Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Quan niệm về tiểu thuyết trong Lý luận phê bình văn học Đô thị miền Nam 1954-1975 _2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.89 KB, 7 trang )

Quan niệm về tiểu thuyết trong
Lý luận phê bình văn học Đô thị
miền Nam 1954-1975





o với các thể loại khác, tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn. Không những
thế, nó "là một thể loại văn chương đang biến chuyển và còn chưa định hình
(1)
.
Việc nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết là một yêu cầu chủ yếu, luôn có tính thời sự của
lý luận văn học. Vì vậy, đi tìm quan niệm tiểu thuyết cũng là vấn đề có ý nghĩa về mặt lý
thuyết
Ở nước ta việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết xuất hiện khá sớm với công
trình Bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh trên tạp chí Nam phong năm 1921. Sau đó là
các công trình chuyên khảo về tiểu thuyết: Theo dòng (1941) của Thạch Lam, Khảo về
tiểu thuyết (1941) của Vũ Bằng. Ngoài ra, còn có một số công trình cũng bàn về một số
vấn đề của tiểu thuyết như Phê bình và cảo luận (1938) của Thiếu Sơn, Nhà văn hiện
đại (1942) của Vũ Ngọc Phan Tuy điểm nhìn và phạm vi nghỉên cứu mỗi công trình có
khác nhau nhưng với sự có mặt của chúng, lịch sử nghiên cứu thể loại tiểu thuyết đã
bước đầu hình thành và đặt nền móng cho việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết sau này.
Ở đô thị miền Nam, giai đoạn 1954-1975, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết
cũng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lý luận phê bình với một số công trình tiêu biểu
như Nhân vật trong tiểu thuyết (Nhiều tác giả, Sáng tạo, số 1/1960); Viết và đọc tiểu
thuyết (Nhất Linh, Nxb. Đời nay,1961); Hiện hữu của tiểu thuyết (Lê Tuyên, Đại học số
4/1961); Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932 -1945 (Thanh Lãng, Đại học số 2 tháng
4/1961); Tiểu thuyết hiện đại (Tràng Thiên, Nxb Thời mới, 1963);Xây dựng tác phẩm
tiểu thuyết (Nguyễn Văn Trung, Nam sơn xb, 1965); Sự hình thành của tiểu thuyết
mới trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Phạm Thế Ngũ, Quốc học Tùng thư


xb, 1965); Chuyện phiếm về tiểu thuyết (Triều Sơn, Văn số 34, ra ngày 15/5/1965); Văn
học và tiểu thuyết (Doãn Quốc Sỹ Sáng tạo xb, 1973)… Ở các công trình này nhiều vấn
đề lý luận về tiểu thuyết được đặt ra với một cái nhìn đa diện, đa chiều như: Quan niệm
về tiểu thuyết, nhân vật và phương thức xây dựng nhân vật tiểu thuyết, cốt truyện trong
tiểu thuyết
1. Một cái nhìn đa diện về tiểu thuyết
Nếu ở những giai đoạn trước, cách hiểu tiểu thuyết còn mang tính khái quát để chỉ
chung cho tác phẩm văn xuôi dù đó là truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài thì ở giai đoạn
S

này, khi sự phân định về mặt thể loại ngày càng cụ thể hơn, khái niệm về tiểu thuyết
cũng được các nhà lý luận phê bình văn học đô thị miền Nam hiểu một cách rõ ràng, sát
với đặc trưng thể loại. Trong chuyên luận “Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết”, Nguyễn Văn
Trung cho rằng: “yếu tính của tiểu thuyết là cái tưởng tượng, không thể kiểm chứng
được”
(2)
. Đó cũng là quan niệm của Duyên Anh "Tiểu thuyết mà thiếu tưởng tuợng
không phải là tiểu thuyết. Và bắt buộc, nó khó lòng thoát lên cao. Nó chỉ là đất trên mặt
cỏ"
(3)
. Còn với Võ Phiến “tiểu thuyết là công trình giả tưởng. Màu trời, sắc nắng, cây, lá,
gió, trăng, mọi hoạt động trong đó đều bịa đặt”
(4)
. Và theo Trần Văn Nam: “Tiểu thuyết
là truyện bịa đặt y như sự thật”
(5)
. Tuy cách diễn đạt có khác nhau, song trong quan niệm
của các tác giả trên đều thống nhất cho rằng yếu tính của tiểu thuyết là tưởng tượng, hư
cấu. Nhưng tiểu thuyết có phải hoàn toàn là sản phẩm của tưởng tượng và hư cấu? Điều
ấy chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời trong quan niệm tiểu thuyết của lý luận phê bình văn

học ở đô thị miền Nam.
Thật vậy, dù đề cao vai trò tưởng tượng và hư cấu của tiểu thuyết, nhưng các nhà
lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam cũng thấy được mối tương liên giữa tưởng
tượng, hư cấu trong tiểu thuyết với hiện thực cuộc đời. Vì vậy trong quan niệm của họ,
nhà văn dẫu có hư cấu cũng phải trên cơ sở tôn trọng sự thực đời sống. Bởi vì “Với sự
có mặt của mình trước cuộc đời, với sự hiện hữu của mình ở trong cuộc đời, tiểu thuyết
là một hình thái của nghệ thuật, một lối diễn đạt của con người gần với cuộc đời nhất”
(6)
.
Và “tiểu thuyết không phải là tả cảnh, tả tình nhưng là một suy nghĩ ( ) truyện không
còn phải là một giải trí nhưng là một sự thức tỉnh đưa tới nhận định về cuộc đời”
(7)
. Tuy
thấy được sự tương giao giữa tiểu thuyết và cuộc đời nhưng trong quan niệm của lý luận
phê bình văn học ở đô thị miền Nam, hiện thực trong tiểu thuyết không phải là đời thực
mà chỉ mang bóng dáng cuộc đời, là "ảo ảnh" của cuộc đời. Vì theo Nguyễn văn Trung
“Tiểu thuyết không bao giờ thực mà chỉ có vẽ thực”
(8)
. Do đó, nếu đồng nhất cuộc sống
trong nghệ thuật với cuộc sống ngoài đời, sẽ làm nghèo đi cả hai hiện thực ấy. Và như
thế, liệu có cần đến sự hiện hữu của văn học nữa không? Câu trả lời chắc chẳng khó
lắm, khi mà không ai ngây thơ tin rằng những ông bụt, ông tiên trong truyện cổ tích là
có thật!?. Theo Lê Tuyên “Tiểu thuyết phải thoát cuộc đời một chút và chỉ có thể có
thực với cuộc đời, vì cuộc đời có thể là như thế”
(9)
. Còn nói như Nguyễn Đình Toàn
“Tiểu thuyết không phải là tấm gương, phản ảnh đời sống mà là cái phần được che giấu
của đời sống, cái phần không thuộc về đời sống”
(10)
. Quả thật, tiểu thuyết cho dù là tấm

gương phản ánh đời sống, cũng không bao giờ là bản sao của cuộc sống. Bởi lẽ ngoài
việc phản ánh thực tại cuộc đời, tiểu thuyết còn phải phản ánh được thế giới thẳm sâu
của tâm hồn con người và “giá trị của một cuốn tiểu thuyết là đi sâu vào tâm hồn người
đời”
(11)
. Vì thế, nếu chúng ta mãi băn khoăn, tiểu thuyết phản ánh được bao nhiêu phần
trăm sự thật ở đời, lấy đó làm căn cứ thẩm định giá trị tác phẩm tiểu thuyết thì vô hình
trung làm nghèo thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết và làm vơi đi thế giới tưởng tượng
của người tiếp nhận. Giá trị tiểu thuyết cần nhất là sâu sắc và “Sâu sắc chính là ở chỗ
mình diễn tả được tất cả những cái mông lung bí ẩn của tâm hồn”
(12)
.
Như vậy quan niệm về tiểu thuyết của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền
Nam là một cái nhìn đa diện, đa chiều. Tuy họ đều thống nhất cho rằng yếu tính của tiểu
thuyết là tưởng tượng, hư cấu nhưng dù là tưởng tượng, hư cấu thì tiểu thuyết cũng phải
tái tạo cuộc sống, phải mang hình bóng của cuộc đời. Thoát ly cuộc đời, tiểu thuyết sẽ
không còn là tiểu thuyết, sẽ đánh mất giá trị nhân bản; sẽ không thể sống trong lòng
người đọc. Vì từ trong ý thức sáng tạo, nhà tiểu thuyết “bao giờ cũng muốn trình bày
những con người sống thực. Mà con người sống thực bao giờ cũng có liên hệ chặt chẽ
với xã hội, với quá khứ”
(13)
.
2. Về nhân vật tiểu thuyết
Một trong những thành phần quan trọng của tiểu thuyết là nhân vật. Nói đến tiểu
thuyết là nói đến việc xây dựng nhân vật. Nhưng có hay không nhân vật trong tiểu
thuyết, và nếu có thì vai trò, vị trí và phương thức tồn tại của nó như thế nào, đó là vấn
đề lý thuyết mà mọi nền lý luận văn học đều quan tâm lý giải. Chính vì thế, cuộc thảo
luận về “nhân vật tiểu thuyết” do tạp chí Sáng tạo tổ chức đã khẳng định sự quan tâm
của các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam cũng như góp phần trả lời vấn
đề quan niệm về nhân vật tiểu thuyết. Ở cuộc thảo luận này, vấn đề được bàn thảo nhiều

nhất đó là vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết.
Theo Trần Thanh Hiệp, trong tiểu thuyết vấn đề quan trọng "phải là vấn đề nhân
vật. Người ta sẽ tìm thấy bộ mặt con người trong các nhân vật của tiểu thuyết (…) Trong
tiểu thuyết, ngoài nhân vật còn có gì khác nữa, thời nhân vật cũng vừa là cá thể, vừa là
linh hồn”
(14)
. Còn Thanh Tâm Tuyền lại cho rằng trong tiểu thuyết “không khí là chính,
nhân vật là phụ”
(15)
. Nhưng Tô Thùy Yên lại không đồng tình với Thanh Tâm Tuyền và
khẳng định: “gây không khí cho tiểu thuyết là một điều kiện cần thiết nhưng chưa đầy
đủ (…) không khí chỉ là môi trường cho nhân vật cử động thôi, thành thử nhân vật vẫn
là trọng tâm của tiểu thuyết gia”
(16)
. Qua cuộc thảo luận về nhân vật tiểu thuyết trên tạp
chí sáng tạo, ta thấy việc xác định vai trò nhân vật tiểu thuyết trong quan niệm của lý
luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam còn có ý kiến chưa thống nhất. Nhưng quan
niệm về sự hiện hữu của nhân vật trong tiểu thuyết là một điều đã được khẳng định.
Song không chỉ ở cuộc thảo luận này vấn đề nhân vật tiểu thuyết mới được nói đến mà ở
một số công trình nghiên cứu về tiểu thuyết, các nhà lý luận phê bình cũng đã bày tỏ
quan niệm của mình. Nhất Linh trong tác phẩm “Viết và đọc tiểu thuyết” cho rằng “Viết
tiểu thuyết là tả cuộc đời mà trong đó hầu hết là tả con người”
(17)
, mà con người trong
tiểu thuyết, không gì khác đó chính là nhân vật tiểu thuyết. Với Doãn Quốc Sỹ trong
công trình nghiên cứu Văn học và tiểu thuyết đã khẳng định: “Đối tượng của kịch cũng
như tiểu thuyết là những nhân vật hành động”
(18)
. Còn theo Võ Phiến “Người làm thơ có
thể không cần biết tới ai ngoài mình, không cần nói tới ai ngoài mình (…) còn lại các

nhà viết kịch, các họa sĩ và các người viết tiểu thuyết, những người này thì phải đẻ ra
nhân vật”
(19)
.
Như vậy, dù còn có những ý kiến khác nhau trong cách nhìn về vai trò của nhân
vật tiểu thuyết nhưng trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam,
nhân vật là linh hồn, là yếu tố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật có thể tìm
thấy “bộ mặt con người”. Nói một cách khác, nhân vật là chiếc cầu nối giữa “cuộc đời
thực” với “cuộc đời có vẻ thực” trong tiểu thuyết. Qua thế giới nhân vật, người đọc sẽ
tìm thấy những vấn đề nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm, muốn sẻ chia. Vì vậy, quan
niệm về phương thức xây dựng nhân vật tiểu thuyết cũng là một vấn đề mà khi nghiên
cứu về tiểu thuyết không thể không đề cập đến.
Trong chuyên luận Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết Nguyễn Văn Trung cho rằng
“Nhà văn nào cũng có ý nghĩ của mình về cuộc đời và khi cầm bút viết tức là muốn
dựng lên một thế giới con người và sự vật nhằm thể hiện những ý nghĩ đó. Cho nên hai
yếu tố cấu tạo chính của tác phẩm tiểu thuyết là nhân vật và sự vật. Vậy phải xây dựng
một nhân vật thế nào trong truyện? Câu hỏi đó đặt vấn đề kỹ thuật xây dựng”
(20)
. Và để
trả lời câu hỏi này, Nguyễn văn Trung cho rằng việc xây dựng nhân vật tiểu thuyết bao
giờ cũng tùy thuộc vào quan niệm về con người của nhà văn. Và ứng với mỗi quan niệm
về con người là một phương thức xây dựng nhân vật tiểu thuyết. Theo ông, nếu quan
niệm tiểu thuyết là một quang cảnh thì “dù khác nhau về quan điểm nhìn tất cả đều
giống nhau ở chỗ: công nhận tác giả khác nhân vật”
(21)
. Còn nếu quan niệm tiểu thuyết là
một ý thức thì “Tác giả là chính nhân vật, hay chính nhân vật nhìn cuộc đời, nhìn
mình”
(22)
. Và nếu quan niệm tiểu thuyết là một phản tiểu thuyết thì: “Họ từ chối nhân vật

vì không “có” con người trong tác phẩm, không có phân tích tâm tình, cảm nghĩ gì cả.
Vì không có nhân vật nên không có “truyện” để kể, truyện hiểu theo nghĩa một câu
chuyện có những tình tiết gay go, đặc biệt, li kì hay phức tạp đáng kể như trong tiểu
thuyết cũ. Không có “truyện” cũng không có “tình tiết” vì chủ đích của nhà văn không
phải là kể chuyện nhưng là lấy một vài sự việc nhỏ tầm thường để thể hiện một cái nhìn
đặc biệt về cuộc đời bằng cách sử dụng những kỹ thuật diễn tả đặc biệt”
(23)
. M. Bakhtin
trong tác phẩm Lý luận và thi pháp tiểu thuyết cho rằng: “Tiểu thuyết không có những
qui phạm như những thể loại khác”
(24)
. Do đó quan niệm về phương thức xây dựng nhân
vật tiểu thuyết cũng là một quan niệm không bao giờ bị “đông cứng”. Chính vì vậy trong
lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, không chỉ có Nguyễn Văn Trung bàn đến
vấn đề phương thức xây dựng nhân vật tiểu thuyết mà nhiều nhà nghiên cứu khác cũng
quan tâm.
Trong cuộc thảo luận về “nhân vật tiểu thuyết” do Tạp chí Sáng tạo tổ chức, Duy
Thanh cho rằng “nhà tiểu thuyết chỉ xây dựng những nhân vật quen thuộc với mình,
những nhân vật mà mình có hiểu biết về họ, sống với họ”
(25)
. Chính nỗi ám ảnh về nhân
vật là nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn “Nhân vật và nỗi ám ảnh của tác giả nó như
những sự vật bị hút vào một lòng trái đất. Có thể tác giả dựng một cách khách quan
nhiều nhân vật với những nết hay tật xấu khác nhau nhưng sự hiện diện của toàn thể các
nhân vật đó đủ để chứng minh một cái gì. Cái gì đó chính là nỗi ám ảnh của tác giả”
(26)
.
Còn Nhất Linh trong Viết và đọc tiểu thuyết thì quan niệm “Không thể nào viết truyện
hay nếu nhân vật chỉ lờ mờ trong óc”
(27)

. Vì thế, theo Nhất Linh, nhà văn trong quá trình
xây dựng nhân vật tiểu thuyết cần phải chú ý đến bốn vấn đề: “tính tình, cử chỉ, lời nói,
hình dáng”
(28)
. Đây cũng chính là những yếu tố cơ bản tạo nên tính cách nhân vật tiểu
thuyết.
Như vậy, trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, nhà
văn chỉ có thể xây dựng nhân vật tiểu thuyết bằng chính vốn sống và sự hiểu biết về
nhân vật. Và như thế, một vấn đề đặt ra trong phương thức xây dựng nhân vật tiểu
thuyết, là giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa nhân vật và tác giả. Có ý kiến cho
rằng nhân vật trong tác phẩm là hình ảnh của tác giả. Nhưng cũng có ý kiến ngược lại.
Vấn đề này, theo chúng tôi cần được hiểu một cách linh động hơn. Là sản phẩm do nhà
văn sáng tạo, nhân vật tiểu thuyết tất nhiên phải là hình bóng, là hiện thân tư tưởng của
nhà văn, vì “bản chất tiểu thuyết không có gì đố kỵ với tư tưởng, miễn là tư tưởng đừng
thủ tiêu, đừng hút hết máu tươi và da thịt của nhân vật để chỉ còn lại những bộ xương
khô”
(29)
. Và “Ở những tác phẩm lớn của nhân loại về tiểu thuyết, tư tưởng cao sâu đều
có cái duyên may gặp được những nhân vật sống, có cá tính, mang ra phô diễn. Nhân vật
linh động là điều cần thiết, nhưng chưa đủ để làm ra tác phẩm vĩ đại”
(30)
. Nhưng dù nhân
vật có là cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn, thì nhân vật cũng không bao giờ là
hình hài của tác giả, là đồng nhất với tác giả. Cho nên trong xây dựng nhân vật, nhà văn
đừng bao giờ biến nhân vật thành chú lừa chở quá nhiều tư tưởng của mình. Vì trong
quan niệm của Võ Phiến “Người đọc tiểu thuyết không thích bị đưa đi quá xa vào cái thế
giới lạnh lẽo của ý tưởng thuần túy đến nỗi mất liên lạc với xã hội loài người. Đi đâu thì
đi hãy để cho họ còn được tiếp xúc với cuộc sống ấm áp của những con người thực”
(31)
.

Bởi lẽ qua nhân vật, nhà văn muốn gửi gắm những ý tưởng của mình về đời người và
người đời.

×