Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Những sự kiện nóng trong phê bình văn học Trung Quốc 2006 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.26 KB, 9 trang )

Những sự kiện nóng
trong phê bình văn học
Trung Quốc 2006





Bên ngoài, giới văn học trong năm 2006 không có sóng gió dữ dội
nhưng trên thực tế, sóng ngầm vẫn trào dâng. Những nhân tố dựa trên địa
vị văn hoá, thước đo giá trị, quan hệ lợi ích, rồi tuổi tác, giới tính giữa
những quần thể văn học khác nhau đã nảy sinh rạn nứt - rạn nứt của văn
đàn đang nảy sinh. Vấn đề và vấn đề, lập trường và quan điểm luôn có va
chạm, những sự kiện là điểm nóng không ngớt nảy sinh.

1. Tranh luận về giới của văn nghệ học

Đây là vấn đề gây tranh luận không ngừng trong giới lí luận phê bình
văn học mấy năm gần đây. Đầu năm 2006, có cuộc bút đàm lấy đầu đề
là Vấn đề giá trị hạt nhân của nghiên cứu văn nghệ học của nhóm Tiền
Trung Văn, Đồng Khánh Bính, Hứa Minh đăng trên tạp chí Khoa học xã
hội của Thượng Hải. Ba ông đã kết hợp những thay đổi về quan niệm của
bản thân và lịch sử phát triển môn văn nghệ học trong hơn 20 năm mà
mình đích thân chứng kiến để tổng kết nguy cơ của việc nghiên cứu văn
nghệ học đương đại cùng những tiêu điểm lí luận đột xuất, một lần nữa đi
sâu trình bày những tư tưởng cơ bản của “lý tính mới” của thuyết “hình
thái ý thức thẩm mĩ”, “của quan niệm về giá trị hạt nhân”, trong bài, ý
nghĩa của đạo thống
(1)
văn nghệ học được bảo vệ lớn hơn sáng tạo mới
về lí luận.



Sau đó, bài Mấy điểm suy nghĩ về phản đối và xây dựng môn văn
nghệ học trước mắt của Chu Lập Nguyên là nhằm trả lời khá toàn diện về
một loạt bài, trong đó có bài Suy ngẫm lại thẩm mỹ hoá cuộc sống thường
nhật với môn văn nghệ học của Đào Đông Phong. Bài viết thừa nhận
những sáng tạo mới về lí luận của nghiên cứu văn hoá về mặt quan điểm
và phương pháp luận, cho rằng vấn đề tồn tại của văn nghệ học đương
đại gồm: một là giữa văn nghệ học với lý luận phê bình văn học cùng thực
tiễn của nó tồn tại sự tách rời nào đó; hai là văn nghệ học ít quan tâm
nghiên cứu văn học thông tục là bộ phận quan trọng cấu thành văn hoá
đại chúng đương đại của nước ta; nhưng mặt khác, bài ông Chu cũng tỏ ý
rõ ràng không thừa nhận ý kiến “nguy cơ của văn nghệ học đương đại là
nguy cơ toàn diện”, càng không thừa nhận đơn thuốc mà những người
đề xuất thuyết “thẩm mỹ hoá cuộc sống bình thường” đưa ra: thúc đẩy
nghiên cứu văn nghệ học chuyển hướng sang “nghiên cứu văn hoá”. Chu
Lập Nguyên cho rằng, ở phương Tây, đối tượng của “nghiên cứu văn
hoá” là mơ hồ, hầu như bao gồm tất cả, do không có lĩnh vực và giới hạn
bộ môn rõ ràng, nên ưu thế đang dần dần chuyển thành liệt thế, văn nghệ
học đi theo hướng nghiên cứu văn hoá, rất dễ “thủ tiêu tính độc lập của tự
thân văn nghệ học, về căn bản hạ nó xuống thành bộ phận phụ thuộc của
lý luận nghiên cứu văn hoá”. Lời kết của bài viết đưa ra câu hỏi đầy lo
lắng: “Lẽ nào chúng ta cũng muốn dẫm theo vết xe đổ của học phái
Birmingham, để nghiên cứu văn nghệ học ngày càng xa với văn học, cuối
cùng đánh mất tính khoa học của mình và mất hút trên miền đất mênh
mang vô biên của “văn hoá” hay sao?”.

2. Tranh luận về tiêu chuẩn của truyện dài (tiểu thuyết trường thiên)

Năm 2005 là năm truyện dài lên tới đỉnh cao, trước sau có các truyện
dài Tần xoang của Giả Bình Ao, Huynh đệ của Dư Hoa, Tôi và em của Hàn

Đông, Bình nguyên của Tất Phi Vũ, Hối hận của Đông Tây, v.v được độc
giả và nhà phê bình để mắt tới. Các sách lược truyện truyền thống cũng
có tác dụng khuấy động, do đó cũng nảy sinh sự quan tâm tới những vấn
đề như hướng giá trị đối với truyện dài, quan hệ giữa độ sâu, độ rộng của
tinh thần và số lượng trang sáng tác v.v

Trong đó, ý kiến tập trung thể hiện ở cuộc thảo luận về mối quan hệ
giữa dung lượng với độ sâu của truyện dài. Trong Đương đại tác gia bình
luận số 1 năm 2006 đăng bài Bảo vệ sự tôn nghiêm của truyện dài của Mạc
Ngôn. Đây cũng là chuyên mục tiếp nối mở ra của tạp chí ấy. Mạc Ngôn
cho rằng: “Truyện dài thì phải dài, không dài sao gọi là truyện dài? Muốn
viết truyện dài cho dài rõ ràng là không dễ. Điều mà chúng ta thường nghe
thấy là lời kêu gọi hãy viết truyện dài cho ngắn lại. Trái lại ở đây tôi kêu
gọi truyện dài là phải viết cho dài! Tất nhiên, truyện dài viết cho dài, không
chỉ là chồng chất sự kiện và số chữ, mà phải có khí lượng lớn trong lòng,
phải là sự đại kiến tạo về nghệ thuật”. Mạc Ngôn vì thế coi độ dài của
truyện dài là sự tôn nghiêm của tiểu thuyết, ông nói: “Truyện dài không
thể vì muốn thích hợp với thời đại ưa khuấy động tình cảm này mà hy sinh
sự tôn nghiêm đáng có của mình. Truyện dài cũng không thể vì muốn
thích ứng với một số độc giả nào đó mà rút ngắn độ dài của mình, giảm
bớt mật độ và hạ thấp độ khó của mình”.

Uông Chính cho rằng, sự khác biệt giữa ngắn, dài và vừa của tiểu
thuyết có rất nhiều căn cứ kinh điển, hình thành nên những định luật thẩm
mĩ tương ứng. Nhà văn nên có ý thức về văn học sử, nên có ý thức kính
sợ kinh điển, còn “truyện dài nhỏ” (tiểu trường thiên) chẳng qua là kéo dài
truyện vừa mà thành. Truyện vừa vốn là một dạng văn thể thiếu rõ ràng
mới dấy lên, chưa thuần thục. Để thích ứng với nhu cầu của báo chí hiện
nay, lại thêm ảnh hưởng của sáng tác điện ảnh hoá, truyền hình hoá nên
mới có “tiểu trường thiên” mà hiện đang tràn lan đến thành tai hoạ, khiến

cho rất nhiều người vốn không thể sáng tác được truyện dài cũng được
thể trà trộn, làm hỏng hình ảnh của truyện dài truyền thống, khiến nhiều
đặc tính thẩm mỹ và chức năng thẩm mỹ của truyện dài truyền thống khó
có thể tiếp tục. Phức tạp biến thành đơn giản, phong phú trở thành nghèo
nàn; sâu sắc trở thành nông cạn. Rất nhiều kĩ xảo cùng sự biểu đạt mĩ học
dựa vào đó cũng trở thành điều không thể. Ví như miêu tả, miêu tả hiện
nay cơ hồ khó mà có đất cắm dùi, độ dài của “tiểu trường thiên” bị hạn
chế quá lớn, đâu còn có đủ thời gian mà miêu tả, chỉ có thể trần thuật, trần
thuật và trần thuật, cứ thế mà chạy như điên. Trên thực tế đó là việc văn
học trong thời đại đồ hoạ này đã tự động vứt bỏ ưu thế chữ viết của mình.

Hồng Trị Cương cho rằng, tuyệt đại đa số tiểu trường thiên không
thành công, vì chúng chỉ là một dạng sản phẩm tiêu dùng chạy theo mốt.
Sự hưng thịnh của tiểu trường thiên chỉ là nhằm thích hợp với tâm lý tiêu
dùng ăn nhanh của văn hoá đương đại, chỉ thích ứng với những mối quan
hệ nhân vật và kết cấu cốt truyện đơn giản, không phải là mục tiêu của
sáng tác truyện dài thực sự. Nói theo lý lẽ thường tình, điều mà một bộ
truyện dài cần phải biểu đạt nên là cuộc sống có tính phức tạp nhất định.
Việc giản ước hoá quá độ chỉ có thể do suy nghĩ thẩm mỹ của nhà văn
không thâm hậu, không đủ năng lực điều khiển văn bản, do đó mới lợi
dụng thời cơ và thủ đoạn khôn khéo rồi mua đường mà đi; hoặc vốn dĩ là
sự dàn dựng của một truyện ngắn hoặc của một truyện vừa mà nhà văn
về phía chủ quan cố ý pha thêm nước cho thành mà thôi.

Lý Kính Trạch cho rằng, truyện dài trước tiên phải trải qua độ dài tự
nhiên của sự thể nghiệm và kinh nghiệm. Những truyện dài của lứa sau
8X

hầu như đều là tiểu trường thiên, vì độ dài tự nhiên về kinh nghiệm của
họ chỉ có vậy. Ông cho rằng, sự hưng thịnh của tiểu trường thiên cho thấy

chúng ta đang giản hoá kinh nghiệm của chúng ta, cho thấy không cách gì
để những kinh nghiệm này có thể đi sâu và phát triển. Ông nghi ngờ tiểu
trường thiên là một kế thích nghi tạm thời về mặt nghệ thuật. Ông nói,
mấu chốt của vấn đề là chúng ta có thể duy trì việc nắm vững cái “nặng”
hay không. Từ khi Kundera
(2)
đưa ra cái “nhẹ” không thể chịu đựng nổi rồi
Italo Calvino
(3)
đưa ra cái “cái nhẹ nhàn dật”, thì triết học và mỹ học của
cái “nhẹ” được dùng rộng rãi ở Trung Quốc, trở thành trang bị hạt nhân
cho tầng lớp tiểu tư sản và thế giới quan thời thượng đang lưu hành. Vì
vậy truyện dài không quan trọng ở chỗ viết dài bao nhiêu thì thích hợp mà
ở chỗ phải chăng chúng ta cần duy trì sự thể hội và biểu hiện đối với cái
nặng, cái rộng, cái hỗn tạp và phong phú, cái sâu sắc với khó khăn.

Trong số các bài trả lời đăng trên Thượng Hải văn học, nhóm Cát
Hồng Binh nêu ý kiến là nên suy ngẫm lại cơ chế đánh giá truyện dài.
Chẳng nên câu nệ tuân theo khuôn khổ của chủ nghĩa hiện thực phê phán
thế kỉ XIX để rồi áp đặt cho sáng tác truyện dài hiện nay. Làm như thế sẽ
dẫn đến cách nhìn cứng nhắc về sự hình thành truyện dài của chúng ta.
Truyện dài thế kỉ XIX đã đạt đến đỉnh cao, các tác phẩm khi ấy được sáng
tác dưới quan niệm của nhận thức luận và của bản chất luận. Từ thế kỉ XX
tới nay, nhận thức luận đã có rất nhiều thay đổi. Quan niệm của chủ nghĩa
hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại va đập với khái niệm văn học cũ, nhưng
chúng ta đã thấy hệ thống đánh giá và ý niệm đánh giá truyện dài trong
nước đều không có sự chuyển biến tương ứng. Văn bản truyện dài nên là
cởi mở và ở trong sự biến động. Lối sáng tác lấy lịch sử trải rộng làm bối
cảnh, lối sáng tác theo kiểu một cuộn tranh xã hội có tiêu chuẩn cố định là
toàn cảnh và có tính hệ thống thì ngày nay xem chừng là một nhiệm vụ

không thể hoàn thành. Một tác phẩm lấy danh nghĩa dễ nghe là tái hiện
bản chất xã hội và số phận của nhân vật thì những thông tin bị che khuất
có thể còn vượt rất xa những thông tin biểu đạt ra.

3. Phê phán văn học đô thị

Những vấn đề của văn học đô thị bắt nguồn từ sự phát triển quá
nhanh của cuộc sống đô thị. Nhưng khi đối mặt với đô thị, bất kể là nhà
văn hay nhà phê bình đều thấy hoang mang.

Lý Kính Trạch trong Viết về Trung Quốc ngay tại đô thị rõ ràng đã
biểu thị sự hoang mang xác thực đó: “Chúng ta biết quá ít về thành thị và
nông thôn, suy nghĩ quá nông cạn, biết quá ít những kinh nghiệm hỗn tạp
và phức tạp của con người ở thời đại này. Kết quả là để cho quan niệm tự
vận hành, chẳng liên quan gì đến kinh nghiệm và cuộc sống của con
người”. Ông dẫn chứng: “Những năm 90 đến nay, nói đến đô thị chỉ có hai
từ then chốt: dục vọng và vật chất, đây cũng trở thành một dạng méo mó
và che đậy. Một mặt chúng hạn chế tầm nhìn của nhà văn; mặt khác, vì
những từ này là mù mờ, là mặt trái, cũng khiến người ta quen sử dụng
cách nhìn mặt trái để xem xét số tác phẩm đó”. Ông đồng thời cũng cho
rằng: “Trong trần thuật văn học, đô thị không thể không vay mượn ý nghĩa
của nông thôn. Đô thị chẳng thể tự dựa vào chính mình để sinh ra ý nghĩa.
Chỉ trong tình hình nông thôn (thông qua nông dân làm thuê), nhà văn mới
vụt phấn chấn tinh thần, nâng cao chí chiến đấu”. Trần Hiếu Minh trong
bài Văn học thành thị: người khác chẳng thể hiện thân cho rằng “văn học
thành thị là một ảo tưởng không tồn tại, văn học thành thị hiện nay không
hình thành một loại hình, một dạng đề tài, một dạng chủ đề có thể gọi
được là “văn học thành thị”.

Cát Hồng Binh trong bài Thượng Hải: tuyến đầu của sáng tác đô

thị tán đồng những phán đoán trước mắt về địa vị yếu kém của văn học đô
thị, cho rằng tự sự đô thị hiện nay sở dĩ không thành công là do tầm nhìn
văn hoá của chúng ta. Chúng ta không quan sát được tính phong phú của
cuộc sống đô thị mà biến đô thị theo hướng một chiều: 1. Sắc tình hoá; 2.
Biến sang dạng khác. Người ở ngoài rìa văn hoá trở thành nhân vật chính
của đô thị. Những nhân vật đùa bỡn với đô thị dưới ngòi bút Vương Sóc,
hay những con người thừa ở đô thị được miêu tả dưới ngòi bút các nhà
văn thế hệ mới sinh thời kỳ đầu đều đi theo lối này; 3. Yêu ma hoá. Đô thị
bị yêu ma hoá thành trường danh lợi, trường giác đấu; 4. Ấu trĩ hoá, ngụy
lãng mạn hoá. Chủ yếu biểu hiện ở một số tiểu thuyết viết về tuổi trẻ, ở
những nhà văn sinh sau những năm 70, 80; họ đã kỳ ảo hoá, lãng mạn hoá
đô thị, đô thị biến thành sàn diễn lãng mạn của huyễn tình tuổi trẻ. Dưới
ngòi bút của họ, đô thị chỉ có thế giới tình cảm mà không có cuộc sống xã
hội.

4. Tranh luận về tên gọi “văn học thế kỷ mới”

Việc đặt tên “văn học thế kỷ mới” có nguồn gốc trực tiếp từ Hội thảo
khoa học Năm năm văn học thế kỷ mới và thế kỷ mới của văn học do Hội
nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc, Viện nghiên cứu văn học văn
hoá của Đại học Sư phạm Thẩm Dương và tạp chí Văn nghệ tranh
minh liên kết mở hội thảo trong năm 2005, cùng chuyên mục Về văn học
thế kỷ mới trên tạp chí Văn nghệ tranh minh. Tổng biên tập tạp chí Văn
nghệ tranh minh Trương Vị Dân trong Lời mở đầu chuyên mục cho rằng:
“Văn học trong năm năm đầu thế kỷ XXI này vừa là hiện thực trước mắt,
vừa là lịch sử đương đại. Cảnh quan văn hoá và cảnh quan văn học của
thế kỷ mới đã thúc đẩy chúng ta phải dùng một tâm thái bình thường để
nhìn thẳng vào “thế kỷ mới”, nó cần chúng ta có tư duy lí tính trong mối
quan hệ đối thoại tạo nên với nó”. Trong một bài viết khác trình bày có hệ
thống “khái niệm văn học thế kỷ mới” trên tờ Nam phương văn đàn, tác

giả đã tiến một bước cho rằng: “sử dụng khái niệm “văn học thế kỷ mới”
này thì điều chúng ta đã làm là lại một lần thời gian hoá “văn học Trung
Quốc” và trên ý nghĩa thời gian hoá này mà tiến hành một lần tổng thể hoá
lịch sử”.

×