Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ CẦN CHÚ Ý_2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.94 KB, 7 trang )

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
THƠ CẦN CHÚ Ý

Vần là sự lặp lại những âm thanh tương tự để tạo chỗ dựa cho nhạc tính.
Thơ có vần chính và vần thông. Vần chính là vần cùng một khuôn âm,
vần thông là theo một khuôn âm tương tự. Xét về vị trí vần, còn chia ra
vần chân và vần lưng. Thơ tự do ngày nay không bó buộc về hiệp vần,
nhưng các nhà thơ vẫn sử dụng vần như một yếu tố biểu cảm làm tăng
vẻ đẹp của thơ:

Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường Bạch Dương sương trắng nắng tràn

Tố Hữu lặp lại vần ngay trong một dòng thơ khiến câu thơ như ngân lên
điệu nhạc du dương, man mác.

Nếu ngôn ngữ và hình ảnh là những yếu tố song hành thì âm điệu cũng
là yếu tố đồng hành với tính nhạc. Nói một cách hình ảnh, nếu ngôn ngữ
là sợi dây đàn thì nhạc tính và âm điệu là những cung bậc thanh âm ngân
lên từ sợi dây đàn ấy. Việc kiến tạo âm điệu trong thơ cũng chính là kiến
tạo nhạc tính. Và âm điệu cũng là chiếc cầu nối thơ với người đọc, dẫn
dụ người đọc đi vào thế giới màu nhiệm của thơ ca. Các câu thơ sau sở
dĩ “đầy nhạc” chính vì sự tập trung dày đặc các nguyên âm mở và phụ
âm vang tạo âm điệu cho thơ:

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận (Nguyệt cầm – Xuân Diệu)

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang (Mùa xuân chín – Hàn Mặc Tử)

Nam đình nghe động trống chầu đai doanh. (Truyện Kiều – Nguyễn Du)


Nhạc thơ chủ yếu còn do các thanh điệu tạo nên. Xuân Diệu viết hai
dòng toàn bằng để gợ tả điệu nhạc du dương đưa tâm hồn phiêu diêu bay
bổng khi nghe Nhị Hồ:

Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.

Câu thơ của Bích Khê sở dĩ đầy nhạc tính như ta cảm thấy chính là vì đã
tập trung được các thanh bằng một cách dày đặc nhất:

Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông…
(Tỳ bà)

Tản Đà trong hai câu thơ:

Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương

Đã sử dụng một nhịp điệu đặc biệt trên cơ sở tương phản về thanh điệu
như hai vế đối lập. Câu trên là một tình thế bất công, một cảnh ngộ uất
ức. Câu thơ bị dồn chặt, đóng chặt bởi những từ ngắn mang thanh trắc
giống như uất ức bị nén lại. Câu thơ sau là một hướng giải quyết tiêu cực
và buông xuôi, toàn bộ câu thơ trôi đi trên thanh bằng như một sự buông
tỏa, giải thoát, không có phương hướng, không có gì níu giữ lại. Câu thơ
thứ nhất với chủ âm thanh trắc, câu thơ thứ hai chủ âm thanh bằng diễn
đạt được trạng thái buông xuôi của nhà thơ, chính âm thanh của chữ
nghĩa đã tạo nên những điều mà chữ nghĩa không nói hết.

Nói đến yếu tố tạo tính nhạc cho thơ phải kể đến vai trò của nhịp điệu.

Maiacovki từng khẳng định: “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lượng
cơ bản của câu thơ”. Câu thơ và vần có một cái duyên mà thậm chí khi
lời, ý dở, nhà thơ vẫn quyến rũ người nghe bằng nhịp điệu và sự cân
đối.” (Isokrate). Theo giáo sư Hà Minh Đức: “Nhịp điệu là kết quả của
một sự chuyển động nhịp nhàng, sự lặp lại đều đặn những âm thanh nào
đó ở trong thơ.”. Nhịp thơ có thể dài, ngắn, đọc lên có thể nhanh hay
chậm phụ thuộc vào trạng thái cảm xúc:

Nhiều đấy ư em/ mấy tuổi rồi?
- Hai mươi.
- ờ nhỉ/ tháng năm trôi
Sóg bồi thêm bãi / thuyền thêm bến
Gió lộng đường khơ/ rộng đất trời!
(Tố Hữu)

ở ba dòng đầu bị cắt ra nhiều nhịp như sự dừng lại sững sờ ngạc nhiên
trước sự đổi thay của thời đại. Dòng 4,5 nhịp dài ra như niềm vui trải
rộng.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng, tính nhạc là một đặc điểm quan trọng
của ngôn ngữ thơ ca. Chính vì đặc điểm này mà rất nhiều trường hợp các
nhạc sĩ sử dụng ngay những bài thơ có sẵn làm chất liệu sáng tác cho bài
hát của mình. Vô số những bài thơ phổ nhạc được nhiều người yêu thích
và có sức sống khá bền lâu như: Vàm cỏ đông (Thơ Hoài Vũ), Tình ca
Tây Bắc ( thơ Cẩm Giàng), Tiếng đàn bầu ( Thơ Lữ Giang), Bóng cây
kơnia ( dịch thơ dân tộc Hrê)…

Khác với văn xuôi, thơ ca chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn
ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống bao gồm các sự kiện tự nhiên
và xã hội cũng như những điều thầm kín trong tâm linh con người (Hữu

Đạt). Dovậy, ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính
hàm súc phong phú của ngôn ngữ.

Thơ là thể loại “ý tại ngôn ngoại”. Việc kiệm lời, kiệm chữ là một yêu
cầu tối quan trọng đối với nhà thơ. “Thơ cốt ở ý, ý cốt sâu sa thì thơ mới
hay. Không phải bất cứ điều gì phải nói ra bằng lời thì mới là thơ có giá
trị. Ý hết mà lời dừng là cái lời hết mực song lời dừng mà ý chưa hết thì
lại càng hay tuyệt” (Hải Thượng Lãn Ông).

Mỗi từ ngữ trong câu thơ phải diễn tả được đúng điều mà nhà thơ nhìn
thấy, cảm thấy và những điều sẽ thấy. Lựa chọn được một từ ngữ “đắt”
để diễn đạt một ý không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Nói như
Maiacôpxki, quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ ca cũng giống như người
lọc quặng radium:

Lấy một gam phải mất hàng năm lao lực.
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ.

Trong một trường liên tưởng của từ ngữ có nhiều từ cùng nghĩa, gần
nghĩa, trái nghĩa , người viết cần liệt kê vài từ để chọn. Tản Đà đã suy
nghĩ rất nhiều khi chọn từ “khô” để đưa vào câu thơ: Non cao những
ngóng cùng trông/ Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày (Thề non
nước). Nếu thay từ khô bằng từ tuôn, hay từ trôi thì hiệu quả sẽ như thế
nào?

Hay từ “ép” trong câu: Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai
hàng chứa chan là một “nhãn tự” (mắt chữ) trong bài Khóc Dương Khuê
của Nguyễn Khuyến. Ta bắt gặp trong Nguyễn Du, một bậc thầy về
ngôn ngữ thơ ca, những sáng tạo kỳ diệu. Chỉ trong một câu thơ ngắn
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, với chỉ một từ tót thôi, Nguyễn Du đã giết

chết tên Giám Sinh họ Mã (Hoài Thanh). Hay Rẽ song đã thấy Sở
Khanh lẻn vào. Với một từ lẻn, Nguyễn Du đã lột trần bản chất con
người Sở Khanh.

Hàm súc và giàu sức biểu hiện, ngôn ngữ thơ ca cô đúc, chặt chẽ với sỗ
từ rất hạn định nhưng năng lực biểu hiện lại rất lớn. Vấn đề đặt ra với
mỗi nhà thơ là phải chọn một cách nói tốt nhất đến mức đô người ta cảm
thấy không thể khác được.

Thơ hay bao giờ cũng là cuộc hôn phối kỳ diệu giữa âm thanh và ý
nghĩa, hình ảnh. Chữ và nghĩa trong ngôn ngữ thi ca hòa quyện với nhau
như hình với bóng, như xác với hồn nên việc tách rời chúng ra khỏi nhau
sẽ làm tổn hại đến bình diện ngôn ngữ và thẫm mỹ của câu thơ.Thơ
không phải là một mớ lý thuyết mà là một thực thể ngôn ngữ,. Và thơ ca
ám ảnh người đọc phải chăng cũng vì vẻ đẹp toát ra từ “thực thể ngôn
ngữ” ấy. Vũ trụ tâm hồn thi nhân có hòa điệu với tâm hồn người đọc
không, có “tri âm” với người tiếp nhận hay không, tất cả phải thông qua
chiếc cầu ngôn ngữ, nói như Bùi Giáng “thi ca vẫn có sức đưa dẫn người
ta vào giữa huyền nhiệm của cuộc sống. Ngôn ngữ thơ bao giờ cũng là
hóa công của người nghệ sĩ. Mỗi chữ trong thơ đều là sự vang vọng từ
tâm hồn thi nhân. Vì “Thực chất của thơ là cái linh hồn, là sự sống của
những chữ ta dùng. Làm văn xuôi, chữ không có sức mạnh ma quái như
vậy (…) thi nhân là một thần linh nói một thứ chữ riêng mà thế nhân
phải diễn tả dài dòng thô lậu” (Nguyên Sa).

×