Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RƯỢU pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.27 KB, 23 trang )

Hèm rượu Whisky thường có trọng lượng riêng trong khoảng từ 1.050-1.080, giá trị
pH khoảng 5.0, hàm lượng axit tổng số là 0.1% và góc quay quang cực là +30˚. Sau khi cấy,
hàm lượng nấm men là 5-20 triệu tế bào/ml. ở các nhà máy rượu Bắc Mỹ, số lượng vi khuẩn
biến đổi theo sự phát triển của khuẩn lactobacillus trong dịch cấy. Ở Scotland và Ireland, số
lượng vi khuẩn lại biến đổi theo mức độ vệ sinh của nhà máy và sự nhiễm khuẩn của các
nguyên liệu thô. Trong lên men ngũ cốc, do có chứa một lượng lớn chất rắn dạng huyền phù
nên tạo ra ít bọt. Tuy nhiên trong quá trình lên men hầu hết các rượu malt whisky Scotch, chỉ
có một tỷ lệ nhỏ chẩt rắn dạng huyền phù trong dịch ủ rượu được giữ lại trong thùng lên men.
Quá trình lên men này có xu hướng sủi bọt và máy chưng cất dùng để chống hiện tượng sủi
bọt. Xà phòng được sử dụng trong một số nhà máy chưng cất (Ross, 1970, McGuire, 1973) để
chống sủi bọt và người ta cho rằng silicon cũng có thể được tiến cử là chất kiểm soát sủi bọt
trong lên men bia (Evans, 1972; Vernon và Rose, 1976).
Thời gian tối ưu của quá trình lên men điển hình ở một nhà máy rượu malt whisky
Scotch được miêu tả trong hình 6. Quá trình lên men xảy ra mạnh mẽ trong 30h đầu, trong
suốt thời gian lên men này, trọng lượng riêng giảm xuống 1.000 hoặc thấp hơn và góc quay
quang cực gần bằng 0. Như trong lên men bia, các đường trong hèm rượu được dùng trong
một chuỗi riêng biệt, đường glucoza và fructoza sẽ được lên men trước, sau đó là đường
maltoza và maltotriose. Việc loại bỏ đường trong quá trình lên men của hèm rượu whisky ngũ
cốc Scotch được thể hiện ở hình 7 (Pyke, 1965). Qua 30h đầu, giá trị pH sau khi giảm xuống
khoảng 4.2 lại tăng lên khoảng 4.5. Trong suốt 30h đầu, trọng lượng riêng giảm với tốc độ
0.5˚/h, đồng thời nhiệt tăng rất mạnh.
Trong khi nhiều nhà máy rượu qui mô lớn hơn có các thùng lên men lắp các ống xoắn ruột gà
được làm mát thì hầu hết các nhà máy rượu malt whisky nha dạng nồi (pot-malt whisky) có
nhiệt độ lên men có thể tăng và đạt 35-37˚C khi kết thúc lên men lại không có thiết bị này
hoặc nếu có lắp thì cũng không hiệu quả. Máy chưng cất có liên quan đến nhiệt độ tăng trong
suốt quá trình lên men vì nó có thể làm cho quá trình lên men bị ngừng lại hoặc bị “tắc”.
Nhiệt độ tăng có thể được kiểm soát bằng cách đặt nhiệt độ ban đầu thấp hơn hoặc bằng cách
sử dụng những chủng ban đầu có trọng lượng thấp hơn do sự thuỷ phân glucoza của đường là
một quá trình sinh nhiệt. Chủng Sacch.cerevisiae rất phù hợp cho sự lên men của các nhà máy
rượu malt whisky vì chúng có thể lên men một cách hiệu quả trong một khoảng nhiệt độ rộng.
Quá trình lên men thường tiếp tục diễn ra ít nhất 36 giờ nữa và thường lâu hơn thời gian để


hàm lượng ethanol đạt được 9-11% (v/v). Trong các nhà máy rượu có quy mô lớn hơn, đặc
biệt là những nhà máy ở Bắc Mỹ, CO
2
sinh ra được thu lại, hoá lỏng và bán lẻ. Các nhà máy
rượu nhỏ hơn, đặc biệt là những nhà máy rượu malt whisky dạng nồi (pot malt-whisky) ở
Scotland thì lại thường không có công đoạn này.
Việc xem xét sự khác nhau giữa lên men bia và rượu whisky đã được thực hiện. Vì các
hèm rượu ở các nhà máy rượu whisky không được ướp hublông, do đó các thành phần hoa
hublông không thể góp phần vào chất lượng cảm quan của sản phẩm cuối cùng. Hai sự khác
biệt nữa là quá trình tạo hèm rượu whisky trong các nhà máy rượu so với các nhà máy bia
cũng có ảnh hưởng quan trọng đến thành phẩm whisky.
Hèm rượu trong các nhà máy rượu whisky không được đun sôi, do đó tại nhiệt độ ủ
rượu có thể thấy rõ sự hoạt động của một số enzim và một số vi sinh vật cũng có thể sống sót
ở nhiệt độ đó sẽ tiếp tục hoạt động trong suốt quá trình lên men. Enzim giới hạn dextrinase
trong hèm rượu không được đun sôi nhờ nấm men sẽ tiếp tục hoạt động làm tăng nồng độ
đường trong quá trình lên men. Hopkins và Wiener (1955) đã tính toán rằng, chỉ riêng sự có
mặt của amylase, nấm men không thể làm giảm hàm lượng tinh bột cuối xuống tương đương
với 12-16%.
Một kết quả quan trọng khác của việc sử dụng các điều kiện không vô trùng trong quá
trình lên men ở các nhà máy rượu là sự hoạt động của vi khuẩn nhiễm vào trong hèm rượu sẽ
được phát huy bởi nhiệt độ tương đối cao làm cho nhiệt độ lên men có thể tăng. Ngoài vi
khuẩn axit lactic môi trường (flora) còn có các chủng vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Qui
mô của môi trường lên mẹn phụ thuộc vào một số nhân tố bao gồm phạm vi mà vi khuẩn axit
lactic phát triển trong quá trình cấy men, kích cỡ của quần thực vật còn dựa vào các nguồn
nguyên liệu ngũ cốc, tiêu chuẩn vệ sinh trong nhà máy rượu. Tuy nhiên, không nghi ngờ rằng
việc kiểm soát hoạt động của quần thể vi khuẩn này, đặc biệt là sự hoạt động của vi khuẩn
axit lactic cùng với sự bài tiết của các hợp chất cũng góp phần vào chất lượng cảm quan của
thành phẩm rượu whisky.
Trong suốt 30 giờ đầu hay trong suốt quá trình lên men rượu malt whisky, quá trình
lên men diễn ra mãnh liệt và có lượng lớn vi khuẩn hiếu khí chết. Tuy nhiên, môi trường này

lại là lý tưởng cho sự phát triển của vi khuẩn hiếm khí hay siêu vi khuẩn hiếm khí, phần lớn vi
khuẩn axit lactic (chủ yếu là các chủng Lactobacillus brevis, L.fermenti và Streptococcus
lactic) cho nồng độ axit lactic trong rượu cái cuối (final wash) có thể đạt 30mg/l (MacKenzie
và Kenny, 1965). Rất ít tài liệu về quần thể vi sinh vật trong lên men rượu whisky được công
bố. Tuy nhiên gần đây Bryan-Jones (1976) đã xác định được vi khuẩn Lactobacillus
fermentum, L. brevis, L.delbrueckii, L. plantarum, L. casei và một vi khuẩn tương tự L.
collinodies từ quá trình lên men của một nhà máy rượu Scotch, đồng thời cũng tìm thấy
Leuconostic spp., Streptococcus lactis và Pediococcus cerevisiae. Sự sinh trưởng của vi
khuẩn axit lactic có thể được tăng lên do nấm men sản sinh những chất dinh dưỡng nitơ khi
kết thúc giai đoạn lên men mãnh liệt. Kulka (1953) đã chứng minh đặc tính lý tưởng của nấm
men là sản phẩm tự tiêu đối với sự sinh trưởng của lactobacilli. Hoạt động của vi khuẩn trong
hèm rượu lên men cũng dẫn đến làm mất một số axit, sự phát triển tốt của nấm men tạo ra axit
citric và axit malic nhưng MacKenzie và Kenny (1965) lại cho rằng nồng độ của các axit này
trong hèm rượu nhà máy rượu malt thấp hơn của hèm rượu bia chỉ một phần bị mất là do vi
khuẩn.
Thông thường, qui mô của quần thể vi khuẩn trong hèm rượu lên men có thể rất lớn và
điều này gây nên nhiều vấn đề do việc tận dụng vi khuẩn của đường mà dẫn đến việc giảm
tổng thể trong sản lượng rượu. Ngoài ra, vi khuẩn có thể bài tiết ra những chất không mong
muốn và cả các ion hiđrô làm cho giá trị pH của hèm rượu bị giảm xuống quá thấp, do đó
cung cấp điều kiện dưới điểm cực thuận cho hoạt động của các enzim nhất định. Những ví dụ
về các chất độc hại cho sức khoẻ mà có thể được sinh ra bởi vi khuẩn là H
2
S và các hợp chất
chứa lưu huỳnh khác (Anderson et al., 1972). Lactobacilli cũng có thể chuyển hoá glyxerin
được tạo thành từ nấm men trong suốt quá trình lên men thành β-hydroxypropionaldehyt và
sau đó β-hydroxypropionaldehyt bị phân cắt trong quá trình trưng cất tạo acrolein (Harrison
và Graham, 1970), từ đó tạo ra vị hăng, khê và mùi hạt tiêu trong whisky (Lyons, 1974).
Trong một bài báo gần đây, Dolan (1976) đã tập trung vào các vấn đề nảy sinh trong các nhà
máy rượu malt whisky khi có một nồng độ vi khuẩn cao vượt mức trong hèm rượu.
Bảng 3

Sự thay đổi nồng độ vi khuẩn trong suốt quá trình lên men khi có sự nhiễm khuẩn ít và
nhiều trong rượu cái malt whisky Scotch - Nguồn Dolan (1976)
Nhiễm khuẩn ít Nhiễm khuẩn nhiều
Vi khuẩn/ml Vi khuẩn/ml
Thời gian
(h)
Khuẩn que
Gram (-)
Khuẩn cầu
Gram (-)
Lactobaccil
i
Khuẩn que
Gram (+)
Khuẩn cầu
Gram (+)
Lactobaccili
Lúc đầu 2000 3700 n.d. 52000 60 0.6 x 10
6
10 150 n.d. n.d. n.d. n.d. 2.3 x 10
6
20 n.d. n.d. 1.53 x 10
6
n.d. n.d. 18.8 x 10
6
30 n.d. n.d. 10.2 x 10
6
n.d. n.d. 96 x 10
6
40 n.d. n.d. 10.2 x 10

6
n.d. n.d. 502 x 10
6
50 n.d. n.d. 50 x 10
6
n.d. n.d. 1000 x 10
6
n.d. thể hiện vi khuẩn không bị nhiễm.
Bảng 3 biểu diễn sự thay đổi nồng độ vi khuẩn Gram âm và Gram dương và sự phân cắt của
vi khuẩn lactobacilli trong suốt quá trình lên men của một lượng tối thiểu tương đối hèm rượu
bị nhiễm khuẩn. Trong thời gian lên men tối ưu của hèm rượu nhà máy rượu malt khi so sánh
hèm rượu bị nhiễm vi khuẩn không mong muốn (hình 8) với hèm rượu đạt yêu cầu (hình
6,tr.664) thì trong dịch ủ hàm lượng các axit tăng sau 35h và góc quay quang cực thấp hơn
sau khoảng 40h. Trong lên men thường có sự khác biệt trong khoảng 4h từ thời điểm mà có
thể nhận thấy sự tăng hàm lượng axit đến giá trị pH của quá trình lên men bắt đầu giảm,
Dolan (1976) cho rằng đó là do điện dung đệm của rượu cái (wash). Số liệu trong bảng 4 biểu
diễn sự nhiễm khuẩn ở những cấp độ khác nhau sau 30h lên men hèm rượu của nhà máy rượu
malt về mặt sản lượng, và chúng thể hiện sự thiệt hại về tài chính kết hợp với máy chưng cất.
Bảng 4
Ảnh hưởng của các mức độ nhiễm khuẩn đến sự mất mát rượu diễn ra sau quá trình lên
men hèm rượu malt-whisky Scotch. Nguồn Dolan (1976)
Mức độ nhiễm
khuẩn
Vi khuẩn/ml
trong 30h của
rượu cái cũ
Sản lượng rượu
thất thoát tương
đối (%)
Mất mát tương đối tính theo đồng

bảng Anh (nghìn)
Ở giai đoạn
đóng chai
Đóng thuế
a 0 – 1 < 1 < 17 < 238
b 1 – 10 1 – 3 17 – 51 238 – 714
c 10 – 100 3 – 5 51 – 85 714 – 1190
d > 100 > 5 > 85 > 1190
Dolan (1976) đưa ra trong hèm rượu tại thời điểm bắt đầu lên men giới hạn có khoảng 1.500
vi khuẩn, 50 Gram dương và 10 axit lactic-tạo vi khuẩn trong 10
6

tế bào nấm men .
Rất ít tài liệu được công bố về ảnh hưởng của các chất rắn tồn tại trong hèm rượu lên
men. Tuy nhiên, các nhà vi trùng học biển từ lâu đã biết sự có mặt của các phân tử chất rắn
trong một khối chất lỏng trung bình có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của vi khuẩn, có thể là
do nồng độ chất dinh dưỡng tại mặt phân cách lỏng-rắn (Heukelekian và Heller, 1940; Zobell,
1943). Hơn thế nữa, Crowell và Guymon (1963) đã phát hiện thấy rằng sự tạo thành các rượu
bậc cao hơn trong quá trình lên men nước nho ép được kích thích vỏ nho hay các chất rắn trơ.
Beech (1972) đã tiến hành các quan sát tương tự trong lên men rượu táo. Merritt (1967) chỉ
trong một báo cáo chi tiết về vai trò của chất rắn trong lên men ở các nhà máy rượu whisky,
ông đã nhấn mạnh rằng nồng độ chất rắn khô lý tưởng là 50mg/100ml, mặc dù rõ ràng phần
lớn sẽ phụ thuộc vào việc thiết kế các chậu và việc sử dụng các thùng ủ men trong các nhà
máy rượu tư nhân. Ông cũng đưa ra báo cáo rằng nồng độ của các chất rắn khô thấp khoảng
5mg/100ml sẽ làm tăng sự phát triển của nấm men và các chất rắn huyền phù cũng làm tăng
tốc độ bài tiết ethanol và glycerol. Đồng thời cũng có ảnh hưởng đến sự bài tiết các rượu bậc
cao bởi nấm men (bảng 5). Ngoài n-propanol, sự bài tiết tất cả các rượu bậc cao đều tăng khi
có sự hiện diện của các chất rắn, đặc biệt đáng chú ý là sự ảnh hưởng của isobutanol và 2-
methylbutanol. Thật đáng tiếc là nhiều nghiên cứu đã không công bố khía cạnh hấp dẫn này
trong lên men ở các nhà máy rượu whisky.

Bảng 5
Ảnh hưởng của các chất rắn trong hèm rượu đến sự tạo thành các rượu bậc cao trong
suốt quá trình lên men hèm rượu whisky. Nguồn Merritt (1967)
Hèm rượu
Thành phần
chất rắn
Sự tạo thành các rượu bậc cao (mg/100ml)
n-Propanol Isobutanol
2-Methyl-
butanol
3-Methyl-
butanol
Tổng
1 0
25
1.5
1.5
4.2
6.5
3.0
4.4
8.0
8.8
16.7
21.2
2 0
35
2.8
3.3
4.5

6.6
2.7
3.7
9.5
10.1
19.5
23.7
3 0
50
1.7
1.7
4.8
6.8
3.1
4.6
8.0
9.5
17.6
22.6
D. Sự chưng cất
Liệu hèm rượu lên men có được chưng cất trong máy chưng cất như trong sản xuất
malt Scotch và rượu whisky Ai Len hoặc được chưng cất trong một cái máy chưng cất liên tục
dựa trên thiết kế Coffey như trong sản xuất các loại rượu whisky khác hay không? Mục tiêu là
loại bỏ có chon lựa các thành phần dễ bay hơi, đặc biệt là những thành phần tạo hương thơm
hoặc các chất tương tự từ các thành phần không tạo hương thơm, và nhằm tạo ra thành phần
các chất phụ gia mang hương thơm từ các phản ứng hoá học diễn ra trong máy chưng cất.
Ngoài ra, để thuận tiện nhất cho việc thảo luận về chưng cất rượu whisky người ta phân chia
các phần của máy chưng cất bằng nồi và tiếp tục sự chưng cất.
1. Máy chưng cất dạng Pot (Pot – Still)
Máy chưng cất dạng Pot bằng đồng có cấu tạo ít thay đổi, ngoại trừ việc thay đổi kích thước,

các kết cấu của máy vượt trội hơn bất kỳ nhà máy malt Scotch hay nhà máy rượu whisky Ai
Len nào. Theo truyền thống, các máy chưng cất hình củ hành được đặt ở vị trí thấp và có một
cái ống hay lynearm từ các bộ phận máy chưng cất thông qua các bức tường nhà máy hình
thành dạng cuộn hoặc đường ren trong thùng chứa nước được cung cấp từ một thiết bị tạo hơi
hoặc làm nóng (Hình 9). Các cuộn hơi truyền nhiệt bên trong hiện nay được ưa thích hơn các
thiết bị đốt nóng trực tiếp, và điều này làm giảm qui mô nhiệt phân của các bộ phận máy
chưng cất và kết quả là tạo ra một nồng độ thấp furfural trong rượu whisky. Những thay đổi
trong thiết kế máy chưng cất bao gồm sự mở rộng diện tích bề mặt của các cột thành hình
dạng củ hành, các áo nước và các móc nối lại với đoạn đầu của ngưng tụ (Nettleton, 1913) đã
đưa ra một tính toán có giá trị về thiết kế máy chưng cất đầu tiên). Trong nhiều nhà máy rượu,
các đường ren đã được thay thế bằng các bình ngưng hình ống, thiết bị này được thiết kế để
giữ hơi nóng từ các máy chưng cất. Nhưng các máy chưng cất dạng Pot khác được gọi là “các
máy tinh chế” gồm có một chậu hình tròn được làm mát bởi nước chảy qua và được đặt giữa
cổ của các máy chưng cất và các bình ngưng. Đối với các máy chưng cất dạng Pot Ai len thì
cấu trúc của máy tinh chế bao gồm một cái máng lắp vòng quanh các ống lyne arm và thông
qua đó nước được chảy tuần hoàn. Các máy chưng cất dạng Pot trong các nhà máy rượu
Scotch và Ai len được thiết kế truyền thống là các nồi nấu bằng đồng. Lý do chọn nồi bằng
đồng là do cảm tính vì người ta nhận thấy rằng trong suốt quá trình lên men nồi đồng tạo ra
các hợp chất có chứa lưu huỳnh dễ bay hơi rất độc cho cơ thể, sự hiện diện của những chất
này lại không được mong đợi trong rượu đã được chưng cất (xem tr.563 và Thorne et al.,
1971).
Những nhà máy chưng cất rượu đầu tiên dù chỉ bằng kinh nghiệm nhưng cũng vẫn có giá trị.
Dù mục đích của chưng cất là nhằm tách các thành phần bay hơi ra khỏi hèm rượu lên men
nhưng các sản phẩm chưng cất không phải là một khối mà ở dạng một vài phần nhỏ và sự kết
hợp ngẫu nhiên của các phần này sẽ tạo ra một sản phẩm dễ chấp nhận hơn. Các máy chưng
cất dạng Pot ở Scotland và Ai len khác nhau không chỉ về kích cỡ, các máy chưng cất
Scotland (25.000 – 50.000 lít) nhỏ hơn so với máy chưng cất của Ai len (100.000 – 150.000
lít) mà còn khác nhau về cách thu các sản phẩm (fractions).
Ở Scotland, dịch rượu cái (wash) thu được phụ thuộc vào 2 công đoạn chưng cất. Giai
đoạn đầu được tiến hành ở máy wash still, hèm rượu được đưa đến một nồi đun sôi trong

vòng 5-6h, các sản phẩm thu được gọi là các rượu đầu (low wines) có nồng độ gấp 3 lần trong
dịch rượu cái (Hình 10) và phần bã vẫn để lại trong wash still gọi là bã pot (pot-ale) có thể
được xử lý thành chất thải hoặc chế biến thành thức ăn gia súc (Rae, 1967). Việc chưng cất
rượu nồng độ thấp trong các máy chưng cất rượu chọn lọc hơn. Các sản phẩm ban đầu chứa
các hợp chất có điểm sôi thấp bị loại bỏ là fore-shots (hình 10). Giai đoạn kiểm soát liên tục
hydrometric diễn ra khi trọng lượng riêng của các sản phẩm chưng cất tương ứng độ cồn vượt
quá 25-30˚ thì thì dừng để tạo bã fore-shots. Việc dừng này là một trong những cách truyền
thống được tiến hành nhờ sự cẩn trọng của các nhà máy chưng cất và giúp cho sản phẩm
chưng cất không có màu xanh nhạt khi thêm nước vào.
Hình 10. Sơ đồ biểu diễn các giai đoạn chưng cất rượu malt whisky Scotch
Việc kiểm soát quá trình này được tiến hành trong một thiết bị an toàn, được gắn với một
khoá Excise. Việc thu các sản phẩm chưng cất được kết thúc khi trọng lượng riêng giảm đến
một giá trị cụ thể, mặc dù quá trình chưng cất feints vẫn tiếp tục đến khi tất cả các rượu được
loại bỏ khỏi rượu đầu (low wines). Bã còn lại trong máy chưng cất rượu được gọi là spent
lees, và giống như bã rượu pot ale thì bã spent lees cũng có thể được thải đi hoặc sử dụng để
sản xuất thức ăn gia súc. Rượu whisky đã chưng cất sẽ có trọng lượng riêng tương ứng độ cồn
là 12 - 25˚ (overproof).
Ở các nhà máy rượu whisky Ai len có 3 công đoạn tiến hành chưng cất (hình 11). Ở
giai đoạn đầu của quá trình chưng cất rượu cái lên men (fermented wash) được đun nóng
Dịch rượu cái lên men
(khoảng 15˚ chuẩn)
Máy chưng cất rượu cái
Rượu đầu
(khoảng 45˚ chuẩn)
Máy chưng cất rượu mạnh
Whisky
(khoảng 12-25˚ cồn)
Bã Pot
Bã Spent lees
Fore-shots

Feints
Thải
Thải
trong thiết bị wash still và công đoạn đầu của chưng cất gọi là rượu đầu mạnh (strong low
wines), các rượu này được thu đến khi đạt trọng lượng riêng đã định trước, các sản phẩm
chưng cất này được gọi là các rượu đầu nhẹ (weak low wines) được đưa vào trong bình phân
cắt. Các rượu nhẹ này được bơm vào trong máy chưng cất rượu đầu (low wines) và được
chưng cất lại để thu được 2 hợp chất gọi là strong feints va weak feints. Strong feints được
trộn với rượu đầu mạnh trong máy chưng cất rượu và sản phẩm chưng cất này lại được thu
giống như trong sản xuất rượu của Scotch (hình 10 và 11). Rượu whisky thu được tương ứng
độ cồn là 60-65˚.
Hình 11. Sơ đồ biểu diễn các giai đoạn chưng cất rượu whisky Ai len
2. Chưng cất liên tục
Trong thế kỷ qua chưa có sự thay đổi đáng kể nào về việc sáng chế các kiểu dáng thiết
kế của máy chưng cất Coffey. Tự động hoá, đặc biệt là các chất dinh dưỡng trong dịch rượu
cái ngày nay khá phổ biến và tiếp tục được phân cấp trong từng giai đoạn của quá trình chưng
cất. Hơn thế nữa, nhiều nhà máy rượu ngũ cốc Scotch và Ai len tiếp tục sử dụng máy chưng
cất giống như máy chưng cất nguyên bản Coffey chỉ có 2 cột - một là cột phân tích và một là
cột tinh cất. Mặc dù hầu hết các nhà máy rượu đang hoạt động ở Bắc Mỹ có nhiều cột hơn, có
Rượu cái lên men
(khoảng 15˚ chuẩn)
Máy chưng cất rượu cái
Máy chưng cất rượu đầu
Strong feints
Máy chưng cất rượu mạnh
Whisky
(khoảng 60-65˚ cồn)
Rượu đầu mạnh Rượu đầu nhẹ
Weak feints
Heads

Feints
Thải
Thải
Thải
thể lên đến con số 5 nhưng đây vẫn là cách duy nhất để thu được một chất chưng cất tại
azeotrope hoặc gần azeotrope và thu được chất tinh khiết theo yêu cầu. Simpson, trong
chương 8 (tr.557) đã đưa ra một con sô toàn diện về kiểu dáng và cách sử dụng của các máy
chưng cất khác nhau trong sản xuất gin và vodka, và những máy sử dụng trong sản xuất nhiều
loại rượu whisky cũng có kiểu dáng và cách hoạt động tương tự.
Việc mô tả sự hoạt động của 2 cột chưng cất liên tục trong quy trình sản xuất ở nhà máy
whisky ngũ cốc Scotch do Pyke (1965) đưa ra. Để thu được whisky có chất lượng cao từ các
máy chưng cất này, rượu tạo thành bắt buộc phải có nồng độ rượu giống rượu đầu chiết ra tại
đĩa rượu trong máy tinh cất không nên lớn hơn 94.17% ở 20˚C. Đạt được điều kiện này bằng
cách duy trì “nhiệt độ điểm uốn” tại đĩa rượu vào khoảng 48˚C. Các điểm uốn là các ống cong
giữa một đĩa máy tinh cất và đĩa bên cạnh, và nhiệt độ ở bất kỳ đĩa nào cũng sẽ phụ thuộc vào
lượng rượu cái (wash) được đưa vào máy chưng cất và lượng hơi được tạo ra trong cột phân
tích. Nếu nhiệt độ quá cao tại bất kỳ đĩa nào thì nồng độ rượu sẽ tăng, nhưng tỷ lệ các chủng
giống sẽ giảm và sẽ không thu được rượu whisky ngon. Và cũng tương tự, nhiệt độ tại một
điểm cong xác định sẽ thấp. Hình 12 thể hiện trạng thái điều khiển chính xác sự hoạt động của
máy chưng cất có thể ảnh hưởng đến thành phần cấu tạo rượu whisky. Có thể thấy rõ ràng
rằng nếu lưu lượng rượu cái (wash) và hơi nước được thay đổi chiều theo hướng vuông góc
thì nồng độ chủng giống trong rượu whisky sẽ thay đổi nên sẽ tạo ra ảnh hưởng xấu đến chất
lượng của sản phẩm rượu cuối cùng.
Hình 12. Sự thay đổi thành phần cấu tạo hơi ở các đĩa khác nhau trong máy tinh cất Coffey
được sử dụng trong sản xuất rượu whisky ngũ cốc Scotch. Nguồn Pyke (1965)
Một máy chưng cất 5 cột để sản xuất rượu whisky ngô đã được mô tả bởi Packowski
(1963) ở hình 13. Rượu cái lên men chứa 7% (v/v) rượu được bơm vào cột phân tách whisky
ở khoảng giữa đĩa lọc xuyên thứ 13 và 19. Bã rượu thừa được tháo ra tại đáy và được bơm
đến thùng tận thu để tái sử dụng. Sau đó sản phẩm chưng cất được đi qua một cột chưng cất
chọn lọc, cột sản phẩm cô đặc và một cột aldehit cô đặc và cuối cùng là cột dầu rượu tạp cô

đặc. Cũng có nhiều thay đổi về sự thiết kế cơ bản này trong các máy chưng cất ở Scotland và
ở Bắc Mỹ.
Hình 13. Sơ đồ máy chưng cất 5 cột được sử dụng trong sản xuất rượu whisky ngô.
a. cột phân tách whisky, b. thiết bị trao đổi nhiệt, c. dephlegmator, d. lỗ thông bình ngưng, e.
thiết bị làm mát, f. cột chưng cất lựa chọn, g. cột cô đặc sản phẩm, h. cột aldehit cô đặc, i.
bình đựng dầu rượu tạp. Nguồn Packowski (1963).
E. Quá trình ủ chín và già hoá
Một vài loại rượu whisky mới chưng cất rất khác với rượu mạnh (spirit) whisky được
bán lẻ trên thị trường, có thể là từng loại rượu một hoặc rượu pha. Sở dĩ có sự khác biệt này là
do tàng trữ rượu whisky trong các thùng gỗ sồi trong một thời gian dài theo các kinh nghiệm
truyền thống và các qui định của luật pháp. Trong số liệu bảng 1 (trang 649) đã liệt kê các qui
định này. Nhìn chung, các rượu whisky đều được ủ chín lâu hơn so với qui định của pháp
luật. rươu thô (raw spirit) được bơm từ máy chưng cất sang thiết bị đựng rượu và được pha
loãng với nước đến nồng độ yêu cầu, sau đó được trữ trong các thùng dung tích khác nhau.
Quá trình chín và già hoá trong các thùng diễn ra cùng với sự hao hụt chất lỏng do bay
hơi và lượng hao hụt tương đối của nước và ethanol cho biết liệu rượu whisky được ủ chín có
nồng độ cao hơn hay thấp hơn so với lúc đầu (at filling). Ở Scotland các thùng đựng whisky
được bảo quản trong điều kiện mát, không được sưởi ấm, nhưng kho chứa lại ẩm ướt nên
nồng độ rượu giảm (theo Valaer, 1940). Trong khi đó, Valaer và Frazier (1936) lại cho rằng ở
Mỹ điều kiện tàng trữ gây ra sự tăng nồng độ rượu. Quá trình ủ chín trong các thùng cũng làm
thay đổi các thành phần hoá học của rượu whisky do sự có mặt của các thành phần trong gỗ
của thùng đựng. Sự ôxi hoá các thành phần trong rượu nguyên chất whisky cũng như các
thành phần trong gỗ, và các phản ứng giữa các thành phần trong rượu whisky xảy ra trong
thùng chứa. Một vài nhà nghiên cứu mới đây đã công bố sự thay đổi trong thành phần các
nhóm chính của các hợp chất cảm quan quan trọng mà dễ nhận biết trong quá trình ủ chín và
già hoá trong thùng chứa. Do đó, Schidrowitz và Kaye (1905) đã nhận thấy sự tăng nồng độ
của các axit dễ bay hơi trong các rượu whisky được tàng trữ lâu, kết quả này cũng được đề
cập trong báo cáo của Hội đồng hoàng gia về rượu whisky và các rượu xách tay khác (Royal
Commission on Whisky and Other Potable Spirits) (1909). Một vài báo cáo sau đó, ví dụ như
Liebmann và Scherl cũng chỉ ra sự tăng nồng độ của axit, furfural, tannin và các chất màu khi

tàng trữ trong thùng. Việc đưa ra sắc phổ lỏng-khí như đã đề cập trong nghiên cứu nhanh về
vấn đề này, và những thay đổi về số liệu hoá học gần đây xảy ra trong suốt quá trình ủ chín và
già hoá của rượu whisky được mô tả trong phần V.D. (trang 683) của chương này.
Quá trình ủ chín rượu whisky trong các thùng rất tốn kém nên việc xem xét để tìm ra phương
pháp đẩy nhanh quá trình này là hiển nhiên. Jacobs (1947) đã mô tả một vài phương pháp bao
gồm việc tiến hành xử lý rượu cái (wash) trước với cacbon hoạt động, xử lý hoá học rượu
whisky để chuyển aldehit thành este, và việc dùng phương pháp oxi hóa. Những kỹ thuật này
hiếm khi được sử dụng trong ngành công nghiệp, chủ yếu là vì đặc tính truyền thống của quá
trình sản xuất rượu whisky.
F. Pha trộn và tạo màu
Các nhà sản xuất rượu whisky có niềm tin mãnh liệt vào chất lượng của rượu nguyên
chất và rượu whisky pha trộn của họ, và mục đích của họ là duy trì chất lượng của một sản
phẩm đặc biệt trong nhiều năm. Việc pha trộn được tiến hành bởi những chuyên gia lão luyện,
họ thường đưa ra những lời khuyên đối với các nhà sản xuất về việc hoà lẫn và pha trộn một
thể tích lớn rượu whisky sau những lần nếm thử thích hợp trong các thí nghiệm pha trộn rượu.
Rượu whisky sau khi được pha loãng với nước hoặc không thường được đựng trong các thùng
gỗ sồi đã sử dụngcó thể được tàng trữ trong thời gian hơn sáu tháng hoặc 1 năm. Quá trình
này được coi như là “sự giao ước” (marrying). Nước sử dụng cho pha loãng là nước mềm
hoặc được khử khoáng vì trong nước có chứa một hàm lượng muối đáng kể có thể gây ra các
vẩn đục trong rượu whisky (Warricker, 1960). Sau khi “giao ước” (marrying) và pha loãng
nếu cần thiết, màu của rượu whisky được điều chỉnh để đạt được giá trị mong muốn bằng
cách thêm caramen. Một số chất màu nâu nâu được tiết ra từ thùng gỗ sồi đựng rượu, nhưng
nó chưa bao giờ đủ để đạt được màu sắc rượu mong muốn. Cuối cùng, rượu whisky được lọc
để đóng chai bằng máy lọc thông qua các tấm amiăng hoặc xenluloza, thỉnh thoảng có thể
được xử lý trước với than chì (Simpson, 1968). Việc lọc mát cũng thường được áp dụng vì nó
loại được tanin từ rượu whisky và ngăn chặn sự xuất hiện của các vẩn đục.
G. Loại bỏ và tái sử dụng bã ngũ cốc
Theo truyền thống các bã thải của các nhà máy rượu whisky được loại bỏ theo cách
thuận tiện nhất; bã ngũ cốc được bán lẻ, thường khá rẻ cho nông dân địa phương để làm thức
ăn cho gia súc, trong khi đó bã pot ale và cặn bã (spent lees) thường được tháo ra cống rãnh,

sông, suối địa phương. Sở dĩ có sự thải các cặn bã này chủ yếu là do nhận thức của các nhà
máy rượu về giá trị dinh dưỡng (chủ yếu là thành phần protein) của những bã thải này, và
nhận thức của người dân về những vấn đề phát sinh từ việc không kiểm soát sự thải các chất
thải này vào trong nguồn nước. Simpson (trang 564) đã mô tả sự tạo thành các “ngũ cốc đen
của nhà máy rượu” từ các bã thải tạo ra trong quá trình sản xuất rượu gin và rượu vodka, và
quy trình này đã được sử dụng rộng khắp để xử lý các chất thải từ các nhà máy rượu whisky,
đặc biệt là tại các nhà máy có phương pháp xử lý chất thải truyền thống bị cấm hoặc không có
hiệu quả kinh tế.
V. Các thành phần cảm quan quan trọng của rượu whisky
Những năm gần đây đã chứng kiến một cuộc công kích mạnh mẽ trong nghiên cứu về
các thành phần có vai trò đối với đặc tính cảm quan (organolephic) của rượu whisky. Tuy
nhiên, những báo cáo đầu tiên về bản chất của thành phần những chất tạo hương trong rượu
whisky được đưa ra vào trước kỷ nguyên của sắc phổ lỏng-khí gần nửa thế kỷ. Hai xuất bản
của Schidrowitz (1902) và Schidrowitz và Kaye (1905) chỉ xử lý riêng với rượu whisky
Scotch, báo cáo về rượu tạp, axit và những thành phần khác của 50 nhãn hiệu rượu whisky
khác nhau. Họ đã đưa ra những phân tích về một vài loại rượu malt whisky ở thị trấn
Campbeltown của Scotland đã sớm có mặt trên thị trường. Một báo cáo của Mann (1911)
được công bố vài năm sau đó cũng chỉ ra giá trị của các axit và lượng furfural, andehit, rượu
trong rượu whisky Scotch được nhập khẩu vào Úc.
A. Nồng độ của các thành phần cảm quan quan trọng
Từ khi sắc phổ lỏng-khí được giới thiệu trong các phòng thí nghiệm của các nhà máy
rượu, một số tạp chí đã công bố về các thành phần tạo hương chính trong rượu whisky - rượu
tạp, este, thành phần cacbonyl, các axit hữu cơ, các thành phần chất thơm và đặc trưng riêng
của các thành phần đóng góp tạo nên các phân tử này (fractions)(xem Suomalainen và
Nykanen, 1970a,1972 và Suomalainen và Lehtonen,1976, với các vấn đề xem xét). Rượu tạp
vẫn được xác định bằng những thay đổi về các phản ứng màu của Komarowsky (1903) là định
lượng quan trọng nhất. Rượu malt whisky Scotch và rượu whisky ngô có chứa nhiều rượu tạp
nhất, với thành phần thường nhiều hơn 2g/l, các rượu whisky Canada, Nhật, Úc có hương
thơm nhẹ hơn chứa khoảng ¼ nồng độ này. Các axit béo tự do tương đối dễ bay hơi và đóng
góp một lượng lớn vào chất lượng cảm quan rượu whisky. Với một số loại rượu malt whisky

Scotch, nồng độ các axit trong rượu whisky có thể chứa rượu nguyên chất 0,4 – 1.0g/l. Rượu
whisky ngô cũng chứa các thành phần tương tự nhưng ít axit hơn trong rượu whisky ngũ cốc
và lúa mạch đen (Schoeneman và Dyer, 1968). Nồng độ so sánh xấp xỉ của các este được tìm
thấy trong rượu whisky, mặc dù về tổng quan thì các sản phẩm đồ uống được sản xuất với
máy chưng cất dạng pot đều có nồng độ cao hơn so với các máy chưng cất liên tục.Các nồng
độ của rượu whisky trong các nhà máy chưng cất dạng pot Scotch và Ailen được báo cáo
trong khoảng 0.27-0.87g/l rượu nguyên chất (Valaer, 1940), trong khi đó rượu ngô được báo
cáo có nồng độ este trong khoảng 0,14-0,36g/l rượu nguyên chất (Schoeneman và Dyer,
1968). Các rượu whisky nhẹ hơn có chứa nồng độ các thành phần cacbonyl thấp hơn mặc dù
nồng độ này thay đổi với nhãn hiệu. Whisky ngũ cốc có thể chứa rất ít aldehit khoảng 20mg/l,
trong khi đó ở các nhà máy rượu malt whisky hoàn thiện thì nồng độ có thể lên đến 80mg/l
(Duncan và Philp, 1966).
B. Bản chất hoá học của các thành phần cảm quan quan trọng.
Việc xem xét lại phương pháp sắc phổ và các phương pháp khác sử dụng để tách rất
nhiều các thành phần cảm quan quan trọng từ các rượu whisky được đưa ra bởi Duncan và
Philp (1966). Vấn đề chính trong phân tích rượu whisky bằng sắc phổ lỏng – khí là sự lấn át
của ethanol và nước. Chỉ có một thành phần dễ bay hơi có tên là rượu isopentenyl có khả
năng nhận biết ở nồng độ vượt quá 0,1%, trong khi đó hầu hết các thành phần khác hiếm khi
nhận biết được ở nồng độ vượt quá 50 ppm. Các phép phân tích hầu hết đều thuận tiện để tiến
hành tách các thành phần nhỏ của các loại chất khác nhau. Khi trực tiếp phân tích rượu
whisky thì chỉ có một số lượng giới hạn các thành phần được xác định (Morrison, 1962;
Bober và Haddaway, 1963; Singer và Stiles, 1965).
Có một số quan điểm về sự đa dạng của các thành phần tìm thấy trong rượu whisky
được lấy từ tài liệu biên soạn năm 1963 của Kahn gồm cả nguồn chưa xuất bản và đã xuất
bản. Trong danh sách 200 thành phần thì có 25 thành phần là các rượu tạp, 32 axit, 69 este và
22 hợp chất phenol. Rõ ràng là hiện nay danh sách này có thể dài hơn nhiều. Trong các rượu
tạp, có rượu isoamyl và rượu amyl hoạt hoá quang học là chiếm ưu thế, sau đó là rượu
isobutanol và n-propanol có nồng độ thấp hơn. Thường chỉ có các rượu n-butanol và rượu bậc
2 butanol đặc trưng ở nồng độ thấp. Các axit hữu cơ chính trong rượu whisky là axit axetic có
thể chiếm từ 50 đến 90% tổng thành phần các axit dễ bay hơi được xác định bởi chuẩn độ.

Trong các axit còn lại thì axit caprylic, axit capric và axit lauric là các axit quan trọng nhất
(Suomalainen và Nykanen, 1970a). Một số đặc trưng về hương thơm và mùi vị của rượu
whisky ngô và rượu whisky Ai len có thể là do thành phần của nó có chứa nồng độ cao hơn
của axit thơm butyric. So sánh với các loại whisky khác thì whisky Scotch đặc trưng bởi chứa
nhiều axit palmitoleic (và thành phần ethyl este) hơn axit palmictic. Suomalainen (1971) đã
cho rằng cái mùi giống như stearin điển hình của rượu malt Scotch có thể là do nó có chứa
các este ethyl của axit béo mạch dài. Không có gì ngạc nhiên khi ethyl acetate là este chính
của rượu whisky do axit acetic trong loại đồ uống chứa cồn này khá nhiều. Nồng độ 85mg/l
được xác định trong rượu whisky pha Scotch, 98 mg/l trong rượu whisky Canada và nhiều
nhất là trong rượu whisky ngô đã được ủ 8 năm với nồng độ là 380mg/l (de Becze et al.,
1967). Các este khác như là ethyl caprate được tìm thấy ở những nồng độ thấp hơn nhiều,
khoảng 2 – 10mg/l. Trong các hợp chất carbonyl, acetaldehyde là thành phần chủ yếu cùng
với một loạt các aldehyde mạch ngắn khác. Furfural có hương thơm tương tự như trong ngũ
cốc, cũng xuất hiện với nồng độ từ 20 – 30mg/l trong các rượu whisky mạch nha Scotch
(Valaer, 1940). Acrolein, một thành phần hăng cay cũng có trong whisky và người ta cho rằng
nó có thể góp phần vào vị “chua cay” của whisky. Tuy nhiên quan điểm này đã bị Kahn và
các cộng sự (1969) bác bỏ, họ đã chỉ ra rằng acrolein phản ứng với ethanol để tạo thành 1,1-
diethoxy-2-propene và do đó 1,1,3-triethoxypropane bị loại bỏ.
Sự đa dạng của các thành phần cảm quan quan trọng cũng được tìm thấy ở các rượu
whisky khác nhau, trong đó có rất nhiều thành phần đã được tìm thấy như là kết quả của quá
trình ủ chín whisky trong các thùng than gỗ sồi. Scopoletin và các aldehyt thơm khác bao
gồm vanillin được Baldwin và cộng sự (1967) tìm thấy trong whisky ngô, các thành phần
được tìm thấy trước đó trong quá trình chiết tách ethanol đơn giản và đốt gỗ sồi trắng của Mỹ
bởi Black et al. (1953). Lactone được gán cho cái tên “whisky lactone” cũng xuất hiện trong
whisky trong quá trình tàng trữ trong các thùng gỗ sồi. Thành phần β-methyl-γ-octalactone
lần đầu tiên được Suomalainen và Nykanen (1970b) tách ra từ rượu whisky Scotch và có báo
cáo chỉ ra rằng có cả hai thành phần diastereomers dạng cis và trans đều xuất hiện trong rượu
whisky (Nishimura và Masuda,1971). Các thành phần khác được tìm thấy trong rượu whisky
bao gồm các phenol (Salo et al.,1976), glycerol và erythritol (Black và Andreasen, 1974),
pyridine, α-picoline và rất nhiều pyrazine khác (Wobben et al.,1971).

C. Sự đóng góp của các thành phần vào các tính chất cảm quan
Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về sự đóng góp của các chất trong bia vào hương vị
của đồ uống đó (xem chương 2, trang 113), các đồ uống có cồn khác có phần nhận được ít sự
quan tâm hơn về vấn đề này. Những thông tin đã công bố về những thành phần có vai trò đối
với chất lượng cảm quan của rượu whisky còn khá ít và một số lượng khá lớn các báo cáo vẫn
chưa được công bố bởi Suomalainen và cộng sự từ bản độc quyền rượu từ bia Helsinki, Phần
Lan. Để đánh giá vai trò của các thành phần trong rượu whisky với hương thơm của các rượu
này, Salo et al. (1972) đã pha chế một rượu whisky tổng hợp với những thành phần mà phân
tích sắc phổ đã tìm ra trong một loại rượu whisky hương thơm nhẹ Scotch. Rượu tổng hợp
này được pha bởi 576g hỗn hợp rượu tạp, 90mg axit, 129 mg este và 17.4mg hợp chất
carbonyl trong rượu ngũ cốc tinh cất khá kỹ, sau đó sẽ được pha loãng đến 34% ethanol dùng
nước được trao đổi ion và xử lý với than hoạt tính. Rượu whisky giả này có chứa 13 loại rượu
cộng thêm với ethanol, 21 axit, 24 este và 9 hợp chất carbonyl. Màu caramel được sử dụng để
tạo màu như trong quá trình chưng cất và ủ chín whisky. Ngưỡng thơm của các thành phần
riêng rẽ, và các nhóm thành phần được xác định như Salo (1970) đã trình bày. Một hội đồng
cảm quan có kinh nghiệm sẽ dễ dàng có khả năng phân biệt rượu giả whisky với một loại
rượu pha whisky Scotch nhưng khi sự pha chế được trộn lẫn 50% rượu whisky Scotch thì chỉ
có 6% các chuyên gia cảm quan nhận biết được đúng với những đánh giá về nồng độ và sự
tương tác giữa các thành phần trong rượu tổng hợp whisky không khác nhiều so với rượu
whisky tổng hợp có được pha thêm với rượu whisky Scotch.
Việc xác định các ngưỡng thơm của các thành phần riêng biệt trong rượu whisky tổng
hợp cho thấy rằng vai trò của hỗn hợp rượu và axit chỉ đóng góp 10% tổng cường độ thơm,
mặc dù bản thân các rượu chiếm tới 70% tổng nồng độ các thành phần cảm quan quan trọng
trong rượu pha chế. Este và các thành phần carbonyl có ảnh hưởng lớn hơn, đặc biệt là
butylaldehyde, isobutylaldehyde, isovaleraldehyde, diacetyl và este ethyl của axit acetic,
caproic, caprylic, capric và axit lauric. Vì chỉ ba trong số các thành phần carbonyl quan trọng
nhất có thể thay thế cho toàn bộ các carbonyl, có thể xem xét tính thống nhất với vai trò của
các thành phần tạo mùi thơm này. Điều thú vị là sự đóng góp tương đối bởi các nhóm thành
phần khác nhau lại không khác nhiều so với sự đóng góp mà Harrison (1970) đã báo cáo rằng
chúng liên quan đến vị của bia.

Bảng 6
Các ngưỡng pha loãng đối với 9 loại rượu whisky khác nhau. Nguồn Salo (1975)
Whisky Ngưỡng pha loãng (x 10
-4
) Chuẩn mức chênh lệch (x 10
4
)
Scotch malt
Scotch, old blend
Scotch, blend
Irish
Bourbon
Irish
Canadian
0.56
0.87
1.20
1.30
2.40
4.50
10.40
0.2 – 1.3
0.5 – 1.5
0.3 – 4.2
0.4 – 2.0
0.6 – 11.5
2.7 – 7.5
3.0 – 37.0
Các ngưỡng giá trị này có thể được đánh giá không chỉ cho các thành phần riêng biệt
trong rượu whisky mà còn cho tổng các chất thơm có trong đồ uống. Salo (1975) đã làm như

sau: pha loãng các rượu whisky khác nhau với nước cho đến khi các tính chất thơm của rượu
whisky chỉ có thể vừa đủ để nhận thấy. Giá trị tại ngưỡng pha của một vài loại rượu whisky
thương phẩm đã trình bày trong bảng 6 cho thấy sự khác nhau về cường độ hương thơm của
các rượu whisky thương phẩm khác nhau.
D. Nguồn gốc của các thành phần cảm quan quan trọng
Hai nguồn chính của các thành phần cảm quan quan trọng trong rượu whisky là men
bia được sử dụng cho lên men hèm rượu và các thùng than gỗ sồi để chứa whisky ủ chín. Việc
sử dụng các thành phần cảm quan quan trọng của men bia trong suốt quá trình lên men rượu
đã điển hình cho một vài đồ uống có cồn như đề cập trong các chương khác của quyển sách
này. Suomalainen và Nykanen (1966) đã lên men môi trường đường saccarose có chứa nitơ tự
do với một chủng Sacch.cerevisiae, và chưng cất môi trường lên men này hoặc sau khi loại bỏ
nấm men bằng máy ly tâm hoặc vẫn chứa nấm men trong môi trường. Các phân tích sắc khí
đối với các sản phẩm chưng cất này được nhắc lại trong hình vẽ 14, hình này cũng thể hiện
các sắc phổ của một rượu whisky Scotch để so sánh. Mặc dù có khác nhau nhưng cũng có một
sự giống nhau khá rõ giữa 3 phép phân tích. Ví dụ như tỷ lệ cao hơn của rượu isoamyl trong
sản phẩm chưng cất từ môi trường lên men có thể được tìm thấy. Đồng thời cũng tìm thấy
nồng độ cao hơn của ethyl caprate trong các sản phẩm chưng cất từ môi trường chứa nấm men
khi so sánh với môi trường chưng cất đã được loại nấm men. Sẽ rất thú vị nếu biết được tầm
quan trọng của các chủng nấm men trong việc tạo ra các thành phần cảm quan quan trọng
trong rượu whisky. Không may là chúng ta hoàn toàn thiếu tài liệu được công bố về vấn đề
này.
Cũng đã có nhiều báo cáo công bố về những thành phần cảm quan quan trọng này,
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc từ các thùng gỗ sồi chứa rượu whisky ủ chín.Việc tăng
màu sắc và tannin, các chất rắn hoà tan và nồng độ axit thì không được quan sát khi rượu
whisky được đóng trong chai, đây là những bằng chứng về tầm quan trọng của các thùng gỗ
sồi trong quá trình ủ chín rượu. Một phân tích về các thành phần gỗ sồi Mỹ (Quercus albus)
đã chỉ ra rằng gỗ sồi có chứa cellulose (49 – 52%), lignin (31 – 33%), pentosan (hoặc
hemicellulose, 22%) và các thành phần được chiết rút ra với nước nóng và ether (7 – 11%;
Ritter và Fleck, 1923). Tuy nhiên, khi mùn cưa của gỗ sồi được chiết rút trực tiếp với nước
hoặc 192˚ proof (US) ethanol thì các sản phẩm chiết rút được khác đáng kể so với các chất

thơm trong rượu whisky lâu năm. Hơn thế nữa, không có sự khác biệt nào về các thành phần
ethanol hoà tan được chiết ra bởi gỗ sồi có chứa các chất thơm giống với trong rượu whisky
được ủ chín (Baldwin et al., 1967). Kết quả là, nhìn chung quá trình ủ chín không chỉ chiết rút
các thành phần từ gỗ cây sồi mà còn làm biến đổi hoá học ít nhất một vài thành phần được
chiết rút ra từ gỗ sồi.
Tất cả những công việc đề cập đến khía cạnh ủ chín rượu whisky được tiến hành trong
các phòng thí nghiệm của Joseph E. Seagram cùng các con trai của ông ở Mỹ. Những thay đổi
về nồng độ của các thành phần cảm quan quan trọng trong suốt 12 năm tàng trữ rượu whisky
ngô ở 109˚ proof (U.S) dựa trên cơ sở là 100˚ proof được trình bày ở hình 15. Bản chất và
nguồn gốc của một số thành phần này được kiểm tra khá chi tiết. Trong các aldehyde,
scopoletin và các aldehyde thơm syring aldehyde, sinapaldehyde, coniferaldehyde và vanillin
là quan trọng. Theo Baldwin et al. (1967), các thành phần này có thể được tạo thành do
ethanol phản ứng với lignin trong gỗ cây sồi để tạo ra rượu coniferyl và rượu sinapic. Trong
điều kiện oxi hoá nhẹ, những rượu này có thể biến đổi lần lượt thành coniferaldehyde và
sinapaldehyde. Vanillin có thể tạo thành từ coniferaldehyde và syringaldehyde tạo thành từ
sinapaldehyde. Việc tăng thành phần aldehyde trong suốt quá trình ủ chín có thể một phần do
sự hình thành acetaldehyde bởi sự oxi hoá ethanol. Việc tạo thành ethyl acetate có thể góp
phần vào sự tăng ổn định của thành phần este trong rượu whisky trong quá trình ủ chín (Hình
15).
Một số nhóm thành phần khác không được mô tả trong hình 15 cũng quan trọng trong
quá trình ủ chín. Các đường monosaccharide được tìm thấy trong whisky ủ chín và có thể tạo
ra từ đường pentosan và các polysaccharide khác có trong gỗ sồi. Otsuka et al (1963) đã cho
rằng một loại rượu whisky ủ chín Nhật Bản có chứa xylose, arabinose, glucose và fructose.
Trong khi đó Black và Andreasen (1974) cũng bổ sung thêm rhamnose vào danh sách này khi
họ phân tích một mẫu rượu whisky ngô ủ chín. Những nghiên cứu sau này cho thấy nồng độ
của arabinose và glucose tăng với tốc độ nhanh hơn so với nồng độ xylose và rhamnose trong
quá trình ủ chín 12 năm. Salo et al. (1976) cũng tìm thấy nồng độ thấp mannose và galactose
trong rượu malt whisky Scotch, cộng thêm vào với các đường đã được đề cập trước đó. Nồng
độ các đường có trong rượu whisky ủ chín – trong khoảng 100mg/l – là rất thấp để đánh giá
chúng có gây ảnh hưởng về độ ngọt đối với đồ uống. Các phenol cũng được tìm thấy trong

rượu whisky ủ chín, mặc dù một số thành phần này có thể tạo thành trong suốt quá trình ủ
rượu (Steinke và Paulson, 1964) hoặc từ việc sản xuất malt có sử dụng lò đốt than bùn
(MacFarlane, 1968). Tuy nhiên, Salo et al (1976) cho rằng có sự tăng nồng độ của eugenol
trong suốt một năm ủ chín của rượu malt whisky Scotch, đây là phenol chính được chiết tách
từ những mảnh vỡ cây sồi bằng ethanol (Suomalainen và Lehtonen, 1976). Đồng thời trong
rượu whisky ủ chín cũng có sterol, thành phần này có thể kết tủa trong whisky đóng chai tàng
trữ ở nhiệt độ phòng. Black và Andreasen (1973) đã tìm thấy campesterol, stingmasterol và
sitosterol trong rượu whisky ngô ủ chín, cộng với sitosterol-D-glucoside, mặc dù có khả năng
một số thành phần này có thể tạo thành trong suốt quá trình ủ rượu. Cuối cùng là lactone, β-
methyl-γ-octalactone và nguồn gốc của nó cũng có trong rượu whisky.
Không ngạc nhiên khi bản chất và số lượng các thành phần được chiết rút từ gỗ cây sồi phụ
thuộc vào nồng độ ethanol của rượu whisky. Trong một chừng mực nào đó nó thuận lợi cho
việc ủ chín rượu whisky ở một nồng độ chuẩn vì điều kiện này yêu cầu ít thùng hơn và về mặt
kinh tế nó mất ít không gian chứa hơn. Đến năm 1962 Phòng kho bạc ở Mỹ đã giới hạn nồng
độ chuẩn của rượu whisky đóng thùng đến cao nhất là 110˚ (U.S). Để tránh cho giới hạn này
bị tăng, nó đã từng tăng đến 125˚ vào năm 1962 – Baldwin và Andreasen đã báo cáo vào năm
1973 đã khởi xướng một loạt các thí nghiệm để chứng minh tầm quan trọng của nồng độ
chuẩn của rượu đóng thùng đến sự thay đổi về màu sắc và nồng độ của các thành phần cảm
quan quan trọng trong suốt quá trình ủ chín của rượu whisky ngô. Cường độ màu và nồng độ
của các rượu whisky đồng loại được ủ chín trong 12 năm đã giảm vì nồng độ chuẩn của rượu
ban đầu đã bị tăng lên từ 109˚ đến 155˚, chỉ ngoại trừ các thành phần rượu tạp thì vẫn duy trì
không đổi.
VI. Sản xuất rượu whisky trên toàn thế giới
Việc sản xuất các loại rượu whisky khác nhau trên khắp thế giới ngày càng tăng và
mấy năm vừa qua, mặc dù qui mô sản xuất là khác nhau với từng loại rượu whisky. Số liệu về
việc sản xuất rượu whisky được luôn được cập nhật và công khai. Số liệu về sản xuất rượu
malt whisky Scotch và rượu whisky ngũ cốc được công bố hàng năm trong bảng báo cáo của
Hiệp hội rượu whisky Scotch ở Edinburgh, Scotland. Với số liệu của rượu whisky ngô được
công bố bởi Viện nghiên cứu whisky ngô ở New York, Mỹ. Trong khi các số liệu về việc sản
xuất rượu whisky ở Canada được thu thập bởi Hiệp hội các nhà máy rượu Canada ở Montreal

thì các nhà sản xuất rượu Ai Len, những chủ nhân của tất cả các nhà máy rượu ở Eire và Bắc
Ai Len có thể cung cấp số liệu về việc sản xuất rượu whisky Ai Len.
Hình 16 thể hiện số liệu về việc sản xuất rượu whisky malt và ngũ cốc Scotch trong
giai đoạn 1964 – 1974. Ngoại trừ giai đoạn 1967 – 1969, thì đều có sự tăng một cách ổn định
về số lượng của cả 2 loại đồ uống này.
Số liệu trong hình 16 chỉ ra rằng có sự tăng cân xứng trong việc sản xuất rượu malt whisky
Scotch, chủ yếu là do sự phổ biến trên toàn thế giới của rượu malt whisky Scotch trong 5 – 10
năm qua. Việc sản xuất rượu whisky ngô có thể lên đến 70 triệu galông (đơn vị đo lường chất
lỏng bằng 4,54lít ở Anh và 3,78lít ở Mỹ) trong 1 năm, trong khi đó rượu whisky ngô pha
được sản xuất tương ứng khoảng 57 triệu galông 1 năm.Việc sản xuất rượu whisky ngô không
tăng mạnh trong mấy năm qua phản ánh xu hướng tiến đến sự “nhẹ nhàng” trong ngành công
nghiệp rượu. Những vùng sản xuất rượu whisky khác ở Bắc Mỹ cũng đã được giới thiệu ra thị
trường bắt đầu từ năm 1972 với 2 loại rượu whisky mới. Loại thứ nhất là rượu whisky “nhẹ”,
được chưng cất trong khoảng 161 và 189˚ proof (đối lập với rượu whisky truyền thống chỉ
được chưng cất ở 160˚ proof hoặc thấp hơn) và được tính trữ trong các thùng gỗ tái sử dụng
(hơn là các thùng gỗ sồi mới). Và loại rượu thứ 2 là rượu whisky “pha nhẹ”, là loại rượu được
pha trộn ít hơn 20% lượng rượu whisky nguyên chất. Ở Canada, việc sản xuất rượu whisky
đạt khoảng 15 triệu galông mỗi năm, trong khi đó ở Ai len, mức độ sản xuất rượu whisky chỉ
đạt 5 triệu galông 1 năm. Ở Nhật Bản, nước lớn nhất trong các nước mới sản xuất rượu
whisky cũng sản xuất được khoảng 4 triệu galông 1 năm.
VII. Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn cũng như các đồng nghiệp của tôi trong ngành sản xuất
rượu whisky ở nhiều nước trên thế giới vì sự hợp tác và sẵn sàng cung cấp thông tin về quá
trình sản xuất rượu whisky.
THAM KHẢO

×