Thể tài du ký trên tạp chí "Nam
Phong" (1917-1934)
2. Du ký về vùng văn hoá Quảng Ninh
Quảng Ninh là vùng đất có nhiều thắng cảnh, nhiều điểm di tích lịch
sử - văn hóa nổi tiếng như vịnh Hạ Long, núi Bài Thơ, chùa Long Tiên, núi
Yên Tử, đền Cửa Ông, bãi biển Trà Cổ Trong suốt thời trung đại, cha ông
ta đã có nhiều bài thơ đề vịnh miền thắng địa này. Bước sang thế kỷ XX,
nhiều tác giả như Nhàn Vân Đình, Trần Trọng Kim, Kiếm Hồ Nguyễn Thế
Hữu đã có bài ghi chép qua các chuyến du lịch Quảng Ninh, phác họa
được nhiều cảnh quan và thực trạng đời sống kinh tế - xã hội một thời.
Với ý nghĩa là vùng đất biên viễn Hải Đông có lịch sử lâu đời nhưng
lại mới được khai mở, phát triển từ đầu thế kỷ nên xứ Quảng Ninh đã sớm
thu hút, hấp dẫn du khách. Một trong những phác thảo du ký sớm nhất
kiểu này là Lệ Thần Trần Trọng Kim với bài Sự du lịch đất Hải Ninh. Trên
thực tế đây chính là bài diễn thuyết ở Hội Khai trí (Hà Nội) vào ngày 29-4-
1923, sau đó được in trên Tạp chíNam phong (số 71, tháng 5-1923; tr.383-
394). Tác giả đã khảo sát khá chi tiết tình hình đời sống xã hội ở vùng đất
đang bước đầu được công nghiệp hóa - đặc biệt nhấn mạnh vẻ sinh động
và hiện đại của thị tứ Hòn Gai: “Hòn Gai là đất tư của công ty lấy than.
Trước đây là đất bỏ hoang mà bây giờ thành ra một nơi rất phồn thịnh,
phố xá cũng nhiều, người làm ăn, phu phen đi lại thật là đông. Xe lửa chở
than chạy đi chạy lại cả ngày cả đêm. Ở dưới bến thì tàu các nước đến lấy
than, tàu nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật ngày nào cũng có vài ba chiếc
chực sẵn ở đấy” Đọc lại mấy dòng mô tả quang cảnh nơi phố than cách
nay gần một thế kỷ mà thấy gần gũi gần như buổi bây giờ.
Ngoài việc ghi chép lại nhiều hủ tục lạc hậu như tệ mua bán vợ, tục
cúng bái, tác giả còn nêu rõ lối sống và sự giao dịch của cư dân miền biên
giới, từ đó nhấn mạnh cả những hạn chế trong cách thức sản xuất và
cạnh tranh kinh tế của người mình: “Về đường công nghệ thì cả tỉnh Hải
Ninh chỉ có nghề làm bát ở Mông Cái là thịnh nhất. Nhưng đấy là của
Khách chứ ta không có phần gì. Đâu trước có một hiệu mấy người ta cũng
có phần, nhưng sau phải nhượng lại cho người Khách cả. Hiện bây giờ cả
thảy có chín cái lò thật to Những đồ họ làm tuy không đẹp, nhưng trông
cũng sạch sẽ hơn những đồ phố của ta vẫn thường dùng, mà giá bán lại
rẻ Những đồ bán rẻ như thế mà lại tiện cho người ta dùng cho nên mỗi
năm nước ta lại tiêu thụ đến 5,6 triệu cái, tính ra cũng đã mất khá tiền. Tôi
xem nước nào cũng lo làm những đồ cần dùng cho người trong nước để
giữ lấy mối lợi, không cho người ta tranh chiếm mất. Mà nước mình từ
xưa đến nay cứ nghiễm nhiên đem tiền đi mua của người mà dùng, mà
không biết nóng ruột. Những đồ bát đĩa để ăn uống cũng đi mua, những
vải lụa mặc vào người cũng đi mua, đôi bít tất, đôi giầy, nhất nhất là phải
đi mua của người ta cả, chứ người mình không làm được cái gì ra trò cả.
Có làm thì xấu xí mà bán lại đắt, thì còn cạnh tranh với người ta sao được.
Ai đi mua mất tiền lại không muốn mua đồ tốt mà rẻ. Vậy thì ta phải làm
thế nào, dẫu không được tốt đẹp hơn, thì cũng bằng của người ta, mà giá
lại bán rẻ hơn thì mới nói ganh với người ta được. Hãy tính rằng những
đồ ở ngoài đem vào bán thường phải thuê công đắt, lại phải tiền thuyền
tiền tàu chở đi, rồi lại thuế nọ thuế kia, sao mà người ta bán được rẻ. Mà
mình ở nước mình, người nhiều, sản vật cũng sẵn, sao mình không làm
được? Ta phải lưu tâm về cái vấn đề ấy mà tìm cách làm ăn thế nào, chứ
cứ chịu ép một bề mãi, thì không biết đời nào cho khá được”
Tiếp đến tác phẩm Quảng Yên du ký (Nam phong, số 168, tháng 1-
1932) của Nhàn Vân Đình thì cách diễn tả có phần dung dị, gần với cuộc
du ngoạn núi sông, thăm thú cảnh vật đất trời nhiều hơn. Khi đi qua Hòn
Gai, Cẩm Phả min, Cẩm Phả bo, Mông Dương , Nhàn Vân Đình đều có
làm mấy bài thơ đề vịnh phong cảnh. Khi đứng bên đền Cửa Ông, ký giả
quan sát và ghi lại hình ảnh công cuộc hiện đại hóa với những chiếc phà
sắt, máy xe điện, tầu ăn than Tiếp đó tác giả tả lại con đường từ đền Cửa
Ông tới mỏ Mông Dương với những ấn tượng khá hãi hùng, gợi không khí
tò mò mạo hiểm
Cuối cùng chúng tôi giới thiệu những trang du ký hấp dẫn, sinh
động của Kiếm Hồ Nguyễn Thế Hữu qua bài Hành trình chơi núi An
Tử (Nam phong, số 105, tháng 5-1926, tr.325-334 và số 106, tháng 6-1926,
tr.443-453). Trong phần mở đầu, dưới đề mục Sáu ngày ở núi An Tử, tác
giả bộc lộ cảm xúc hân hoan của mình: “Tôi được đi đến nơi, về đến chốn,
trăng gió một bầu, cỏ hoa trăm thức đã thu vào trong khoé mắt, tưởng
cũng nên cầm bút viết ra để góp một phần gọi là cái quà đi An Tử về để
biếu những người có lòng ước ao mà chưa rảnh đi được và những người
ngại ngùng đường sá xa xôi không dám đi đến”; hoặc đoạn tả lối mòn lên
núi đầy ý vị của kẻ ham xê dịch: “Đang đi thấy trời u ám đổ cơn mưa
xuống, trong cái cảnh tượng lúc này đối với những khi ngồi xếp bằng tròn
ở nhà đánh chén ngâm thơ, thì hai cái thú khác xa nhau. Được đội cái nón
lá 3 xu, chống cái gậy trúc răm dóng, gió thổi hoa cười, nước chảy suối
reo, lững thững đi trong rừng, chốc lại thấy mặt trời vén đám mây dòm
xuống, ra tình đưa đón, tựa hồ như xem mình đã đi tới đâu rồi Lại qua ba
cái suối, rồi một lát đi đến suối Thả Bè, bên suối có bãi, thấy nói chỗ này
người ta vào rừng đốn tre đốn gỗ, kết lại thành bè, chờ nước lên rồi thả
trôi ra. Nghĩ cũng diệu kế thật! Đường núi quanh co, lên ghềnh xuống
suối, cây gỗ cây tre thì dài, không thả như vậy, công đâu mà tha ra được.
Thế mới biết cổ nhân ta ngày xưa dụng bằng trí hơn dụng lực”
Cùng với việc mô tả cuộc du ngoạn qua các chùa Lân Giải, Hoa Yên,
Vân Tiêu, Bảo Sát, Một Mái, Thiền Định, Cầm Thực, Tháp Mẫu , tác giả
phác họa khung cảnh chùa Đồng trên đỉnh non cao, giữa bốn bề mây gió:
“Lên đến chùa Đồng thì 9 giờ 35, là đỉnh núi An Tử, chỗ giữa vuông ước
bằng bốn chiếc chiếu, xây lên cái bệ, chung quanh đá mọc chơm chởm,
trên thờ pho tượng đức Quan Âm và ba pho tượng đức Trúc Lâm mà thờ
lộ thiên. Tôi hỏi ra trước cổ nhân có làm ngọn chùa bằng đồng, che mấy
pho tượng, nhưng đã hư nát mất cả, duy mấy cái lỗ đá trước xây chân cột
vào là còn dấu tích, bởi thế nên gọi là chùa Đồng. Về sau đây bà Bá Lồng
lại đem cúng bình hương mâm bồng bằng đồng, một quả chuông, một cái
khánh và cái khung chùa bằng sắt lợp đồng to bằng ba cái đình tháng tám
trẻ con chơi. Nhưng mà gió trên này dữ lắm, cái chùa bay mất cả mái, bây
giờ mới khiêng sang để bên cạnh. Xem như đến đồ thờ bằng đá sức to
như thế mà cũng rơi vỡ cả. Cái khung chùa bây giờ để treo chuông khánh,
vẫn tương truyền rằng lên đến đây không được nói to, nhất là không
được đánh chuông, hễ ai đánh một tiếng chuông thì u ám cả trời lại, đổ
cơn mưa xuống”
Có điều cần chú ý rằng các bài du ký về xứ Quảng Ninh hồi đầu thế
kỷ đều do người kinh kỳ phường phố viết sau những chuyến du ngoạn.
Lấy Hạ Long - Hòn Gai làm điểm giữa, cảnh đẹp xứ Quảng kéo dài một
phía về Cẩm Phả - Trà Cổ - Móng Cái và một phía đua về mạn Yên Tử.
Người xưa nói: “Bậc đức nhân tìm về với núi, kẻ trí giả tìm về với biển”,
cả hai kiểu tâm tính ấy hẳn đều được thỏa mãn khi tìm về xứ Quảng. Thêm
nữa, kể từ khi miền bể Hạ Long được nâng tầm như một kỳ quan thiên
nhiên thế giới thu hút du khách bốn phương thì những trang viết của bạn
bè quốc tế càng nối dài thêm thể tài du ký Quảng Ninh vốn đã được lớp
ông cha chúng ta khơi nguồn từ hồi đầu thế kỷ.
3. Du ký về vùng văn hoá xứ Huế
Trong khoảng nửa đầu thế kỷ, du ký xa gần liên quan tới xứ Huế
thấy xuất hiện trên Tạp chí Nam phong với tên tuổi những Phạm Quỳnh,
Nguyễn Trọng Thuật, Mẫu Sơn Mục, Khuông Việt, Phục Ba, Mộng Thạch,
Nguyễn Đức Tính, Nguyễn Tiến Lãng Trong số các tác giả ấy có người
sinh ra và lớn lên ở Huế, có người xa Huế nhiều năm bây giờ trở lại bỗng
ngậm ngùi man mác tình xưa, và cuối cùng là những người mới một lần
đến với Huế (hay chỉ một lần đi ngang sông Hương núi Ngự) bỗng vương
màu áo tím mà thành trang du ký lưu lại cho đời.
Trong số các du ký viết về Huế hồi đầu thế kỷ thì tiểu loại khảo cứu
có ý nghĩa cung cấp thêm tư liệu lịch sử, ghi lại được chính xác nhiều chi
tiết, cảnh quan văn hoá xưa mà nhiều mảng màu ngày nay đã phôi pha
hoặc không còn nữa. Theo cách miêu tả của Nguyễn Đức Tính trong Các
lăng điện xứ Huế (Nam phong, số 141, tháng 8-1929) thì đó là chương
trình kiến tập, thực tập của ban du lịch Trường Quốc học Huế để "cung
chiêm cung điện, lăng tẩm". Bởi theo ông: "Tới Huế có đi cung chiêm
lăng tẩm, cung điện của Huế thì mới biết Huế là thế nào". Tiếp đó ông mô
tả chi tiết khu Hoàng thành và chín chiếc đỉnh đúc từ năm Ất Mùi (1835),
thăm lăng Thiên Thụ, điện Sùng Ân, điện Ngọc Trản và câu chuyện bất
chợt gặp ông quan hưu trí Nguyễn Đình Hoè: "Vả từ khi về hưu trí thì
quan Thượng lại lên vỡ hòn núi ở sau núi Ngọc Trản để lập trại làm chè,
cho nên nhân tiện quan Đốc đưa học trò vào đó mà xem cách trồng chè
đã, rồi sau mới ra xem điện. Thầy trò vào trà nước xong rồi thì quan
Thượng dẫn ra xem trại của ngài"
Vào hồi đầu thế kỷ, do chữ Quốc ngữ phát triển và nhu cầu thông
tin, giao lưu văn hoá tăng mạnh khiến cho loại du ký phong tục, ghi chép
về lễ hội, tường thuật các cuộc triển lãm - đấu xảo - chợ phiên có dịp nảy
nở… Khác với Hà Nội và Sài Gòn có dân số đông, nền kinh tế phát đạt thì
xứ Huế vẫn trang trọng như là một nơi bảo lưu được vẻ cổ kính, truyền
thống xưa cũ, xứng đáng là nơi đế đô, đất "thần kinh". Ông Phạm Quỳnh
trong bài Mười ngày ở Huế (Nam phong, số 10, tháng 4-1918) đã không chỉ
phác thảo cảnh quan xứ Huế mà còn cảm nhận lại được cái "cữ thời gian"
hợp lý nhất để đi du lãm lăng miếu, thắng cảnh: "Có người Pháp rất mến
cái cảnh những nơi lăng tẩm của ta đã từng nói, muốn đi xem lăng phải đi
vào những ngày gió thu hiu hắt, giời đông u ám thì mới cảm được hết cái
thú thâm trầm"; hoặc cả chiều sâu kinh nghiệm trong cách lựa chọn kiểu
cách và phương tiện đi du lịch: "Đi xem lăng có thể đi xe tay từ Huế, ước
mất bốn năm giờ đồng hồ. Nhưng đi xe không bằng đi thuyền, tuy mất
nhiều thì giờ hơn mà thú hơn nhiều. Thuyền chèo từ nửa đêm, ước tám
giờ sớm mai tới nơi, đi xem suốt một ngày, chiều tối chèo về, nửa đêm
đến Huế, cả thảy không đầy hai đêm một ngày mà được nằm nghỉ thảnh
thơi ngắm cảnh sông Hương, không mỏi mệt như ngồi trên xe". Ấy là nói
cái thú và tốc độ sinh hoạt của người sống cách hôm nay dư tám chục
năm rồi, chứ chuyện tầu xe bây giờ chắc đơn giản lắm! Trong thiên du
ký Mười ngày ở Huế, tác giả không chỉ xem cảnh ngắm đền, miêu tả tỉ mỉ
ngày lễ Tế giao đích nhật đêm 12 rạng 13 tháng 2 năm Mậu Dần, tức 24 và
25-3-1918 (cũng có đủ cả múa bát dật, hát Võ thiên uy, Văn thiên đức) mà
gắng tìm hiểu chiều sâu phong hoá xứ Huế - những con người vốn là chủ
nhân ông của Huế: "Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy
xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành
câu ca cho con trẻ hát, ấy mới rõ tính tình của người xứ Huế. Cho nên ở
Huế, phong cảnh đã xinh, những nơi lăng tẩm đã đẹp, mà dễ quí nhất là
những nhân vật của xứ Huế vậy. Tôi tiếc vì không ở được bao lâu, trong
khoảng mười ngày lấy đâu mà biết cho khắp những bậc danh sĩ cao nhân,
thường là người ẩn dật, không phải hằng ngày mà gặp được". Rồi tác giả
dành hơn một trang dẫn chứng về Nữ sử Đạm Phương và dòng văn
Nguyễn Khoa, lại đặc cách giới thiệu hai bài thơ Nhớ cảnh núi và thêm
bài Nhớ bạn theo lối liên hoàn của bà.
Đến Phục Ba với Cuộc đi chơi Huế (Nam phong, số 157, tháng 12-
1930) có lẽ là một hồi ký hơn là những ghi chép tức thời. Tác giả kể rằng
lần đầu đến Huế từ 1906, còn chuyến đi đang được kể lại diễn ra vào năm
1916 và hơn mười năm sau đó mới in báo. Hãy xem ông viết: "Hồi tưởng
hai mươi sáu năm về trước đến bây giờ vẫn in sâu trong trí não, chửa bao
lâu mà cái quang cảnh đã khác xưa, khác tự hoàn cảnh nó thay đổi Cuộc
đời kim cổ, bước khách giang hồ, ai giục ta đi, ai ngăn ta lại, thôi cũng
phiếm du một dạo cho thoả chí tang bồng" Cũng có phần tương tự,
Nguyễn Tiến Lãng trong du ký Lại tới thần kinh (Nam phong, số 200+204,
tháng 7+9-1934) đã nói rõ mình tới Huế đây là lần thứ tư với công việc làm
báo. Cùng với những đoạn tả cảnh, tả việc, tả người xứ Huế thì vẫn canh
cánh trong ông những nhớ thương một thủa, bảng lảng như mất như
còn, bâng khuâng thảng thốt: "Huế, cái tỉnh thật đúng với tên gọi là HUẾ,
cái đất khiến cho người phải yêu mê yêu mệt! Xưa kia được thấy Huế, đó
là một điều mong ước cần nhất, quí nhất của khách này Cùng em gặp
gỡ, Huế ơi, lần đầu kể tới nay đã được bốn năm trời. Vì em, ta lúc ấy còn
là học trò ban Triết học trường Allbert Sarraut, bỏ cả học hành luôn mấy
buổi; một thầy giáo cũ ở bên trường Bảo hộ, ông Foulon, cùng ta làm bạn
tìm em Cùng em gặp gỡ, Huế ơi, lần thứ hai Thần kinh điểm nét mưa
xuân, ta thăm vườn Tĩnh Tâm, thăm cung điện, miếu đền, ta mến cái
phong cảnh trong thành và những khắc giờ im lặng, cái thú vị sông
Hương cùng các hương thơm của sông Hương. Nhưng bao nhiêu cái đó
ta cũng chỉ nếm biết một ly mà thôi; dạ chưa thoả, đã lại phải xa em, xa em
mà trong lòng còn tiếc bao nhiêu tình cảm chưa được hưởng Ngày
ngày, tháng tháng, năm năm, thấm thoát một lần thứ ba nữa lại cùng em
tương kiến Bây giờ lại tới Thần kinh một lần thứ tư này, sẽ tới Thần kinh
do chuyến xe tốc hành đang vùn vụt chạy trong đêm rộng trời khuya này,
không biết khi tới thì có được xem cái vẻ mặt mới mẻ của kinh thành
Huế?"
Lại có những ký giả không sống, không ở lâu với Huế mà chỉ đi lướt
qua, thoáng qua mà thành nỗi ám ảnh. Nguyễn Trọng Thuật trong Nam du
đến Ngũ Hành Sơn (Nam phong, số 184+185, tháng 5+6-1933) đã dành số
lớn trang viết kể về những ngày tạm dừng chân ở Huế, trước khi đến thăm
Ngũ Hành Sơn. Đáng chú ý ở đây có đề mục Thăm người tiếp chuyện kể
về việc tác giả cùng các ông Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Cát Thành,
Đông Mĩ tìm đường đến Đông Ba thăm tiên sinh Huỳnh Thúc Kháng, qua
Yên Cựu thăm Nghị trưởng dân biểu Nguyễn Trác và Thư ký viện Dân biểu
Trung kỳ Trần Bá Vinh; hoặc đề mục Từ Huế ra cửa Hàn, tác giả rất mực
đề cao Công ty dịch vụ du lịch Hào Hưng vừa nhạy bén trong kinh doanh
vừa chu đáo, khéo léo trong ứng xử với khách hàng
Một bài viết khác của Mẫu Sơn Mục N.X.H nhan đề Lược ký đi đường
bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn (Nam phong, số 129, tháng 5-1928) lại phân biệt
cuộc đi chơi với đi xem lăng tẩm, song vẫn cứ còn nuối tiếc và tự an ủi:
"Chiều 6 giờ đến Huế, khi đi khi về đều vội cả, tôi tiếc không được ở lại
vài ngày để xem cung điện, lăng tẩm - nhưng cái này thuộc về mĩ thuật,
không phải là chủ đích cuộc đi chơi, cho nên cũng không cần lắm". Rồi
ông có cách quan sát và đúc kết lý thú: "Ở Huế đẹp nhất là con sông
Hương Giang, nước sông trong mà thường đầy, khúc trên thì cây cối um
tùm, xóm gianh ẩn ước, đò ngang dịu dàng, ra bức tranh sơn thủy cổ ;
lấy con mắt cũ mà xem thì kỳ đài Ngọ Môn trang nghiêm vô hạn, mà lấy
con mắt mới mà xem thì cái vẻ trang nghiêm này cơ hồ bị cái vẻ tráng lệ
lâu đài tối tân ngập lụt đi mất cả Nói tóm lại, kinh đô Huế là nơi phong
cảnh xinh đẹp, êm đềm u nhã ". Như vậy là biết bao những khách "qua
đàng" đã chẳng thể hững hờ với Huế, mong muốn thăm danh lam thắng
cảnh và tìm hiểu cả chiều sâu văn hoá Huế
(4)
.
*
Cùng với sự phát triển của chữ Quốc ngữ, báo chí và chính cơ sở
kinh tế xã hội đã cho phép thể tài du ký trên Tạp chí Nam phongcó điều
kiện hưng khởi. Các tác giả viết du ký vừa nhằm thoả mãn hứng thú nội
tâm, trình bày những cảm xúc cảm nhận riêng tư vừa hướng tới giới thiệu
những điều trải nghiệm tai nghe mắt thấy liên quan tới mỗi thắng cảnh và
di tích lịch sử. Đó cũng là nhu cầu tự nhiên kết nối giữa chủ thể sáng tác
và phía tiếp nhận, nghĩa là bạn đọc cũng sẽ được hướng dẫn đi tham
quan, du lịch, hành hương về Xứ Đẹp và cội nguồn lịch sử dân tộc nhờ
chính các trang du ký./.