Hans Robert Jauss: Lịch sử
văn học là lịch sử tiếp nhận
Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận hay rõ hơn, trực tiếp hơn có thể nói theo
cách của Haral Weinrich mà Jauss rất tán thành: “Lịch sử văn học của người đọc”
(1)
.
Đó là mục đích của những cố gắng lý luận của Jauss được đề ra trong công trìnhLịch
sử văn học như là sự thách thức khoa học văn học của ông mà chúng tôi trong một
bài viết trước đây đã bắt đầu lưu ý đến
(2)
. “Lịch sử văn học của người đọc” là
phương thức để Jauss “đổi mới lịch sử văn học” (171)
(3)
nhằm đối đầu với những
thách thức đang hiện diện của khoa học văn học, đối đầu với các lối viết “lịch sử văn
học của tác giả”. Những luận điểm đầu của ông với nội dung xác lập những cơ sở
chung cho việc xây dựng một mỹ học tiếp nhận hướng vào lịch sử văn học, hay một
lịch sử văn học căn cứ trên mỹ học tiếp nhận đã được chúng tôi đề cập trong bài viết
vừa được nhắc đến. Trong bài này, chúng tôi tiếp tục trình bày những luận điểm tiếp
theo của Jauss, trong đó ông đề xuất những vấn đề, những phương thức cụ thể hơn
cho lịch sử văn học “đổi mới” của ông.
Đối với việc hình thành một lịch sử văn học như vậy thì các vấn đề tầm đón
đợi và quan hệ đối thoại, như chúng tôi đã có dịp nói đến, luôn có một vai trò quan
trọng trong mối quan hệ giữa văn học và người đọc. Tầm đón đợi theo quan niệm của
Jauss là yếu tố trung giới không thể thiếu trong việc xác định cả hai giá trị thẩm mỹ
và lịch sử của tác phẩm văn học. Vì thế khi nghiên cứu lịch sử văn học theo mỹ học
tiếp nhận nhà văn học sử nhất thiết phải tái lập lại tầm đón đợi của tác phẩm quá khứ
vào thời điểm lịch sử nó xuất hiện. Jauss cho rằng “việc tái lập tầm đón đợi mà trước
cái tầm đó một tác phẩm trong quá khứ được tạo ra và được tiếp nhận mặt khác còn
tạo điều kiện nêu lên những câu hỏi mà văn bản đã trả lời và như vậy rút ra kết luận
là người đọc trước đây đã có thể xem xét và hiểu tác phẩm như thế nào. Sự tiếp cận
này sửa chữa những qui chuẩn phần nhiều không được nhận biết của sự lĩnh hội nghệ
thuật mang tính cổ điển hay hiện đại hóa và tránh được sự quy hồi vòng vo vào tinh
thần chung của thời đại. Nó làm cho nhận thấy rõ sự khác biệt giải thích học giữa sự
hiểu trước đây và sự hiểu ngày nay về một tác phẩm và (…) làm cho ý thức được lịch
sử tiếp nhận nó” (183).
Đoạn trích trên đây từ chương IX công trình Lịch sử văn học như là sự thách
thức khoa học văn học (dưới đây sẽ được tiếp tục gọi tắt là Lịch sử văn học) cho thấy
tầm quan trọng của việc tái lập tầm đón đợi của tác phẩm đối với phương pháp lịch
sử văn học theo mỹ học tiếp nhận của Jauss. Vấn đề được nhấn mạnh ở đây là bằng
cách dựng lại tầm đón đợi ban đầu của tác phẩm sẽ giúp ta nhận ra lịch sử tiếp nhận
của tác phẩm qua sự khác biệt trong các cách hiểu, các cách giải thích tác phẩm, nói
gọn lại lịch sử tiếp nhận là lịch sử hiểu, lịch sử giải thích tác phẩm. Và đó là một
phương diện trong quan niệm về lịch sử tiếp nhận của Jauss. Cách xem xét này theo
Jauss sẽ cho phép làm phát lộ ra sự sai lầm của các quan niệm trước đây – chủ yếu là
quan niệm của chủ nghĩa thực thể - vốn cho rằng nghĩa của văn bản tồn tại vô thời
hạn và nhà nghiên cứu có thể tiếp cận trực tiếp bất cứ lúc nào cái nghĩa được biểu đạt
một cách khách quan, một lần cho mãi mãi ấy. Có thể nói rằng quan niệm siêu hình
này bị Jauss phản bác lại một cách đúng đắn, và trong thực tế người ta có thể nhận
thấy là quá trình hiểu và giải thích ở không ít tác phẩm thường không thống nhất với
nhau – chẳng hạn như trường hợp Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương hay thơ, văn của
không ít nhà văn nhà thơ khác… trong văn học Việt Nam. Điều ấy rõ ràng là do nhiều
nguyên nhân, bao gồm cả nguyên nhân bên trong lẫn nguyên nhân bên ngoài văn bản.
Sự lần trở lại cách hiểu trước đây về một tác phẩm theo Jauss cũng sẽ giúp sửa chữa
những qui chuẩn của sự nhận hiểu nghệ thuật mang tính cổ điển hay hiện đại hóa.
Chẳng hạn như đem những tiêu chí của văn chương lãng mạn để hiểu văn chương
thời trung cổ mà không nhận thấy cái “ý đồ ban đầu” của tác phẩm trung cổ như
trường hợp Reinecke Fuchs hay đem các tiêu chí của văn học cổ điển để đánh giá nền
văn học phi cổ điển như sử thi Pháp thời Bédier. Phương pháp lịch sử tiếp nhận này
còn được Jauss xem là cần thiết để biết được một tác phẩm khuyết danh thuộc quá
khứ xa xưa với nhiều điều chưa được biết như ý đồ của tác giả, các mẫu mực mà tác
giả noi theo… “thực ra”, tức “từ ý đồ và thời đại của nó” cần được hiểu như thế nào?
Và ông đã chỉ ra cách thức ấy qua thí dụ về trường hợp Roman de Renart (184).
Về cơ bản có thể nhận thấy “sự thống nhất giữa việc xây dựng cơ sở mỹ học
tiếp nhận cho một lịch sử văn học” do Jauss thí nghiệm “với nguyên tắc lịch sử tác
động của Hans Georg Gadamer”. Điều này đã được Jauss nhìn nhận (186). Nguyên
tắc lịch sử tác động được Gadamer trình bày trong tác phẩm Chân lý và phương
pháp của ông. Trong đó, Gadamer tìm cách chỉ ra cái hiện thực lịch sử ngay trong
chính sự hiểu. Như vậy sự hiểu tác phẩm được đồng nhất với hiện thực lịch sử của tác
phẩm và mặt khác sự hiểu văn bản được trung giới bởi lịch sử tác động của nó. Sự
đồng nhất này cũng có thể nhận thấy đây đó ở Jauss và sự chuyển hướng đó của giải
thích học trong công trình trên của Gadamer thể hiện sự cố gắng của ông để xây dựng
một “giải thích học mới”: “giải thích học triết học”. Đây là một trong hai khuynh
hướng tồn tại bên cạnh nhau nhưng đối lập nhau trong nguyên tắc lý giải văn bản của
khoa giải thích học. Khuynh hướng thứ nhất đặt trọng tâm ở việc nhận thức đối tượng
lịch sử, tức “nghĩa văn bản” (der Textsinn). Khuynh hướng thứ hai cho rằng không
cần đi tìm đối tượng lịch sử mà nghĩa của văn bản nên được nhận ra ở sự cập nhật
hoá nào đó (hiện tại hoá: Aktualisierung) văn bản cho một hiện tại nhất định và như
thế mới đưa đến việc hiểu văn bản. Giải thích học triết học của Gadamer có cơ sở ở
chủ nghĩa hiện sinh của Martin Heidegger, cụ thể là ở “giải thích học của sự hiện
hữu” của Heidegger mà theo đó “hiểu” được giải thích là “tính chất tồn tại nguyên
thuỷ của cuộc sống con người”
(4)
. Gadamer xây dựng giải thích học của ông dựa trên
giải thích học hiện sinh của Heidegger như là một phương thức khắc phục vòng tuần
hoàn giải thích học luẩn quẩn của giải thích học truyền thống bằng quan niệm “tất cả
mọi sự hiểu đều là tự hiểu”
(5)
. Không nghi ngờ gì đó là một quan niệm hoàn toàn chủ
quan với mục đích chống lại chủ nghĩa khách quan lịch sử. Và Jauss tán thành sự
chống đối ấy của Gadamer. Trên cơ sở đó Jauss tiếp thu nguyên lý lịch sử tác động
của Gadamer. Trong nguyên lý lịch sử tác động này Gadamer đã vận dụng lôgic hỏi
và đáp của Collingwood vào trong sự lưu truyền lịch sử. Từ luận điểm của
Collingwood với ý “người ta chỉ có thể hiểu được một văn bản nếu người ta đã hiểu
cái câu hỏi mà văn bản đó là câu trả lời”, Gadamer cho rằng: “câu hỏi được tái lập lại
không thể còn nằm trong tầm nguyên thuỷ của nó vì tầm lịch sử này luôn bị bao bọc
bởi cái tầm hiện tại của chúng ta” cho nên với Gadamer “hiểu luôn luôn là một quá
trình của sự dung hợp các tầm vẫn nhầm tưởng là chỉ tồn tại tự thân như thế” và câu
hỏi lịch sử không thể tồn tại cho riêng nó mà phải chuyển thành câu hỏi, “câu hỏi đó
là cái được truyền lại cho chúng ta”
(6)
. Theo Gadamer quá khứ chỉ trở thành thực tế
với tính cách là cái được truyền lại. Cái được truyền lại làm trung giới giữa cái quá
khứ và hiện tại nào đấy và bản thân cái hiện tại này sẽ góp phần vào việc lưu truyền
tiếp theo. Như vậy có thể nói mỗi sự hiểu đều có tiền đề là sự hiểu trước đó, cái mà
Gadamer gọi là “sự đan cài lịch sử tác động”
(7)
. Cho nên ở ông sự hiểu văn bản được
trung giới bởi lịch sử tác động của văn bản. Nói cách khác, với Gadamer “việc dựa
vào người đọc đầu tiên cũng như vào cái nghĩa của tác giả chỉ là một nguyên tắc rất
thô sơ của giải thích học lịch sử. Nguyên tắc này về thực tế không được phép giới hạn
tầm nghĩa của văn bản”
(8)
. Tóm lại, ở đây có thể nói nghĩa, nội dung của văn bản là
tổng hợp những sự cấp nghĩa hình thành trong lịch sử và điều đó rõ ràng không tránh
khỏi dẫn đến một sự xoá nhoà ranh giới giữa hiểu đúng và hiểu sai, dẫn đến một sự
tương đối hoá nghĩa của văn bản, tương đối hoá chân lý của tác phẩm.
Từ nguyên lý lịch sử tác động của Gadamer – mà ở đây chúng tôi chỉ nêu một
số điểm cần thiết cho việc tìm hiểu quan điểm của Jauss – Jauss đã tìm thấy chỗ dựa
cho việc xây dựng mỹ học tiếp nhận của ông. Căn cứ vào đó ông đưa ra cách tháo gỡ
điều nan giải của việc đánh giá văn học mà René Wellek đã nêu ra. Đó là nhà ngữ
văn nên đánh giá một tác phẩm theo góc nhìn nào: theo góc nhìn của quá khứ, từ lập
trường của hiện tại hay “theo sự đánh giá của các thế kỷ”
(9)
. Điều nan giải ở đây là sự
đánh giá theo chuẩn mực nào cũng không thoả đáng. Chuẩn mực của quá khứ hay của
hiện tại hoặc hạn hẹp hoặc không công bằng. Còn “sự đánh giá của các thế kỷ”, tức
lịch sử tác động của nó thì có thể bị phê phán là một thứ quyền uy giống như quyền
uy của những người đương thời của tác giả. Tuy nhiên, giải pháp của Wellek khi cho
rằng không thể tránh được sự đánh giá của chính mình nhưng phải cố gắng khách
quan như có thể được bằng cách “cô lập đối tượng”
(10)
, đã bị Jauss xem là thoái lui
vào chủ nghĩa khách quan. Giải pháp của Jauss khác với giải pháp của Wellek ở chỗ
Jauss cho rằng “sự đánh giá của các thế kỷ” về một tác phẩm không phải chỉ là “sự
đánh giá đã được sưu tập lại của người đọc, của nhà phê bình, của người xem và thậm
chí của các giáo sư nữa”
(11)
mà nhiều hơn thế: đó là “sự phát triển tuần tự của một
tiềm năng nghĩa được xây dựng trong tác phẩm, được cập nhật hoá trong các cấp độ
tiếp nhận lịch sử của nó” (186). Sự luận giải của Jauss về điều nan giải trên với
quan niệm về “tiềm năng nghĩa được xây dựng trong tác phẩm, được cập nhật hoá
trong từng cấp độ tiếp nhận lịch sử”, cũng như với sự lưu ý về một sự “đánh giá có
hiểu biết” và sự “thực hiện có kiểm tra sự dung hợp các tầm” cho thấy quan niệm về
lịch sử tiếp nhận của Jauss không hoàn toàn thống nhất với lịch sử tác động của
Gadamer; nó “dung hợp” trong đó cả phần nào đó lập trường của giải thích học
truyền thống lẫn quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc Praha trong nghiên cứu văn học.
Điều cuối cùng ở trên có thể tìm thấy trong bài nghiên cứu Iphigenie của Racine và
của Goethe của Jauss
(12)
.
Sự khác biệt chủ yếu giữa lịch sử tiếp nhận của Jauss và lịch sử tác động của
Gadamer theo chính sự nhìn nhận của Jauss là ở chỗ ông không tán thành việc
Gadamer nâng khái niệm cái cổ điển lên thành nguyên mẫu của mọi sự trung giới lịch
sử giữa quá khứ và hiện tại. Lý do mà Jauss đưa ra là làm như vậy thì không nhất
quán trong việc vận dụng lôgic hỏi và đáp, bởi theo Jauss quan hệ hỏi – đáp “có tính
chất cấu thành đối với mọi sự lưu truyền lịch sử” cho nên nó cũng phải được vận
dụng vào quan niệm về cái cổ điển. Nếu Gadamer cho rằng “những gì là cổ điển thì
không đòi hỏi phải cần đến sự khắc phục khoảng cách lịch sử bởi nó thực hiện sự
khắc phục này trong sự trung giới thường xuyên”
(13)
thì ngược lại Jauss quan niệm
rằng đối với văn bản cổ điển không phải không cần đi tìm câu hỏi mà nó trả lời cũng
như trước một tác phẩm cổ điển ý thức tiếp nhận cũng không được gỡ bỏ khỏi cái
nhiệm vụ là phải nhận thức “mối quan hệ độ căng giữa văn bản và hiện tại” mà chính
Gadamer đã đề ra cho sự trung giới lịch sử
(14)
. Và nói chung theo Jauss cả truyền
thống nghệ thuật cũng đòi hỏi một mối quan hệ đối thoại của hiện tại với quá khứ mà
theo đó tác phẩm quá khứ không phải là một sự kiện tự trung giới cho mình, cũng
không phải là hiện tượng tự phát tiết hay hữu xạ tự nhiên hương. Truyền thống nghệ
thuật chỉ có thể trả lời và “nói với chúng ta điều gì đó” nếu người quan sát hiện tại
nêu lên câu hỏi, câu hỏi đó sẽ đưa tác phẩm từ sự tách biệt quá khứ quay trở lại (188).
Về cơ bản có thể cho rằng quan niệm như thế về mối quan hệ giữa hiện tại với
di sản quá khứ là không sai. Tuy nhiên nhìn sâu hơn vào sự nhất quán của Jauss trong
việc áp dụng lôgic hỏi và đáp vào mối quan hệ giữa hiện tại và quá khứ có liên quan
đến một phương diện khác: quan niệm nghệ thuật của ông. Trước tiên là quan niệm
về cái mới, cái hiện đại, cái phủ định. Tác phẩm nghệ thuật chỉ có giá trị khi nó xây
dựng được một tầm đón đợi mới dẫn đến một sự thay đổi tầm, tức khi nó đưa lại một
cái mới, phủ định tác phẩm trước nó qua việc nhận ra vấn đề mà tác phẩm trước để
lại. Ngay cả nghệ thuật cổ điển vào thời kỳ nó hình thành cũng chưa xuất hiện là “cổ
điển” mà chỉ như một “cách nhìn mới”, cái nhìn khác trước và như thế nó “có thể đã
tiền tạo những kinh nghiệm mới” (187,188). Nó chỉ trở thành cổ điển từ cái nhìn của
thời sau và do đó đã “che đậy tính phủ định nguyên thuỷ của nó và chúng ta buộc
phải lấy lại “tầm câu hỏi đích thực” chống lại tính chất cổ điển đã được chính thức
hoá”(187).
Mặt khác việc Jauss bác bỏ sự khẳng định của Gadamer về tính chất “nguyên
mẫu” của nghệ thuật cổ điển - một khái niệm được Gadamer tiếp thu từ Hegel - đối
với sự trung giới lịch sử còn do trong quan niệm nghệ thuật này hàm chứa khái niệm
mô phỏng (tạm dịch từ Mimesis) đã được Gadamer giải thích là sự “tái nhận thức”
trong cách trình bày mang tính chất bản thể luận của ông này về kinh nghiệm nghệ
thuật khi khẳng định: “điều mà người ta thực sự trải nghiệm và nhắm tới ở một tác
phẩm nghệ thuật (…) là nó chân thật như thế nào, nghĩa là người ta nhận thức và tái
nhận thức cái gì cũng như chính bản thân mình đến mức độ nào”
(15)
(187). Rõ ràng
Jauss không công nhận khái niệm mô phỏng trong quan niệm nghệ thuật nói chung và
nghệ thuật cổ điển nói riêng vì nó nói đến tính chân thật, sự nhận thức và tái nhận
thức, không phù hợp với quan niệm nghệ thuật có tính chất tiền phong và hiện đại
chủ nghĩa của ông. Đương nhiên phần nào Jauss cũng có lý khi ông cho rằng nó
không thích hợp với thời kỳ nghệ thuật trung cổ và càng không phù hợp với thời kỳ
hiện đại cũng như cho rằng “tác phẩm nghệ thuật cũng có thể đưa lại sự nhận thức
không phù hợp với sơ đồ Platon khi nó tiên đoán những kinh nghiệm tương lai, khi
nó suy tưởng ra những mô hình quan niệm và mô hình ứng xử còn chưa được thử
thách hay chứa đựng câu trả lời cho những câu hỏi mới đặt ra” (187). Tất cả những
điều này không có gì phải nói nữa. Tuy nhiên, thực tiễn nghệ thuật thế giới hiện nay
cũng không hề chối bỏ quan niệm nghệ thuật theo mô hình mô phỏng như trong lý
thuyết của Jauss vì nó vẫn còn góp phần tạo nên những giá trị nghệ thuật đích thực.
Vả chăng hiểu mô phỏng như thế nào vẫn còn là một vấn đề.