh [7],[11],[12]. Khuẩn lạc của

nấm sợi thường trịn, cũng có nhiều màu sắc như khuẩn lạc của xạ khuẩn,
nhưng khác với xạ khuẩn ở chỗ nó phát triển nhanh hơn (hình 1.1b). Bề mặt
len xốp hoặc mịn. Thường thì mỗi khuẩn lạc sau 3 ngày phát triển có kích
thước 5- 10 μm, trong khi đó khuẩn lạc của xạ khuẩn chỉ 0.5- 2 μm.


vách

a)

sợi có vách ngăn

Sợi khơng vách ngăn

Hình 1.1: a) Các loại sợi nấm

b)
b) Hình thái khuẩn lạc

[Nguồn: sinhhocviet.com.vn]
 Khuẩn ty: Là những sợi nấm phân nhánh, phát sinh từ bào tử mà ra.
Sợi nấm có thể có hoặc khơng có vách ngăn ngang (septum), các sợi nấm
khơng có vách ngăn ngang gọi là sợi cộng bào (coenocystic). Một số sợi nấm
có thể tiết sắc tố vào mơi trường hoặc tiết chất hữu cơ kết tinh trên bề mặt sợi
nấm. Đa số sợi nấm phân nhánh nhiều lần nhưng cũng có sợi nấm khơng phân
nhánh. Nấm sợi khơng có diệp lục do đó khơng có khả năng tiến hành quang
hợp, chúng sống nhờ khả năng hấp thụ các chất hữu cơ có sẵn qua bề mặt của
khuẩn ty.
Có 2 loại khuẩn ty:
- Khuẩn ty khí sinh phát triển trên bề mặt cơ chất, từ đây sẽ có một số

sợi phát triển thành các cơ quan sinh sản đặc biệt mang bào tử.
- Khuẩn ty cơ chất phát triển sâu vào cơ chất, giúp nấm sợi bám chặt vào
cơ chất và hấp thụ các loại thức ăn chứa trong đó.
 Bào tử: Là cơ quan sinh sản chủ yếu của nấm sợi. Khi nấm sợi
trưởng thành sẽ xuất hiện khuẩn ty khí sinh, từ khuẩn ty khí sinh sẽ sinh sản
ra bào tử.
Nấm là VSV có nhân chuẩn thành tế bào nấm cấu tạo chủ yếu là kitinglucan, kitozan, rất ít nấm có thành tế bào là xenluloza [7],[12],[16].


1.2.1.2 . Đặc điểm sinh lí, sinh hố
Phương thức dinh dưỡng của nấm là hấp thụ qua màng nên không có
cơ quan tiêu hố. Nấm sợi khơng có diệp lục nên khơng có khả năng quang
hợp. Chúng thuộc loại dinh dưỡng hoá năng hữu cơ, sử dụng được nhiều
nguồn cacbon khác nhau. Phần lớn nấm sợi là các cơ thể hoại sinh, một số kí
sinh gây bệnh cho người và động vật.
Các loại nấm sợi thường có nhu cầu khác nhau về nguồn nitơ,
photpho. Chúng có thể sử dụng nguồn nitơ hữu cơ lẫn vơ cơ. Ngồi ra, sự
sinh trưởng của nấm sợi ở RNM liên quan đến các nguyên tố vi lượng, các
vitamin, độ mặn trong môi trường nuôi cấy. Tuỳ thuộc vào chủng nấm ưa
mặn cực đoan hay ưa mặn tuỳ ý, mà nồng độ muối thích hợp dao động từ
0%- 3%.
Ảnh hưởng đến sinh trưởng của nấm sợi cịn có yếu tố độ ẩm, nhiệt độ
mơi trường. Nấm sợi tăng trưởng tối ưu ở nhiệt độ 25-30o. Đa số nấm sợi sinh
trưởng tốt ở pH=7. Riêng loài Trichoderma thích hợp ở mơi trường axit.
1.2.1.3 . Đặc điểm sinh sản
Nấm sợi là một trong những VSV có nhiều kiểu sinh sản khác nhau,
nhưng chủ yếu bằng bào tử, bào tử có thể hình thành theo kiểu vơ tính hoặc
hữu tính.
 Sinh sản sinh dưỡng:
 Phát triển bằng khuẩn ty: Những đoạn nấm riêng rẽ có thể phát

triển thành khuẩn ty. Trong lịng khuẩn ty này có thể thấy xuất hiện một hay
nhiều tế bào hình cầu, có màng dày bao bọc, bên trong có nhiều chất dự trữ.
Khi gặp điều kiện thuận lợi, các tế bào này lại tiếp tục phát triển thành một sợi
nấm mới.
 Sinh sản bằng hạch nấm: Một số nấm lại có khả năng tạo thành
hạch nấm. Đây là một khối có hình trịn không đều, màu tối. Bên trong là một


tổ chức sợi xốp và thường có màu trắng. Hạch nấm có thể giúp cho cơ thể
nấm vượt qua những điều kiện khó khăn. Khi gặp điều kiện thuận lợi, chúng
lại phát triển bình thường.
 Sinh sản vơ tính bằng bào tử:
Các bào tử vơ tính khác nhau về hình dạng và cách phát sinh, căn
cứ vào đặc điểm phát sinh chia làm 3 loại bào tử vơ tính:
 Bào tử động (zoospores): Gặp ở các lớp ngành phụ Mastigomycotina, bào tử vơ tính có roi, phát sinh trong nang bào tử động. Nang có thể
do tồn bộ sợi nấm đơn giản biến đổi thành. Nang khi chín sẽ mở nắp cho các
BT chui ra. Hình 1.2a
 Bào tử kín (gymnospores): Gặp ở ngành phụ Zygomycotyna.
Các BT kín khơng có roi, tạo ra trong nang kín. Khi nang chín sẽ nứt ra và
phóng thích BT ra ngồi. Hình 1.2b
 Bào tử trần (conidi, angiospores): Là loại BT phát sinh bằng
con đường ngoại sinh hay nội sinh, nhưng đều được giải phóng ra phía ngồi
của tế bào sinh bào tử. Bào tử trần (BTT) có nhiều loại: Loại khơng có vách
ngăn ngang (Aspergillus spp, Penicillium spp…), loại có một vách ngăn
ngang (Trichothecium spp, Arthrobotrytis spp…), có từ hai vách ngăn ngang
trở lên (Fusarium spp, Helmilthosporium spp…), có cả vách ngăn ngang lẫn
vách ngăn dọc xen kẽ hoặc nối tiếp nhau (Alternaria spp…). Hình 1.2c

a


b

Hình 1.2: Các dạng BT vơ tính [Nguồn:sinhhocviet.com.vn]
(a: BT động; b: BT kín; c: BT trần)

c


 Sinh sản hữu tính
Nấm sợi cũng có hình thức sinh sản hữu tính giống các sinh vật
bậc cao, đó là quá trình chất giao (plasmogamy) nhân giao (caryogamy) và
quá trình giảm phân (meiosis).
* Lớp nấm roi thực hiện bằng cách đẳng giao, dị giao và noãn giao.
 Đẳng giao: Sợi khuẩn ty sinh ra các túi giao tử trong có chứa
giao tử. Các giao tử sau khi ra khỏi túi kết hợp với nhau tạo thành hợp tử.
Hợp tử phân chia giảm nhiễm thành các BT. Mỗi BT khi được giải phóng ra
từ hợp tử có thể phát sinh thành sợi nấm. Các giao tử và túi giao tử hoàn toàn
giống nhau giữa cơ thể “đực” và cơ thể “cái”.
 Dị giao: Là trường hợp các giao tử và túi giao tử ở cơ thể
“đực” và cơ thể “cái” khác nhau.
* Lớp nấm tiếp hợp: Sinh sản bằng bào tử tiếp hợp (zygospore), hình
1.3c. Từ hai khuẩn ty khác nhau gọi là sợi âm và sợi dương mọc ra hai mấu
lồi gọi là nguyên phối nang. Các nguyên phối nang mọc hướng vào nhau, mỗi
nguyên phối nang sẽ xuất hiện một vách ngăn phân tách hai phần đầu của hai
nguyên phối nang thành hai tế bào đa nhân (đơn bội). Hai tế bào đa nhân tiếp
hợp với nhau tạo thành hợp tử đa nhân lưỡng bội, có màng dày bao bọc gọi là
bào tử tiếp hợp. Ngoài ra, nấm tiếp hợp cịn có dạng sinh sản chỉ phối sinh
chất khơng phối nhân, do đó tạo thành hợp tử có nhiều nhân nhưng đơn bội.
* Nấm đảm: Sinh sản bằng bào tử đảm (basidiospore)- hình 1.3b, là BT
thực hữu tính được tạo thành bên ngoài tế bào sinh bào BT đặc biệt gọi là

đảm (basidium). Khi chín phát tán bằng cách rụng khỏi đảm.
* Nấm túi: Sinh sản bằng bào tử túi (ascospore)- hình 1.3a, các bào tử
này được hình thành trong túi bào tử. Bào tử chỉ phát tán khi túi già và mở ở
đỉnh hoặc khi vỏ túi bị phân huỷ.


a)

b)

c)

Hình 1.3: Các dạng BT sinh sản hữu tính [Nguồn: sinhhocviet.com]
a) BT túi b) BT đảm c) BT tiếp hợp

Nấm khơng có chu trình phát triển chung, có các chu trình phát triển
tổng quát sau:
+ Chu trình lưỡng bội: Giai đoạn đơn bội tương đương với giao tử thể.

Giai đoạn bào tử thể chiếm ưu thế rõ rệt so với giai đoạn giao tử thể.
+ Chu trình hai thế hệ: Giai đoạn giao tử thể xen kẽ với giai đoạn bào
tử thể, hai giai đoạn này tương đương nhau.
+ Chu Trình đơn bội: Sự giảm phân nối tiếp ngay sau khi phối nhân để
tạo thành giao tử thể đơn bội. Giai đoạn lưỡng bội chỉ tồn tại trong một trạng
thái và thời gian ngắn.
+ Chu trình đơn bội song nhân: Đây có thể là biến dạng của chu trình
đơn bội, giai đoạn đơn bội chiếm ưu thế hơn so với giai đoạn song nhân.
+ Chu trình vơ tính: Đây là đặc trưng của nhóm nấm bất tồn, hồn
tồn khơng có giai đoạn sinh sản hữu tính [10],[11],[12],[13]
1.2.2. Phân loại nấm

Nhiều tác giả đã đưa ra những hệ thống phân loại khác nhau. Mỗi hệ
thống đều có ưu, nhược điểm nhất định. Nhưng đều theo hai hệ thống phân
loại chung.
Hệ thống phân loại hình thái: dựa vào đặc điểm hình thái, ni cấy, một
số đặc điểm sinh lý sinh hố và phương thức sinh sản.
Hệ thống phân loại dựa trên các phương pháp sinh hoá và sinh học phân
tử. Nhưng hệ thống phân loại này được sử dụng rất ít. Các khoá phân loại phổ


biến hiện nay thường dùng là: Khố phân loại hình thái của Saccardo (1880,
1886), Barnett (1960), Ainsworth (1973), Bùi Xuân Đồng (2004), Đặng Vũ
Hồng Miên, Robert A.Samson, Ellen S.Hoekstra and Jens C. Frisvad (2004).
Trong luận văn này, chúng tôi dựa vào đặc điểm mơ tả trong các khố phân
loại: Bùi Xuân Đồng , Đặng Vũ Hồng Miên, đây là khoá phân loại được rất
nhiều nhà nấm học Việt Nam thường dùng.
VSV khơng phải là một nhóm phân loại trong sinh giới. Chúng bao
gồm tất cả các sinh vật có kích thước nhỏ. Vì vậy, khi quan sát phải dùng kính
hiển vi. Ngoài ra, muốn nghiên cứu phải sử dụng phương pháp nuôi cấy vô
khuẩn [26],[36],[37],[38].
Nấm sợi là loại nấm hiển vi thuộc ngành nấm (Fungi). Chúng thuộc các
nhóm phân loại như ghi trong bảng 1.1. Đa số thuộc các ngành phụ Zygomycotina, Deuteromycotina và Ascomycotina. Ở đây, chúng tôi chỉ khái qt
những nhóm phân loại chính của nấm sợi.
Nấm sợi có nhân tế bào hồn chỉnh, khơng có diệp lục, thành tế bào có
kitin, có chất dự trữ là glycogen, dinh dưỡng kiểu hấp thu, dạng cộng bào đặc
biệt, sinh sản bằng bào tử vơ tính hoặc hữu tính. Gồm ngành nấm nhày
(Myxomycota) và ngành nấm thực (Mycota).
Bảng 1.1: Khái qt một số nhóm phân loại chính [8]
Nhóm phân loại

Đặc điểm chung


Ngành nấm nhày (Myxomycota)

Giai đoạn dinh dưỡng là thể nguyên
hình hoặc thể nguyên hình giả, dinh
dưỡng bằng hấp thụ hoặc thực bào.

Ngành nấm thực (Eumycota)

Giai đoạn dinh dưỡng là dạng sợi
điển hình, dinh dưỡng bằng cách
hấp thụ qua màng.


Nhóm phân loại

Đặc điểm chung

Ngành phụ nấm roi
(Mastigomycotina)
Lớp: Chytridiomyces
Lớp: Hyphochytridiomyces
Lớp: Oomycetes

Giai đoạn dinh dưỡng là dạng sợi
hoặc đơn bào, dinh dưỡng hấp thụ.
Sợi nấm không ngăn vách, sinh sản
bằng động bào tử 1-2 roi. Sinh sản
hữu tính là đẳng giao, dị giao, noãn
giao. Hầu hết ở nước.


Ngành phụ nấm tiếp hợp (Zygomy- Sợi nấm khơng ngăn vách. Sinh sản
cetina)
vơ tính bằng bào tử kín (một ít lồi
Lớp: Zygomycetes
có BTT). Sinh sản hữu tính bằng
Lớp: Tricomycetes
bào tử tiếp hợp.
Ngành phụ nấm túi (Ascomycetina)
Lớp: Hemiascomycetes
Lớp: Loculoascomycetes
Lớp: Plectomyces
Lớp: Laboulbeniomyces
Lớp: Pyrenomyces
Lớp: Discomycetes

Sợi nấm ngăn vách. Sinh sản vơ tính
bằng bào tử trần, sinh sản hữu tính
bằng bào tử túi.

Ngành phụ nấm đảm (Basidiomy- Sợi nấm ngăn vách. Sinh sản vơ
cotina)
tính bằng bào tử trần, sinh sản hữu
Lớp: Teluomycetes
tính bằng bào tử đảm.
Lớp: Hymenomycetes
Lớp: Gasteromycetes
Ngành
phụ
nấm

(Deuteromy-cotina)
Lớp: Blastomyces
Lớp: Hyphomycetes
Lớp: Coelomycetes

bất

tồn

Sợi nấm ngăn vách. Sinh sản vơ
tính bằng bào tử trần, khơng có hoặc
chưa tìm thấy hình thức sinh sản
hữu tính.


1.2.3 . Khả năng sinh các chất có hoạt tính sinh học
1. 2.3.1. Khả năng sinh enzym
Nấm sợi là một trong nhóm VSV có khả năng sinh nhiều loại enzym
có hoạt tính sinh học cao. Vì vậy, giúp chúng có thể sống được trong môi
trường nghèo chất dinh dưỡng, cũng như có thành phần hidrocacbon khó hấp
thu.
Enzym là những phân tử protein, được sản xuất tự nhiên từ sinh vật,
hết sức cần thiết cho sự sống. Chúng là những chất xúc tác thúc đẩy phản ứng
sinh hoá học ở cả trong và ngồi cơ thể sống, nhưng khơng làm thay đổi tính
chất của chúng. Vì vậy việc nghiên cứu hoạt tính enzym có thể tiến hành
trong điều kiện phịng thí nghiệm. Các loại enzym trên thị trường hiện nay
được trích từ vi khuẩn hoặc nấm như: Bacillus, Aspergillus, Tricoderma.
Ngày nay, người ta đã biết được khoảng 3500 loại enzym. Trong đó,
phần lớn là ở thực vật và VSV. Những enzym tham gia q trình dị hố ngồi
tế bào được gọi là enzym ngoại bào (exoenzym). Những enzym tham gia quá

trình dị hoá trong tế bào được gọi là enzym nội bào (endoenzym). Enzym nội
bào còn bao gồm các loại enzym tham gia tổng hợp, enzym tham gia q trình
oxi hố và các enzym tham gia q trình chuyển hố vật chất có trong tế bào.
Phần lớn, các enzym ngoại bào thuộc enzym cảm ứng. Đó là các enzym
thường được tạo thành do trong mơi trường có chất cảm ứng (cơ chất đặc
hiệu) tác dụng đặc hiệu lên tế bào. Enzym này thường tham gia phân hủy cơ
chất.
Nấm sợi là nhóm VSV có tiềm năng lớn nhất sinh các loại enzym
thủy phân ngoại bào như: Ligno-xenlulaza, proteaza, amilaza, kitinaza,
pectinaza, oxigenaza…Trong tự nhiên nhờ hệ enzym ngoại bào mạnh, chúng
có mặt ở khắp mọi nơi. Đồng thời, chúng có khả năng thích nghi với mọi
hồn cảnh mơi trường. Chính nhờ khả năng tuyệt vời này mà VSV có thể tồn


tại trong những môi trường khắc nghiệt nhất (chẳng hạn khi mơi trường bị
nhiễm dầu). Trong q trình đấu tranh sinh tồn đó, VSV đã tiến hố dần và
trong các lồi có những cá thể VSV có thể tổng hợp được những enzym có
hoạt tính cao.
- Xenlulaza: Xúc tác phân giải hợp chất ligno-xenluloza thành glucoza.
Ligno-xenluloza là thành phần chủ yếu của tế bào thực vật, bao gồm:
Xenluloza chiếm (30-40%), hemi-xenluloza và lignin (15-30%). Trong RNM,
nguồn dinh dưỡng và năng lượng chủ yếu từ sự phân giải xác thực vật. Nên
vai trò của enzym xenlulaza rất lớn. Nhiều loại nấm sợi có hoạt tính lignoxenlulaza như: Penicillium, Aspergillus, Trichoderma.`
- Amilaza: Xúc tác quá trình thuỷ phân tinh bột, glucogen và các
polyxacarit tương tự thành đường. Nấm sợi là nhóm có nhiều chủng có khả
năng sinh enzym này. Do đó, chúng không thể thiếu trong những hệ sinh thái
RNM-nơi chiếm ưu thế là quần thể thực vật. Các loài nấm sợi có hoạt tính
phân giải cơ chất này là: Aspergillus, Penicillum..
- Proteaza:Xúc tác quá trình thủy phân protein thành các chuỗi
polypep-tit ngắn, peptit hay axit amin. Nấm sợi là một trong những loại VSV

có khả năng phân giải proetin mạnh, điển hình như các lồi thuộc chi
Aspergillus, Trichoderma, Penicillium…
- Kitinaza: Xúc tác phân giải các biopolyme tạo ra các N-acetylglucozamin. Nấm sợi có hệ kitinaza mạnh giúp chúng tiêu diệt các lồi nấm
gây bệnh và cơn trùng có thành kitin
- Oxygenaza: Oxi hoá các cacbuahydro trong dầu tạo ra các axit
cacboxylic. Hệ enzym này đã giúp nấm sợi có thể tồn tại và phát triển ngay
trên cả môi trường nhiễm cacbuahydro khó phân huỷ như dầu mỏ. Thêm vào
đó sản phẩm phân giải của enzym này là cacbon dioxit, nước và sinh khối tế


bào - nguồn thức ăn dễ đồng hoá cho sinh vật ở những vùng dễ nhiễm dầu
như vùng RNM [41],[44],[50].
1.2.3.2. Khả năng sinh kháng sinh
Nấm sợi là một trong những VSV có khả năng sinh kháng sinh được
phát hiện đầu tiên nên có ý nghĩa quan trọng về mặt lịch sử lẫn y học. Nhiều
CKS đã được phát hiện như penicillin, cephalosporin, grisoefulvin, glytoxin.
Từ các chủng nấm sợi Penicillium notatum, Penicillium chrysogesrum,
Cephalosporium sp, Trichoderma viride…đã có hàng ngàn kháng sinh được
tìm thấy sử dụng trong y học, nơng nghiệp. Thực tế trong sản xuất, nhiều
nước đưa vào đất các loài VSV có khả năng đối kháng với VSV gây bệnh mà
khơng hại cây trồng. Đặc biệt chúng có khả năng ức chế các VSV gây bệnh đã
nhờn thuốc. Trong những năm gần đây, người ta phát hiện thấy nấm ở RNM
có tiềm năng sinh các kháng sinh mới. Trong mơi trường sống đặc biệt này
các VSV tạo CKS mới chống hiện tượng lờn thuốc.
1.3 . Cacbuahydro và khả năng phân giải dầu của nấm sợi
1.3.1. Sơ lược về cacbuahydro
Cacbuahydro là hợp chất của các nguyên tố hydrogen và cacbon. Các
cacbuahydro ở dạng khí (methan, ethylen và acethylen) trong điều kiện nhiệt
độ và áp suất bình thường. Đa số các cacbuahydro cịn lại ở dạng lỏng hoặc
rắn. Chúng ít tan trong nước, tan nhiều trong dầu và các dung môi hữu cơ

(Walker et al., 1996). Chúng là một trong những nguồn gây ô nhiễm MT của
nền văn minh hiện đại.
Dầu mỏ là hỗn hợp lỏng sánh của các chất hữu cơ tích tụ thành mỏ
trong vỏ trái đất, giữa các lớp đá. Thường có mùi đặc trưng, màu sẫm đen và
khơng tan trong nước. Dầu thô là dầu mỏ được khai thác lên và đã qua xử lí
sơ bộ.
Hợp phần chính của dầu mỏ là các cacbuahydro lỏng tan vào nhau ở


dạng dung dịch. Phần định tính và định lượng của dầu mỏ khác nhau tuỳ từng
mỏ, tầng. Thành phần cơ bản của dầu mỏ gồm:
 Cacbuahydro thẳng 30%-35%
 Cacbuahydro mạch vịng 25%-75%
 Cacbuahydro thơm 10%-20%
Ngồi ra, cịn có hợp chất chứa oxi (acid, xeton, rượu…). Hợp chất nitơ
(furol, indol, carbazol). Hợp chất chứa lưu huỳnh (hắc ín, nhựa đường, bitum). Lưu huỳnh thuộc hợp chất: mecaptan, sunphua và sunphua vòng.
Thành phần hoá học của dầu mỏ được chia tách bằng phương pháp
chưng cất phân đoạn. Các sản phẩm thu được từ việc lọc dầu có thể kể đến
xăng, dầu hoả, dầu diesel, paraphin, dầu bôi trơn nhựa đường…
Các chuỗi cacbuahydro từ C5-C7 là các sản phẩm dầu mỏ nhẹ, dễ bay
hơi. Chúng được sử dụng làm dung môi, chất làm sạch bề mặt và các sản
phẩm làm khô nhanh khác. Nhưng chúng lại rất độc đối với VSV. Các chuỗi
cacbuahydro từ C6-C12 bị trộn lẫn vào nhau được sử dụng trong đời sống với
tên gọi là xăng. Dầu hoả được tạo thành từ chuỗi cacbuahydro từ C10-C15. Dầu
Diesel (DO) gồm các cacbuahydro từ C15–C20. DO nặng có thể có được tạo từ
cả những C20+ thậm chí đến C30. Các sản phẩm này ở nhiệt độ phịng đều là
chất lỏng.
Dầu thơ của Việt Nam thuộc dầu trung bình nặng, nhiều parafin (20%30%) và ít lưu huỳnh. Khoảng nhiệt độ sơi của các sản phẩm dầu mỏ trong
chưng cất phân đoạn ở điều kiện áp suất khí quyển tính theo độ C là:
 Xăng, ête: 40-70oC.

 Xăng nhẹ: 60-100oC.
 Dầu hoả: 120-300oC.
 Dầu Diesel: 250-350oC.
 Dầu bôi trơn: Trên 300oC.


Tóm lại, người ta coi dầu mỏ là hỗn hợp 3 loại chất của cacbuahydro:
Hợp chất mạch thẳng-alphatic, hợp chất mạch vòng thơm-aromatic và hợp
chất nhựa đường-asphatic là những hợp chất độc đối với sinh vật
(Atlas, 1995) [5].
1.3.2. Tình hình ô nhiễm dầu
Dầu là tài nguyên thiên nhiên có giới hạn và khơng có khả năng phục
hồi, là năng lượng cho sản xuất lớn nhất trên thế giới hiện nay. Số lượng mỏ
dầu được phát hiện và đưa vào khai thác hàm lượng dầu trên thế giới ngày
càng tăng. Kéo theo sự rạn nứt, rò rỉ ở các dàn khoan đổ ra bên ngoài tới 1%
số lượng dầu khai thác (hình 1.4). Thêm vào đó, sự thấm tự nhiên ở các kho
chứa hàng, vận chuyển, rửa tàu bừa bãi. Đặc biệt, các tai nạn tràn dầu gây ô
nhiễm dầu nguy hại đến con người và hệ sinh thái biển. Trong đó, ảnh hưởng
nặng nề nhất là các hệ sinh thái vùng ngập mặn nằm dọc bờ.
Sự ô nhiễm bởi dầu chủ yếu là do vận chuyển ở biển và chất thải bị
nhiễm xăng dầu. Theo điều tra của các nhà khoa học khoảng 1 tỉ tấn dầu được
chở bằng đường biển mỗi năm. Một phần khối lượng này (khoảng 0,1 – 0,3%)
được ném ra biển một cách hợp pháp: Đó là sự rửa dầu bằng nước biển. Các
tai nạn đắm tàu chở dầu tương đối thường xuyên.
 Trên thế giới
Theo thống kê đã có 129 tai nạn tàu dầu từ 1973 - 1975, làm ô
nhiễm biển bởi 340.000 tấn dầu (Ramade, 1989). Ước tính có khoảng 3.6
triệu tấn dầu thơ thải ra biển hàng năm (Baker, 1983). Một tấn dầu loang rộng
12 km2 trên mặt biển, do đó biển ln ln có một lớp mỏng dầu trên mặt
(Furon, 1962) [4].



Hình 1.4: Tai nạn tràn dầu ở dàn khoan [51]
Một trong những sự cố tràn dầu nghiêm trọng nhất là vụ đắm tàu chở
dầu Exxon Valdez ngày 24/03/1989 làm tràn 11 triệu gallon dầu ra bờ biển
bang Alaska. Khoảng 300.000 con chim, 3.500 con rái cá và 200 con hải cẩu
đã bị chết [4], [42]. Tai nạn tràn dầu gần đây nhất ở phía nam bờ biển Trung
Quốc vào đầu năm 2007, dầu tràn trên diện tích rộng khoảng 656 feet, dài 9
hải lí. Gần đây nhất vào 11/11/07 vụ đắm tàu của Nga tại cảng ở Biển đen làm
tràn 4.000 tấndầu ra biển [50].
 Tại Việt Nam
Theo báo cáo thống kê của cục môi trường, Bộ khoa học-Công
nghệ và môi trường cho biết: ừ năm 1987 đến nay đã xảy ra hơn 90 vụ tràn
dầu, làm nhiều vùng biển và cửa biển bị ô nhiễm dầu. Khoảng 200 tấn dầu
được vận chuyển hàng năm ở vùng biển Việt Nam từ Trung đông đến Nhật
Bản và Triều Tiên. Các vụ tràn dầu ở Việt Nam đều có đặc điểm chung : Có
nơi lặp lại nhiều lần. Khối lượng dầu tràn lớn, diễn ra trên diện rộng. Dầu ô
nhiễm từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Từ năm 1994 đến nay (2007) đã có 37
sự cố tràn dầu. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có 8 vụ, với lượng dầu tràn ước
tính khoảng 2.520 tấn [48]. Ở Cần Giờ 2 vụ vào năm 1994, 1998 làm tràn
tổng số 170 tấn. Tại Cát Lái-TP. Hồ Chí Minh 4 vụ (1994, 1996, 2001, 2005).
Đến tháng 6-2003 tàu Hồng Anh đụng vào cầu cảng chìm, làm tràn hàng chục
tấn dầu tại vùng ven biển Cần Giờ (hình 1.5). Ngày 21/1/2007 tàu chở dầu


mang tên Kasco chở khoảng 30.000 tấn dầu DO. Do va chạm vào cầu cảng tại
xí nghiệp lọc dầu SaiGon Petro (Phường Thạnh Mỹ Lợi, Q.12- tp. HCM)
khiến tàu bị thủng, dầu tràn ra trên đoạn đường 1km sông Đồng Nai về phía
cầu phà Cát Lái. Gần đây nhất tai nạn nổ kho chứa xăng- dầu ở Đà Nẵng vào
tháng 4/2007.Theo các nhà khoa học, mỗi năm nước ta có khoảng 5-6 vụ tràn

dầu. Hằng ngày có khoảng 110.000 thùng dầu khai thác ở mỏ Bạch Hổ có 1%
bị rị rỉ. Thêm vào đó 70% nước thải từ các vùng cơng nghiệp khai thác dầu
khí khơng hề được xử lí đổ ra biển. Ở một số bãi biển và cảng lớn tại Hải
Phòng, Vũng Tàu, Quy Nhơn…nồng độ dầu đã vượt quá mức cho phép (trên
0,05% mg dầu/l) [42], [45], [47], [49], [51].

Hình 1.5 :Tàu Hồng Anh chìm vào tháng 6-2003 gây tràn dầu tại
vùng ven biển Cần Giờ-TPHCM. (Nguồn: Báo SGGP, 2003)

Dầu và các sản phẩm của dầu khi tràn ra nước tạo ra lớp bao phủ trên
mặt nước, ngăn cản sự trao đổi nhiệt, oxy giữa pha nước và pha khí gây ảnh
hưởng đến sinh vật. Ơ nhiễm dầu sẽ làm giảm hiệu quả trạng thái của đất về
vi sinh vật, về động thực vật đặc biệt ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
1.3.3. Cơ chế phân giải dầu của vi sinh vật
Con đường trao đổi chất từ cơ chất là cacbuahydro của dầu mỏ khá phức
tạp. Mức độ phân giải sinh học của từng loại dầu tuỳ thuộc vào bản chất và
kích thước phân tử của từng cacbuahydro tạo nên chúng. Khả năng phân giải
các cacbuahydro trong dầu tuỳ theo sự khác biệt về chiều dài mạch cacbon


của ankan. Các ankan có số C10 – C14 thường phân giải mạnh nhất. Các ankan
chuỗi ngắn hơn hầu hết có độc tính với vi sinh vật, nhưng lại dễ mất do q
trình bay hơi. Các vi sinh vật khơng có khả năng phân giải các mạch cacbon
có khối lượng hơn 500 đvC [27], [28]. Sự phân giải cacbuahydro hai hướng
sau:
- Oxi hố hợp chất cacbuahydro phức tạp có khối lượng lớn thành
những chất đơn giản có khối lượng nhỏ hơn để làm giảm hoặc mất độc tính
tạo khí thốt ra.
- Sử dụng cacbuahydro để sinh tổng hợp tạo sinh khối VSV sử dụng
vào các mục đích khác nhau.

Hiện nay các nhà khoa học đã làm sáng tỏ cơ chế phân giải cacbuahydro
mạch hở. Sự phân giải cacbuahydro có thể diễn ra trong điều kiện hiếu khí
hoặc kị khí. Trong điều kiện hiếu khí sự phân giải ankan no mạch thẳng
thường theo con đường oxy hố hồn tồn đầu tận cùng, diễn ra như sau:
- Đầu tiên dưới tác dụng của enzym hydroxylase (monooxygenase) nankan sẽ bị oxy hoá thành rượu bậc một:
CH3-R-CH3 + O2 + NAD(P)H + H+ → CH3-R-CH2-OH + NAD(P) + H2O.
Một số trường hợp giai đoạn đầu này được tác động bởi enzym
dioxygenase. Khi đó quá trình oxy hố diễn ra theo cách sau:
CH3-R-CH3 + O2 → CH3-R-CH2- COOH + NAD(P)H + H+ → CH3R-CH2-OH + NAD(P) + H2O.
- Tiếp đến rượu bậc một tiếp tục được oxy hoá thành andehyt rồi thành
axit cacboxylic:
CH3-R-CH2-OH → CH3-R-CHO → CH3-R-CH2-COOH.
- Axit cacbonxylic được sinh ra có thể theo quá trình ω-oxidation rồi
đến quá trình β-oxidation hoặc trực tiếp quá trình β-oxidation.


- Sản phẩm quá trình β-oxidation là Acetyl CoA sẽ đi vào chu trình
TCA và giải phóng CO2 và H2O.
Ngồi ra, sự phân giải cũng có thể đi theo con đường phụ (subterminaloxidation), oxi hoá cacbon giữa mạch: Từ cacbuahydro sẽ tạo ra rượu bậc 2, rồi
tạo xêton tạo axit béo và cuối cùng giải phóng CO2 và H2O.
Các vi sinh vật có khả năng phát triển trên hexan vịng phải thực hiện
tất cả các phản ứng phân huỷ trên. Nhưng trong thực tế, thường gặp các vi
sinh vật có khả năng chuyển vịng hexan thành vịng cyclo hexanol (hình 1.6)
nhưng khơng có khả năng lacton hố và mở mạch vịng. Sau đó, các hợp chất
hữu cơ vịng thơm bị hydroxyl hố nhờ cắt ở vị trí octo tạo ra axit muconic và
bị oxi hoá tiếp thành xetoadipic. Oxi hoá tiếp theo thành axit succinic và
axetyl CoA. Sau cùng vào con đường β–oxi hoá thành axit formic, piruvic và
axetaldehyd [5].
Một số loại nấm sợi thường gặp có khả năng oxi hố các hợp chất có
chứa nhân thơm như Aspergillus niger, có khả năng phân huỷ hợp chất là dẫn

suất của phenol. chủng Fusarium lini, Fusarium solani oxi hoá được một số
dẫn suất của steroids, terpenoids, alkaloid [28], [43], [49].

Hình 1.6: Phân giải hiếu khí benzen (ảnh nguồn của Brauner, 1998)
1.3.4. Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến khả năng phân giải dầu
Các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ pH, độ mặn…có ảnh hưởng
trực tiếp đến trạng thái lý học của dầu. Thêm vào đó, thành phần chất dinh


×