Vấn đề tầm đón đợi và xác định tính
nghệ thuật trong Mỹ học tiếp nhận của
Hans Robert Jauss
Nó gợi nhớ lại những gì đã đọc, đưa độc giả vào một thái độ tình cảm nhất định” và với
sự khởi đầu của nó nó tạo nên những sự chờ đợi về “đoạn giữa và đoạn cuối”
(16)
. Nhận thức
như vậy nên Jauss cho rằng quá trình tâm lý của sự tiếp nhận một văn bản trong tầm đầu tiên
của kinh nghiệm thẩm mỹ hoàn toàn không phải là kết quả độc đoán của những ấn tượng chủ
quan mà là thực hiện những chỉ dẫn nhất định trong qua trình thụ cảm có hướng dẫn. Cái thiên
hướng đặc trưng đối với một tác phẩm nào đó mà tác giả dự tính ở công chúng của mình, nếu
thiếu những tín hiệu rõ rệt, tức những chỉ dẫn, theo Jauss, cũng có thể tìm được qua ba yếu tố
có tính chất tiền đề chung sau đây:
- “từ những quy phạm quen thuộc hay thi pháp nội tại của thể loại”.
- “từ những mối quan hệ ngầm ẩn đối với những tác phẩm đã quen biết của môi trường
lịch sử văn học”.
- “từ sự đối lập giữa hư cấu và hiện thực, giữa chức năng thi ca và chức năng thực tiễn
của ngôn ngữ”
(17)
.
Để làm rõ thêm việc có thể khách quan hóa tầm đón đợi, Jauss còn nêu lên vấn đề về
sự thay đổi tầm có liên quan đến việc xác định tính nghệ thuật và tính lịch sử của văn học ở
những luận điểm sau. Theo Jauss, sự chờ đợi của người đọc khi đọc một tác phẩm theo
những quy tắc nhất định của thề loại hay của kiểu văn bản có thể giữ nguyên, bị thay đổi,
được chuyển hướng hay cũng có thể bị giải bỏ một cách mỉa mai trong quá trình đọc tiếp
theo. Dựa theo W.D. Stempel, Jauss cho rằng có thể xác định tầm đón đợi có trước của một
văn bản như là chất “đồng vị” của hệ đọc - nó tăng lên với mức độ như sự biểu đạt, biến
thành tầm đón đợi nội tại, có tính chất cú pháp. Nếu ta xác định tầm đón đợi ấy như thế thì
quá trình tiếp nhận có thể miêu tả được trong sự mở rộng của một hệ thống ký hiệu học diễn
ra giữa sự phát triển hệ thống và sửa chữa hệ thống. Như thế theo Jauss quá trình lập tầm và
thay đổi tầm liên tục cũng quy định mối quan hệ giữa từng văn bản riêng lẻ với cả loạt văn
bản tạo nên thể loại. Trong quan niệm của Jauss, văn bản mới luôn gợi lên cho người đọc
những sự chờ đợi và các quy tắc chơi đã quen biết từ các văn bản trước đó mà giờ đây được
biến cách, sửa chữa, thay đổi hay chỉ được tái tạo lại. Biến cách và sửa chữa quy định không
gian chơi của một cấu trúc thể loại, thay đổi và tái tạo lại quy định ranh giới của nó. Sự tiếp
nhận giải thích một văn bản với Jauss phải được đặt trên cơ sở môi trường kinh nghiệm thuộc
thụ cảm thẩm mỹ.
Sự xóa bỏ tầm đón đợi quen thuộc xây dựng tầm đón đợi mới nhằm đạt đến những
tác động thi ca mới được Jauss xem như là trường hợp lý tưởng về sự có thể khách quan
hóa hệ quy chiếu lịch sử văn học. Ông nêu lên ba thí dụ điển hình: đó làDon
Quijote của Cervantes, Jacques le fataliste của Diderot, Chinères của Nerval. Ở những tác
phẩm này luôn có một điểm chung là khi mở đầu chúng mô phỏng các quy ước về thể loại,
phong cách và hình thức của các tác phẩm trước đó để gợi lại tầm đón đợi quen thuộc của
người đọc rồi sau đó từng bước xóa bỏ nó
(18)
.
Sự có thể khách quan hóa tầm đón đợi ấy là cơ sở để Jauss xây dựng quan niệm của ông
về tính nghệ thuật của tác phẩm văn học. Điều quan tâm của ông là mỹ học tiếp nhận phải làm
sao để từ những phản ứng của công chúng đầu tiên của một tác phẩm xác định tính nghệ thuật
của nó. Có thể nói yêu cầu này là một trong những nhiệm vụ trung tâm của những cố gằng lý
luận của Jauss ở công trình này. Nó có vị trí khá quan trọng trong toàn bộ hệ thống lý thuyết
của mỹ học tiếp nhận của ông.
Ở phần trên chúng tôi đã đề cập đến sự phê phán của Jauss đối với các quan điểm biên
soạn lịch sử văn học trước ông cũng như phê phán lý luận văn học của chủ nghĩa hình thức và
lý luận văn học mácxit. Sự phê phán này, đặc biệt là đối với lý luận văn học mácxit được Jauss
trình bày theo cách hiểu và giải thích riêng của ông với mục đích nhằm tạo ra xuất phát điểm
cho việc xây dựng một lý thuyết văn học mới: mỹ học tiếp nhận, và nhằm trên cơ sở của mỹ
học đó xác lập nền tảng cho việc biên soạn lịch sử văn học theo phương pháp mới. Những sai
lầm của các quan điểm và lý luận văn học trên được Jauss cho là do bắt nguồn từ các mỹ học
sản xuất và mỹ học miêu tả, tức xuất phát từ các yếu tố của sự phát sinh và hình thành và vì thế
chúng hoặc là coi nhẹ tính lịch sử ở phía này hoặc là xem thường tính nghệ thuật ở phía kia,
cho nên chỉ có với mỹ học tiếp nhận của Jauss mới có thể khắc phục được cái thế khó xử của
hai lý luận văn học đó. Ông viết: “Chúng ta hãy nhìn trở lại cái thế khó xử tương hỗ của lý luận
văn học của chủ nghĩa hình thức và lý luận văn học mácxit thì sẽ thấy rằng có một hệ quả mà
cả hai không rút ra được. Nếu ở phía này sự tiến triển của văn học có thể được nắm bắt trong sự
biến đổi lịch sử của các hệ thống và ở phía kia lịch sử thực tiễn có thể được quan niệm trong sự
kết nối có tính chất quá trình của các hoàn cảnh xã hội thì phải chăng không thể đặt “dãy văn
học” và “dãy phi văn học” vào cùng một mối tương quan bao trùm cả mối quan hệ văn học và
lịch sử mà không cần gò ép văn học vào trong chức năng phản ánh hay chức năng giải thích
thuần túy bằng cách từ bỏ tính chất nghệ thuật của nó”
(19)
. Vì thế trong công trình lý luận quan
trọng này của mình Jauss phải cố gắng chỉ ra được trong lý thuyết của ông người ta có thể tìm
thấy cái cách thức xác định cả hai tính chất đó của văn học. Về mặt xác định tính lịch sử của
văn học ở Jauss chúng tôi sẽ đề cập đến trong một dịp khác. Ở đây, về mặt xác định tính nghệ
thuật hay giá trị thẩm mỹ của văn học, tuy phê phán chủ nghĩa hình thức, song vẫn giống với
chủ nghĩa hình thức, Jauss cũng đặt trọng tâm ở sự cách tân, ở cái mới. Theo đó giá trị thẩm
mỹ của một tác phẩm là ở sự cách tân, ở chất lượng khác biệt của nó. Như vậy có thể thấy
Jauss đã gắn kết cái nguyên lý cũ về sự thay đổi của các thế hệ văn học với quan điểm về sự lạ
hóa trong văn học được chủ nghĩa hình thức Nga đề ra. Tuy nhiên giữa cách xem xét của chủ
nghĩa hình thức và của Jauss có sự khác biệt cần phải được nhìn thấy. Đó là ở Jauss chất lượng
thẩm mỹ của tác phẩm mới so với tác phẩm cũ không được đo trực tiếp qua trình tự của các tác
phẩm, qua sự thay thế tự động, sự diễn tiến tuần tự, sự đối lập máy móc tác phẩm cũ - tác phẩm
mới mà là qua sự khác biệt giữa tầm đón đợi cũ và tầm đón đợi mới. Điều đó có nghĩa là lối
xem xét theo mỹ học tiếp nhận của Jauss đặt trọng tâm ở vai trò của người tiếp nhận, của công
chúng trong khi lối xem xét theo chủ nghĩa hình thức chú ý đến trình tự các tác phẩm, chú ý
đến chất lượng nghệ thuật được thể hiện trong tác phẩm. Nói rõ hơn ở Jauss chất lượng nghệ
thuật được đo bằng sự khác biệt giữa tầm đón đợi của những tác phẩm đã qua được lưu giữ
trong ý thức của người tiếp nhận với tính cách là kinh nghiệm thẩm mỹ có sẵn với “sự thay đổi
tầm” do sự xuất hiện của một tác phẩm mới. Nói rằng tính chất nghệ thuật của một tác phẩm
văn học được đo bằng sự va đập của tác phẩm mới vào tầm đón đợi của những tác phẩm đã
qua được lưu giữ trong ý thức của người đọc, điều đó có cái gì gần giống với cái định đề có
tính chất duy tâm của R.G. Collingwood, được Jauss dẫn ra ở đầu chương 6, nói rằng “lịch sử
không phải là cái gì khác hơn cái quá khứ diễn lại trong tâm trí của nhà sử học”. Điều này có
thể thấy rõ hơn khi Jauss đi vào xác định tính lịch sử của văn học.
Ở bình diện chung, Jauss khẳng định: “Cái cách thức mà một tác phẩm văn học ở vào
cái thời điểm của sự xuất hiện của nó đã lấy lại, vượt qua, làm thất vọng hoặc phủ nhận sự đón
đợi của công chúng đầu tiên của nó rõ ràng tạo ra một tiêu chí cho việc xác định giá trị thẩm
mỹ của nó”
(20)
. Song để đưa ra tiêu chí cụ thể hay để đi đến chỉ ra được tác phẩm có tính nghệ
thuật và tác phẩm không có tính nghệ thuật Jauss đề ra khái niệm khoảng cách thẩm
mỹ (aesthetische Distanz). Về những tác phẩm không có giá trị nghệ thuật Jauss có cách quy
định của ông. Theo đó: “cái khoảng cách giữa tầm đón đợi và tác phẩm, giữa cái đã quen thuộc
của kinh nghiệm thẩm mỹ lâu nay và sự “thay đổi tầm” đòi hỏi phải có với sự tiếp nhận tác
phẩm mới xác định theo mỹ học tiếp nhận tính nghệ thuật của tác phẩm văn học: trong chừng
mực khoảng cách này thu hẹp lại, ý thức tiếp nhận không buộc phải thay đổi theo tầm của kinh
nghiệm chưa được biết đến thì tác phẩm sẽ đến gần lĩnh vực nghệ thuật “nấu nướng”
(“kulinarische” Kunst) hay nghệ thuật giải trí”
(21)
. Loại nghệ thuật này được Jauss nhận định là
không đòi hỏi một sự thay đổi tầm nào mà là đáp ứng ngay những đón đợi mà khuynh hướng
thị hiếu đang thịnh hành vạch sẵn bằng cách nó thỏa mãn sự đòi hỏi về việc tái tạo lại cái đẹp
quen thuộc, xác nhận những cảm xúc thân thiết, thừa nhận những mong ước tưởng tượng,
v.v… Có thể thấy qua đó Jauss đã nêu ra một số đặc điểm của văn học giải trí, loại văn học
được chế biến theo khẩu vị quen thuộc với những công thức “nấu nướng” đã định hình. Một
loại văn học - và nói chung cả nghệ thuật nữa - phổ biến khá rộng ở phương Tây từ khi xuất
hiện thị trường văn học và công nghệ văn hóa và được gọi chung là văn học hay nghệ thuật đại
chúng. Qua đó có thể thấy Jauss coi đây là thứ văn học không thuộc loại có giá trị thẩm mỹ
mặc dù như đã nói nó rất phổ biến, có số lượng độc giả đông đảo và không ít khi có những tác
phẩm trong số đó trở thành những cuốn sách bán chạy nhất. Như vậy về phương diện này đối
với mỹ học tiếp nhận của Jauss quan trọng chưa hẳn là ở số lượng người đọc mà là ở tầm đón
đợi và khoảng cách thẩm mỹ. Cùng với cách xác định đó, ngược với loại văn học trên, tác
phẩm văn học có tính chất nghệ thuật, có giá trị thẩm mỹ là tác phẩm mà khoảng cách giữa nó
và tầm đón đợi của người đọc đầu tiên của nó không bị thu hẹp lại mà có thể nói là doãng rộng
ra, nói cách khác nó đối lập với sự đón đợi của công chúng đầu tiên của nó. Và xét ở góc
độ lịch sử tiếp nhận - điều mà ở đây Jauss quan tâm - ta thấy ông nhấn mạnh đến tầm đón
nhận được tái lập lại, tức là nói đến việc xây dựng lại tầm đón đợi của người đọc đầu tiên của
tác phẩm quá khứ. Từ đó ông nhận định: “Cái tầm đón đợi có thể tái lập lại của một tác phẩm
cho phép xác định tính chất nghệ thuật của nó qua cách thức và mức độ tác động của tác phẩm
vào một công chúng dự kiến. Nếu ta biểu thị khoảng cách giữa tầm đón đợi có sẵn và sự xuất
hiện của một tác phẩm mới - mà sự tiếp nhận thông qua sự phủ định những kinh nghiệm quen
thuộc hoặc thông qua việc làm cho ý thức được những kinh nghiệm được phát biểu lần đầu tiên
có thể dẫn đến hệ quả là sự “thay đổi tầm” - là khoảng cách thẩm mỹ thì ta có thể chất thể hóa
khoảng cách này qua phổ của những phản ứng của công chúng và sự đánh giá của phê bình (sự
thành công tự phát, sự từ chối hoặc tức giận, sự đồng ý riêng lẻ, sự nhận hiểu dần dần hay
muộn màng)”
(22)
.
Tuy nhiên Jauss cũng lại cho rằng sự thay đổi tầm này của tác phẩm có thể không tồn tại
mãi mãi và khoảng cách thẩm mỹ mà ban đầu được cảm nhận một cách vui sướng hay lạ lẫm
như là một cái nhìn mới mẻ thì đối với những người đọc về sau có thể sẽ biến mất đến mức
tính phủ định ban đầu của tác phẩm trở nên bình thường và đi vào tầm đón đợi của kinh
nghiệm thẩm mỹ tương lai như là sự đón đợi giờ đây đã trở nên quen thuộc. Hiện tượng “thay
đổi tầm lần thứ hai” này theo Jauss đặc biệt rơi đúng vào tính chất cổ điển của những tác phẩm
được gọi là kiệt tác, và cái hình thức đẹp đẽ đã trở nên đương nhiên cũng như cái “ý nghĩa vĩnh
viễn” dường như không có vấn đề gì của chúng, xét theo mỹ học tiếp nhận đã đưa chúng tiếp
cận một cách nguy hiểm với thứ nghệ thuật “nấu nướng” có sức thuyết phục không hề bị trở
lực và dễ thưởng thức. Điều đó có nghĩa là chúng đã đánh mất tính thẩm mỹ của chúng. Và
chúng ta phải có sự cố gắng đặc biệt để đọc chúng ngược lại với cái kinh nghiệm đã trở nên
quen thuộc nhằm tìm lại tính chất nghệ thuật của chúng. Có thể thấy qua đây phần nào thể hiện
quan niệm về truyền thống của Jauss khác với của Gadarmer. Và sự khẳng định của Jauss về
sự đánh mất tính nghệ thuật của các kiệt tác quá khứ không hoàn toàn đúng. Đương nhiên
chúng ta nên luôn luôn đọc lại các kiệt tác xưa với tinh thần tìm kiếm phát hiện những vấn đề
mới vốn sẵn có trong tiềm năng nghĩa phong phú và đa dạng của chúng với cái nhìn của thời
đại mình. Và như thế những kiệt tác quá khứ có thể luôn giữ được tính mới mẻ hấp dẫn của
chúng. Mặt khác cũng có thể có những ý nghĩa nào đó của những tác phẩm xuất sắc này vẫn
còn tồn tại lâu bền cho đến tận hôm nay và mai sau bởi vì những vấn đề mà chúng đặt ra vẫn
còn là những vấn đề của chúng ta hôm nay và có thể của cả những thời đại sau. Chúng không
bị mòn vẹt đi, không trở nên bình thường và do đó không nhàm chán. Điều này có thể chứng
minh được qua nhiều tác phẩm cổ điển của văn học thế giới, trong đó có văn học Việt Nam.