Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

So sánh chuyện tình giữa Người và Hồn ma trong "Tiễn đăng tân thoại" và "Truyền kỳ mạn lục" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.75 KB, 9 trang )

So sánh chuyện tình giữa
Người và Hồn ma trong "Tiễn
đăng tân thoại" và "Truyền kỳ
mạn lục"



Hà Nhân bèn rủ hai cô gái về nhà trọ; Trình Trung Ngộ đưa cô gái
xuống thuyền của mình; viên quan họ Hoàng đưa cô gái đi theo… Ở đây,
đến với tình yêu trai gái, nhân vật nam không phải phấn đấu trên con
đường đi tìm hạnh phúc; cũng không tự giác nhận thấy mình đã tìm được
giá trị đích thực, nguyện đem đánh đổi tất cả để giữ lấy nó. Với họ, chỉ
đơn giản là chạy theo sự cám dỗ, đắm đuối trong hành lạc mà quên đi,
đánh mất đi mục đích của mình, thậm chí đánh mất cả mạng sống.

Cuộc kỳ ngộ giữa các chàng trai và hồn ma trong TKML phần lớn chỉ
diễn ra vào ban đêm trong thời gian ngắn ngủi. Hàng đêm, Hà Nhân dan
díu với hai hồn ma (Đào nương, Nhu nương) trong gần một năm. Đêm
đêm Trình Trung Ngộ qua lại với hồn ma Nhị Khanh hơn một tháng.
Riêng Xương Giang yêu quái lục viết: một đêm, Hoàng thấy người con gái
ngồi bãi cát phía đông nam khóc ai oán, kể về cảnh ngộ. Thương cô gái
bơ vơ chịu nhiều đau khổ, anh ta giúp nàng thu nhặt hài cốt cha mẹ đưa
về quê nàng. Tuy chưa ân ái để truyền sức sống cho người đã chết,
nhưng vì Hoàng đã không quản công sức, tiền của làm ơn nhục cốt sinh
tử, khiến cho “xương khô sinh thịt, người chết sống lại”. Thị Nghi thành
vợ Hoàng, cuộc sống vợ chồng gắn bó. Như vậy, ở truyện này có trùng
lặp một chi tiết của truyện nhóm 1 trong TĐTT. Nếu như các đôi "chồng
người vợ ma" trong TĐTT, người chồng thoả nguyện với hạnh phúc và
không bị nhiễm khí yêu ma thì truyện của Nguyễn Dữ viết, Hoàng mới
sống chung được một tháng, mắc bệnh điên cuồng hoảng hốt. Đạo sĩ yểm
bùa, chữa được bệnh cho Hoàng, Thị Nghi thành ra đống xương trắng.


Sau đó hơn một tuần, anh ta bị bắt xuống điện Diêm vương tra xét. Án phê
rằng “bỏ nết cương thường, theo đường tà dục, giảm thọ một kỷ”. Hoàng
đã bị trừng phạt.

Nhiều người nói về Mộc miên thụ truyện trong TKML mô phỏng
theo Mẫu đơn đăng ký trong TĐTT. So về cốt truyện thì dường như truyện
của Nguyễn Dữ “là sự tái hiện nguyên bản” (Trần Ích Nguyên) truyện của
Cù Hựu. Nhưng phân tích cụ thể sẽ thấy thay đổi thể hiện sự tinh tế của
nhà văn họ Nguyễn. Xin được trình bày bảng đối chiếu sau đây:

Đối
tượng so sánh
Mẫu đơn đăng ký Mộc miên thụ
truyện
Nhân
vật
Trai goá vợ Thương nhân
Vật
dụng
Đèn lồng hình 2
bông mẫu đơn
Một cây hồ cầm
Nơi
giao hoan
Nhà Kiều Sinh Thuyền củaTrình
Trung Ngộ
Nơi có
bài vị
Chùa mé Tây
nguyệt hồ

Túp nhà gianh nh

ngoài đồng

Cách
phát hiện
Ông già nhìn thấy
bộ xương ngồi với Kiều
sinh, cảnh báo. Kiều sinh
đến chùa thấy quan tài
Bạn buôn nhắc
nhở cẩn thận, Trình đư
ợc
dẫn đến túp nhà gianh
thấy quan tài
Lý do
tiếp tục gặp gỡ

Say rượu rẽ nhầm
vào chùa giữa hồ
Hồn ma gọi, đi
theo
Kiểu
chết
Quan tài tự mở nắp,
hồn ma kéo vào, Kiều
Sinh chết úp vào xác cô
Trình ôm quan tài
mà chết
gái, nắp liền đậy lại ngay

Nơi trú
ngụ
Hiện hình trong
làng
Chùa có cây gạo
bên sông
Trừng
phạt
Bị đánh máu túa
dầm dề, giải tới ngục âm
cung
Trên không có
tiếng roi vọt, lính đầu
trâu mặt ngựa gông trói
dẫn đi

Như vậy, trong Mộc miên thụ truyện chỉ trừ chi tiết Nhị Khanh chết
đã nửa năm mà quan tài vẫn quàn ngoài đồng ngay bên cạnh làng là
chuyện không từng có ở ta. Còn các chi tiết khác so với Mẫu đơn đăng
ký đều đã đổi khác để phù hợp với hiện thực đời sống, quan niệm, tâm lý
người Việt. Có thể nói, trong TKML Nguyễn Dữ có thể đã tiếp thu truyền
thống truyện truyền kỳ Trung Hoa từ Đường, Tống, Nguyên, Minh…
Nhưng sáng tác dân gian, văn học nhiều thế kỷ của dân tộc cũng là suối
nguồn cung cấp cho Nguyễn Dữ rất phong phú những cốt truyện, môtip,
chi tiết ly kỳ (lấy vợ kỳ dị, hồn ma hiện hình, người bị ma làm, loài vật
thành tinh, thần cây đa ma cây gạo. sự trừng phạt của Diêm vương ).

IV. Trong Mẫu đơn đăng ký chưa kể đến ba trang miêu tả việc đạo
nhân trừ ma tà thì hệ thống chi tiết trong truyện cho thấy Cù Hựu đã dụng
công tạo nên sự ly kỳ, rùng rợn gây cảm giác ghê sợ hãi hùng cho người

đọc. Thái độ tác giả TĐTT phê phán, trừng phạt thói tham nữ sắc của gã
đàn ông mới goá vợ, cũng là cảm hứng của nhà Nho, nhà đạo đức Nguyễn
Dữ đã thể hiện trong Mộc miên thụ truyện và Xương Giang yêu quái
lục. Thái độ phê phán, răn đe của tác giả họ Nguyễn không chỉ được thể
hiện qua hình tượng nghệ thuật, qua bài học mà độc giả tự ngẫm thấy
trước kết cục số phận của nhân vật, sau mỗi truyện của TKML đều có lời
bình, ví dụ:

"Xem thấy yêu nữ mê người, sẽ biết răn sợ trước sắc đẹp" (Xương
Giang yêu quái lục). Đây là lời phát ngôn trực tiếp, mang tính chất thuyết
lý định hướng giáo dục, cảnh giới con người trước bờ vực của sự sa đoạ.

Tuy nhiên, trong sáng tác của nhà văn họ Nguyễn không phải chỉ có
phê phán mà còn có sự đồng cảm, chia sẻ. Thái độ đó thể hiện tập trung
trong Tây viên kỳ ngộ ký. Nguyễn Dữ đã dành 11/16 trang viết miêu tả
những cuộc gặp gỡ hoan lạc giữa các nhân vật bằng những lời văn dạt
dào cảm xúc yêu đương. Từ sự e lệ, thẹn thò của Nhu nương, Hồng
nương trong buổi đầu gặp gỡ đã bị Hà Nhân lả lơi cợt ghẹo, đến những
lời hoa ý gấm tả chuyện chốn buồng xuân khi cả ba trải cuộc mây mưa
thoả nguyện. Yêu đương, hờn dỗi, ghen tị… là những cảm xúc thường có
trong một cuộc tình tay ba cũng được viết rất hấp dẫn, ý nhị. Khi Hà Nhân
phải về quê, nâng chén tiễn biệt, hai nàng đã viết bài ca tha thiết mang nỗi
đau buồn, nhớ nhung không dứt, khiến chàng rưng rưng đôi hàng nước
mắt. Hoãn việc hôn nhân do cha mẹ định sẵn, chàng Nho sinh họ Hà lại
lên đường tới kinh, gặp lại giai nhân. Tình son phấn nồng nàn khiến chí
bút nghiên chán nản. Mọi trạng thái tâm tư yêu đương của lứa đôi tuổi trẻ
đã được Nguyễn Dữ viết một cách say sưa bằng những lời đẹp đẽ. Không
thể không nói rằng: nhà văn họ Nguyễn đã thể hiện trong sáng tác của
mình một sự đồng cảm, ngợi ca tình yêu – hạnh phúc trần thế, tự nhiên
của con người, của tuổi trẻ vượt qua khỏi sự ràng buộc của quan niệm,

tập tục, đạo đức, lễ nghi phong kiến…, phản ánh một góc nhìn mang tư
tưởng nhân văn.

Tiết đông lạnh, Đào nương, Nhu nương khóc chia tay rồi không đến
nữa. Sinh mới biết lâu nay mình đánh bạn với hồn hoa. Sự thác hoá của
hồn cây, ma hoa là trở lại sự phân biệt hai thế giới âm và dương, hai cõi
sống và chết. Trong truyện Tây viên kỳ ngộ ký,người vẫn là người, hồn
ma vẫn là ma. Người bị hồn ma quyến rũ trở nên u mê, kẻ lòng nhiều vật
dục nên chạy theo lối sống buông thả. Đó là chuyện quái đản. Kết thúc tác
phẩm không thấy tác giả viết về việc Hà Nhân bị nhiễm khí yêu ma nhưng
chàng đã dở dang công danh và lỡ làng hôn sự. Dễ dàng nhận thấy thái
độ nương nhẹ của Nguyễn Dữ trước sự tha hoá của tầng lớp nho sinh
trong trào lưu suy đồi lối sống, đạo đức của nhiều tầng lớp trong xã hội.
Bài học rút ra là: người quân tử phải tránh con đường nhỏ, quá ham mê
với điều nhỏ sa lầy với nó, sẽ mất đi những điều lớn trong cuộc đời.

Trong quan niệm của Nguyễn Dữ, lối sống phóng đãng, mải mê hành
lạc của con người là hành vi sai lạc. Đắm chìm trong ham muốn sắc dục,
con người sẽ rơi vào sự lệch chuẩn với đạo lý, cương thường; dần bỏ đạo
đức tốt đẹp mà đến với cái xấu xa, đáng ghê sợ; có khi dần xa sự sống mà
gần cái chết. Đó là tai hoạ do sự tha hoá nhân cách.

Từ những nội dung trên, xin được rút ra một số điểm như sau:

1. Với văn học trung đại, thể loại là một phạm trù quan trọng, thường
được xác định ngay ở tên gọi tác phẩm. Ba tác phẩm viết về chuyện tình
giữa người và hồn ma trong TKML cũng đã được ghi rõ: Tây viên kỳ ngộ
ký, Mộc miên thụ truyện, Xương Giang yêu quái lục. Nhưng văn xuôi tự sự
Việt Nam thời trung đại có đặc điểm: “ranh giới giữa truyện và ký hết sức
mờ mỏng”

(3)
. Khảo sát nội dung và nghệ thuật của ba tác phẩm trên cho
thấy, mặc dù được xếp ở ba loại hình khác nhau (ký, truyện, lục), nhưng
trong TKML ký và lục đều thuộc thể loại truyện. Ba thiên này thực chất
đều là những truyện ngắn nghệ thuật đặc sắc – tác phẩm văn học kỳ ảo.

2. Văn học kỳ ảo phản ánh sự phong phú, kỳ diệu, không giới hạn
của trí tưởng tượng, của ảo giác con người. Nội dung những truyện trên
đều rất ly kỳ. Nhưng lại là những điều nghi suy nảy sinh từ cuộc sống
hiện thực, được trình bày với muôn hình vạn trạng, biến huyễn lạ lùng,
thực hư khó phân biệt. Đó không chỉ là sự thích thú thêu dệt của người
sáng tạo mà còn là nhu cầu tiếp nhận của độc giả. Bởi con người không
chỉ sống với thực tại mà còn cần sống với tưởng tượng, mộng ảo nhằm
thoả mãn khát vọng của mình bằng những việc không có thực, bù đắp cho
sự cân bằng tất yếu trong cuộc sống.

3. Văn học kỳ ảo phản ánh sự phức tạp trong tư tưởng con người.
Chuyện tình giữa người và hồn ma chỉ là chuyện có trong trí tưởng
tượng. Viết về chuyện ma để đạt đến sự thoả mãn hiện thực bằng những
việc không có thực. Đó là hoạt động, là trạng thái tư tưởng ở dạng thay
thế.

Còn nghi hoặc về chuyện có ma mà vẫn tin là có ma quyến rũ, mê
hoặc. Sợ ma mà lại thấy ma đẹp và có thể đem lại hạnh phúc cho con
người. Tin rằng bị ma làm là tai hoạ nhưng vẫn được coi là cách để con
người vượt qua nhiều đau khổ trong cuộc sống thực tại. Ở những câu
chuyện này, ma vừa là người đã chết, là yêu quái… nhưng cũng chính là
hình tượng phúng dụ để nói đến sức lôi kéo và sự nguy hiểm của lối sông
buông thả, phóng đãng trong hưởng lạc của con người trước những cám
dỗ vật chất của cuộc đời. Đó là hình tượng thực hiện chức năng giáo huấn

của văn học.

Viết về chuyện tình giữa người và hồn ma, các tác giả (cả Cù Hựu, cả
Nguyễn Dữ) đều thể hiện nhiều quan niệm, vừa khẳng định vừa phủ định;
vừa phỉ báng vừa ngợi ca. Bởi mỗi người đều đồng thời xuất phát từ
nhiều điểm nhìn trước những vấn đề của cuộc sống hiện thực. Đặc biệt,
ở TKML nhóm tác phẩm này đã thể hiện sự mâu thuẫn, rạn vỡ trong tư
tưởng của Nguyễn Dữ, giữa nhà đạo đức, nhà Nho họ Nguyễn với nhà văn
có tư tưởng tiến bộ của thế kỷ XVI. Trong sáng tác, cả hai tư tưởng đều
mạnh mẽ, sâu sắc và quyết liệt.

4. Khảo sát về các truyện của Cù Hựu và của Nguyễn Dữ, cần phải lý
giải “cảm giác quen quen nhưng nếu muốn chỉ ra xem nó giống truyện
nào của TĐTT thì không thật dễ” (Trần Ích Nguyên). Không phải chỉ cho
rằng Nguyễn Dữ đã chịu ảnh hưởng nhiều từ sáng tác của Cù Hựu (do
tiếp thu tình tiết, mô típ và bút pháp thể loại…), nhưng vẫn thể hiện sức
sáng tạo khéo léo và tài năng nghệ thuật của mình. Mà còn phải quan tâm
đến một hiện tượng có tính quy luật của văn học trung đại. Đó là nhiều mô
típ folklore, các type truyện dân gian của Việt Nam, Trung Quốc khá gần
gũi nhau. Đó cũng là hiện tượng tồn tại trong nhiều nền văn học thế giới.
Nhưng từ hiện thực mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa với sự lựa chọn và
sáng tạo lại của những tài năng tuyệt vời, sự hiện diện của những mô típ
đó rất phong phú, linh hoạt, mới mẻ. Từ những nét chung và riêng của
các chuyện tình giữa người và hồn ma trong TĐTT và TKML, có thể khẳng
định những đóng góp về nội dung và nghệ thuật tạo nên sự đa dạng của
hệ thống truyện ngắn truyền kỳ viết về đề tài này trong khu vực.

TĐTT là thành tựu của truyện truyền kỳ Trung Hoa thế kỷ XIV
và TKML là thành tựu đặc sắc của truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung
đại./.



×