Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Độc học môi trường part 7 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 110 trang )


994
Khả năng gây ung thư tiềm tàng của 2,3,7,8–TCDD = 1,5E+5

LADIF = cá/bữa ăn (kg) x không bữa ăn/năm x ED
70 năm x 365 ngày/năm
Trong đó:
LADIF: lượng cá trung bình mỗi ngày (kg/ngày)
Cá/bữa ăn = 0,284 kg
Không có bữa ăn/năm = 48
Khoảng thời gian tính (ED) = 30 năm
LADIF = 0,016 kg/ngày

LADD = CW x BCF x LADIF
BW
Trong đó:
LADD: lượng trung bình mỗi ngày, mg/kg–ngày
CW: cô đặc trong nước, mg/l
BCF: tác nhân cô đặc sinh học = 50,000
BW: trọng lượng trung bình cơ thể người = 70 kg
LADD = 2,3E – 09 mg/kg – ngày

Rủi ro gây ung thư = LADD x nhân tố gây ung thư
= 3,45E–04

Khả năng không gây ung thư
= LADD x (70/30)RfD = 2,3E–09 x (70/30)/1E–09
= 5,4
22.11.2.4. Đánh giá tính độc của một số độc chất tiêu biểu
trong sự cố thiêu rác nguy hại
Cần phải đánh giá tính độc cho cả chất gây ung thư lẫn chất


không gây ung thư vì chất không gây ung thư vẫn có khả năng gây

995
nên các bệnh khác. Các tính độc này được đánh giá dựa trên tiêu
chuẩn US EPA – Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ và tiêu chuẩn
Cal/EPA. (Trong trường hợp Việt Nam thì dùng TCVN 2001)
a. Đánh giá sơ bộ các độc chất có trong sự cố thiêu rác
 Arsenic (As)
Nguồn gốc của As và các hợp chất của nó có trong thuốc bảo vệ
thực vật, thuốc trừ sâu, ngành dệt, thủy tinh, hợp kim trong công
nghiệp. Khi As–Pb tồn tại một lượng lớn trong cơ thể gây cảm giác
nóng xung quanh miệng, buồn nôn. Ngoài ra còn gây hại đến các bó
cơ, gan, thận và tim, theo sau đó là người nhiễm bò mê sảng, hôn mê
và cuối cùng tử vong. Nước uống bò nhiễm As đã được chứng minh là
có liên quan đến khả năng mắc bệnh ung thư cao hơn qua việc khảo
sát người dân ở Taiwan. Rủi ro gia tăng bệnh ung thư phổi được khảo
sát cho những công nhân đã lập gia đình sản xuất thuốc trừ sâu có
chứa As và những công nhân chế biến đồng, nơi có hàm lượng As rất
cao. Những khối u trong mạch máu ở gan được khảo sát từ những
người làm ở vườn nho trong nhiều năm sử dụng thuốc trừ sâu, dung
dòch tưới hoa, nước uống và rượu nho. Số còn lại hầu hết là do các hóa
chất khác gây nên As vô cơ ức chế DNA phục hồi cơ chế của vi khuẩn
và tế bào trong quá trình nuôi cấy. US EPA phân loại As là một chất
gây ung thư nhóm A căn cứ trên nghiên cứu khoa học về dòch tễ học.
 Beryllium (Be)
Be là một kim loại được dùng để sản xuất hợp kim với các kim
loại khác, có trong nhiên liệu và trong công nghiệp hạt nhân. Khi da
tiếp xúc trực tiếp với bụi Be dẫn đến bệnh viêm da, đối với da dễ mẫn
cảm thì dẫn đến nổi mề đay. Khi hít phải một lượng lớn Be thì dễ bò
viêm phổi đặc trưng bằng việc viêm toàn bộ đường hô hấp và có thể

trong một số trường hợp, dẫn đến tử vong. Bụi Be có thể tích tụ trong
phổi gây bệnh. Cả trung tâm nghiên cứu dòch tễ học và phòng thí
nghiệm trung tâm nghiên cứu động vật đều có kết luận Be là nguyên
tố có thể gây bệnh ung thư cho con người. Be được phân loại là chất
gây ung thư nhóm B2
 Cadmium (Cd)

996
Cd được sản xuất trong thương mại giống như trong công nghiệp
luyện kẽm. Phần nhiều công nghiệp sử dụng Cd có trong xi mạ, mạch
điện, plastic, phẩm nhuộm, hợp kim và chế tạo pin. Cd tồn tại một
lượng rất nhỏ trong thực phẩm và trong thuốc lá. Cd khi vào cơ thể
nó sẽ hòa tan muối. Cd có khuynh hướng tích lũy ngày một nhiều
trong cơ thể, chỉ có một lượng rất nhỏ bò bài tiết ra ngoài. Cd khi vào
cơ thể sẽ tập hợp ở thận và xương gây chứng nhuyễn xương. Lượng
Cd hít vào qua khói/bụi tại nơi làm việc gây bệïnh viêm cuống phổi,
khí thủng và gia tăng rủi ro gây ung thư phổi. US EPA phân loại Cd
là một chất gây ung thư nhóm B1 căn cứ trên nghiên cứu khoa học về
dòch tễ học và phòng thí nghiệm trung tâm nghiên cứu động vật.
 Chromium (Cr)
Cr có thể xâm nhập vào cơ thể từ thức ăn, tiếp xúc qua da, hít
thở hơi Cr. Trong môi trường, Cr tồn tại dưới hai trạng thái oxi hoá:
Cr III và Cr VI. Dạng Cr III thì ít độc, nó không có khả năng gây
bệnh ung thư và bản chất nó là một chất dinh dưỡng cần thiết cho sự
trao đổi glucose. Dạng Cr VI được xem là có tính độc nhiều hơn so với
dạng Cr III. Cr VI có thể là nguyên nhân gây các bệnh về da như
kích thích da nhầy và loét, làm thủng vách ngăn mũi, da dễ nhạy
cảm trong môi trường làm việc. Khi Cr VI xâm nhập vào cơ thể sẽ
gây hại đến thận và hệ thống hô hấp, làm tăng tỷ lệ mắc bệnh về
mũi và ung thư cuống phổi. US EPA phân loại Cr VI là một chất gây

ung thư nhóm A.
 Đồng (Cu)
Cu được sử dụng rộng rãi ở nhiều dạng khác nhau trong công
nghiệp, muối đồng được sử dụng làm thuốc diệt nấm. Hít phải một
lượng lớn khói hoặc bụi Cu sẽ gây nên hội chứng cúm. Khi Cu xâm
nhập vào cơ thể với một lượng lớn sẽ gây bệnh u xơ, xơ gan, rối loạn
chức năng thận. Cu có thể được phân loại là độc tố dưới nước. Cu
không phải là chất gây ung thư theo US EPA hoặc Cal/EPA.
 Chì (Pb)
Pb là nguyên tố tác động lên một số mô và cơ quan trong cơ thể.
Pb gây cản trở cho sự phát triển các nơ ron thần kinh ở trẻ, khi trẻ

997
tích tụ một lượng chì vượt quá mức độ cho phép. Độc chất chì tác
động lên ngoại vi hệ thần kinh, các mô máu, thận, gây viêm đường
ruột, viêm dạ dày. Chì được phân loại là chất có khả năng gây ung
thư nhóm B theo US EPA.
 Thủy ngân (Hg)
Thủy ngân gây độc cấp tính và mãn tính ở con người, rõ ràng
nhất là bệnh rối loạn thần kinh, các bệnh về thận, về đường ruột.
Tác động của thủy ngân lên hệ thần kinh gây nên các bệnh như run,
kích động, giảm trí nhớ. Thủy ngân không được phân loại là chất gây
ung thư bởi cả US EPA hoặc Cal/EPA
 Nickel (Ni)
Ni gây độc lên phổi và hệ miễn dòch của cơ thể. Ni đã được
trung tâm nghiên cứu động vật cảnh báo là chất độc làm giảm tuổi
thọ. Bụi từ nhà máy tinh luyện Ni có liên quan đến bệnh ung thư, và
bệnh đường hô hấp đối với công nhân làm việc ở đây. Bụi Ni được
phân loại là chất gây ung thư nhóm A.
 Benzen (C

6
H
6
)
Benzen là một dẫn xuất của dầu hỏa và được sử dụng như là
dung môi hòa tan trong công nghiệp hóa chất. Benzen được sử dụng
trong công nghệ tổng hợp cao su, nylon, polystyrene và trong thuốc
bảo vệ thực vật. Benzen là một chất dễ bay hơi, thâm nhập vào cơ
thể thông qua con đường thức ăn, hô hấp và tiếp xúc qua da. Benzen
tồn tại trong cơ thể với một lượng lớn sẽ dẫn đến tử vong, nhẹ hơn
thì ảnh hưởng đến hệ thần kinh, rối loạn nhòp tim. Benzen có nhiều
trong môi trường làm việc sẽ gây rối loạn tuần hoàn máu, bệnh bạch
cầu, gia tăng tỷ lệ mắc bệnh bướu. Benzen được phân loại là một chất
gây ung thư nhóm A theo US EPA.
 Carbon tetrachloride ( CCl
4
)
Carbon tetrachloride được sử dụng làm nhiều dạng dung môi hòa
tan khác nhau trong công nghiệp. Carbon tetrachloride được sử dụng
làm dung môi tẩy rửa, chất làm lạnh, tẩy kim loại, xông khói trong
nông nghiệp (để trừ sâu) và được dùng để sản xuất chất bán dẫn. Dấu

998
hiệu và triệu trứng của sự nhiễm độc carbon tetrachloride là nó kích
thích mắt, mũi và cổ họng, gây chóng mặt, đau đầu, buồn nôn, ỉa
chảy, loạn nhòp tim, gây hại đến thận và gan dẫn đến hôn mê và
chết. Carbon tetrachloride được phân loại là chất gây ung thư nhóm B
theo US EPA.
 Chloroform
Chloroform được sử dụng rộng rãi làm chất gây tê, và là thành

phần trong kem đánh răng, chất súc miệng, xi–rô ho và các loại thuốc
khác. Hiện nay chloroform được sử dụng làm dung môi hòa tan trong
các ngành công nghiệp. Chloroform là một chất dễ bay hơi, xâm nhập
vào cơ thể thông qua con đường thức ăn, hô hấp và qua da. Khi
chloroform tồn tại một lượng lớn trong cơ thể sẽ gây hôn mê, gây ảnh
hưởng đến thận và gan. Chloroform là một chất gây ung thư (thuộc
nhóm B) ở động vật.
 Formaldehyde
Formaldehyde là một chất gây kích thích. Nồng độ từ 0,5 ÷ 1 ppm có
thể cảm nhận bằng mùi được, từ 2 ÷ 3 ppm gây kích thích nhẹ và từ 4 ÷ 5
ppm thì có mùi rất khó chòu với hầu hết mọi người. Formaldehyde được sử
dụng rộng rãi trong công nghiệp. Formaldehyde được phân loại là chất
gây ung thư nhóm B2 theo US EPA.
 Polycyclic hydrocarbons thơm
Polycyclic hydrocarbons thơm (PAHs) là hợp chất có trong sản
phẩm cháy không hoàn toàn của hợp chất hữu cơ chứa hydro và
cacbon. Có vài trăm hợp chất PAHs được tìm thấy. Trong đó bao gồm:
naphthalene, benzo(a)anthracene, benzo(a)pyrene và chrysene và
nhiều hợp chất khác. PAHs có thể hòa tan tốt lipit và trong nhiều
trường hợp nó có thể hòa tan nhiều hợp chất khác. Một khía cạnh khác của
PAHs là nó là một loại hợp chất có khả năng gây ung thư đối với động vật.
Các hợp chất PAHs sau đây có nguy cơ gây bệnh ung thư tiềm tàng đối với
con người: benzo(a)anthracene; benzo(b)fluoranthene; benzo(k) fluoranthene;
benzo(a)pyrene, chrysene; dibenz(a,h)acridine; dibenz(a,j)acridine;
dibenzo(a,h)anthracene; 7Hdibenz(c,g)carbazole; dibenzo(a,e)pyrene;
dibenzo(a,h)pyrene; dibenzo(a,i)pyrene; dibenzo(a,i)pyrene; 7,12–

999
dimethylbenz(a)anthracene; indeno(1,2,3–c,d)pyrene; 3methylchlolanthrene;
và 5–methylchrysene.

 Benzo(a)pyrene
Benzo(a)pyrene là một thành phần trong hỗn hợp của PAHs với
than đá, hắc ín, nhựa đường, bồ hóng, cacbon đen, parafin và nhiều
dẫn xuất của dầu và khói thuốc lá. Khi tiếp xúc với một lượng lớn
PAHs gây kích thích da, mắt và phát ban. Qua điều tra nghiên cứu
trên động vật benzo(a)pyrene là nguyên nhân gây ung thư cho đời con
cháu của động vật (trong lúc mang thai) và benzo(a)pyrene còn được
truyền qua tuyến sữa khi cho con bú. Cuộc điều tra còn cho thấy
benzo(a)pyrene có khả năng gây ung thư dạ dày và ung thư phổi khi hít
thở phải. Benzo(a)pyrene được phân loại là một chất gây ung thư nhóm
B theo US EPA và Cal/EPA. Một số chất thuộc benzo(a)pyrene giống
như than đá, hắc ín, nhựa đường, than cốc, bồ hóng, dầu và khói thuốc
thì được cơ quan nghiên cứu về bệnh ung thư toàn cầu (IARC–
International Agency for Calcer) công nhận là chất gây ung thư.
 Dibenzo(a,h)anthracene
Dibenzo(a,h)anthracene là một thành phần của polycyclic hydrocarbons
thơm, có thể coi nó giống như PAHs. Nó là chất gây độc cho da.
Dibenzo(a,h) anthracene là chất có khả năng gây ung thư nhóm B
theo US EPA.
 Naphthalene
Naphthalene là chất được sử dụng trong công nghệ nhuộm, tổng
hợp nhựa, dung môi, chất bôi trơn, thuốc trừ sâu. Naphthalene xâm
nhập vào cơ thể qua đường thức ăn, tiếp xúc qua da và hô hấp. Một
lượng lớn naphthalene sẽ gây nôn mửa, đau đầu, kích thích mắt, tiểu
ra máu, co giật, ảnh hưởng đến phổi và gan. Ngoài ra nó còn gây
bệnh đục thể thủy tinh, chết hoại phổi trên một số động vật nghiên
cứu. US EPA phân loại naphthalene là chất gây ung thư tiềm tàng.
 Dioxin (Polychlorinated dibenzo–p–dioxins và polychlorinated
dibenzofurans)


1000
2,3,7,8– tetrachlorinated dibenzo–p–dioxin được dùng để sản
xuất chlorophenols và các chất gây ô nhiễm như: 2,4,5–
trichlorophenol (2,4,5– TCP); axít 2,4,5– trichloro–phenoxyacetic
(2,4,5–T) và các chlorophenol khác. Một loại thuốc diệt cỏ và chất làm
rụng lá với thành phần 2,4,5–T có chất dioxin đã được tìm thấy trong
chất độc màu da cam ở Việt Nam. Dioxin là một hỗn hợp phức tạp
của polychlorinated dibenzo–p–dioxins (PCDDs), polychlorinated
dibenzofurans (PCDFs). Trong điều kiện các chất gây ô nhiễm như
chlorophenols, PCDDs và PCDFs có nguồn gốc khác nhau, như trong
các lò đốt rác đô thò và chất thải công nghiệp, từ các nguồn đốt khác,
đặc biệt là trong chất thải nguy hại, chất bảo quản gỗ. Có 210 đồng
phân khác nhau của PCDDs và PCDFs, nhưng chỉ có một vài chất
được kiểm tra là có chất độc. Chất độc nhất là 2,3,7,8–tetrachloro–
dibenzo–p–dioxin (TCDD); thực vậy TCDD được tìm thấy trong hầu
hết động vật đem nghiên cứu. Một đồng phân khác (có ít chất độc hơn
so với TCDD) và nhiều nồng độ clorua hơn so với đồng phân của
TCDD và 2,3,7,8–tetrachloro–dibenzofuran (TCDF). TCDD là chất cực
độc đối với các loài động vật. Nghiên cứu trên một số động vật, với
một lượng lớn TCDD sẽ gây thoái hóa gan, ngăn chặn hệ thống miễn
dòch của cơ thể. TCDD còn gây hiện tượng nổi mụn trứng cá. Căn cứ
vào kết quả nghiên cứu trên động vật, TCDD, PCDDs và PCDFs được
US EPA và Cal/EPA phân loại là chất gây ung thư nhóm B.
 Polychlorinated biphenyls (PCBs)
Polychlorinated biphenyls (PCBs) được dùng làm dung môi trong
công nghiệp hóa học. PCBs gây ảnh hưởng đến gan, viêm đường dạ
dày, hệ thống hô hấp, da và mắt. PCBs được US EPA và Cal/EPA
phân loại là chất gây ung thư nhóm B.
 Tetrachloroethylene (perchloroethylene, PCE)
PCE là chất dễ bay hơi ở nhiệt độ phòng. Một lượng lớn PCE

khi hít vào cơ thể sẽ gây ảnh hưởng đến đường hô hấp, hệ thần kinh
trung ương, gây tê. Ngoài ra, còn gây ảnh hưởng đến gan và thận.
PCE được phân loại là chất gây ung thư nhóm B2.
 Vinyl chloride monomer (VCM)

1001
Vinyl chloride được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp nhựa, để
sản xuất PVC (polyvinyl chloride). Vinyl chloride dùng để sản xuất dung
môi chlorinated, bao gồm: trichloroethylene (TCE), tetrachloroethylene
(PCE) và 1,1–dichloroethylene (1,1 DCE). Vinyl chloride tồn tại trong
không khí tại nơi làm việc là nguyên nhân gây đau đầu, chóng mặt,
đau bụng, tê liệt và ù tai. Vinyl chloride được phân loại là chất gây
ung thư nhóm A theo US EPA và Cal/EPA.
22.11.3. Mô tả đặc tính một số rủi ro khi đốt rác độc hại
22.11.3.1. Rủi ro ung thư do đốt rác nguy hại
Đánh giá các tác động ung thư tiềm tàng từ lò đốt rác thải nguy
hại được tóm tắt trong bảng sau:
Bảng 22.7. Rủi ro ung thư do đốt rác nguy hại có thể gây ra
Con đường
xâm nhập
Nông dân Cư dân lớn tuổi Cư dân nhỏ tuổi Ngư dân
Hô hấp 6,00E–08 7,00E–09 3,50E–09 7,00E–09
Thức ăn 5,00E–08 6,00E–09 6,00E–09 6,00E–09
Tiếp xúc qua da 2,00E–08 3,00E–09 6,00E–09 3,00E–09
Ăn thòt bò 5,00E–06 NA NA NA
Uống sữa 2,00E–06 NA NA NA
Ăn cá NA NA NA 3,50E–04
Ăn rau 4,00E–08 5,00E–09 6,00E–09 5,00E–09
Tổng rủi ro 7,20E–06 2,10E–08 2,10E–08 3,50E–04
(Nguồn: R.A, Becker, Cơ quan BVMT, California, 1997)

Trong hầu hết các trường hợp, các giá trò rủi ro thấp (< 10
–5
) thì
cần phải có sự điều chỉnh thích hợp. Tác động bằng đường hô hấp
thông qua con đường gián tiếp thì lớn hơn so với con đường trực tiếp.
Tác động lớn nhất là dioxin (PCDDs và PSDFs) vì nó bền trong môi
trường, khả năng tích tụ sinh học rất lớn trong dây chuyền thức ăn
và khả năng gây ung thư tiềm tàng lớn.

1002
22.11.3.2. Tác hại của những chất khác không được đánh
giá là gây ung thư
Các chất này được so sánh tính độc dựa vào liều lượng. Tỷ lệ dự
đoán liều lượng giới hạn bởi thương số chất nguy hại. Nếu tỷ lệ này
nhỏ hơn 1 thì cần phải dự đoán mức độ tác động của chất thải đến
con người. Nếu tỷ số này lớn hơn 1 thì khả năng tồn tại chất không
gây ung thư là có thể xảy ra. Các chất này có thể phát ra từ ống khói
của lò đốt rác nguy hại được tóm tắt trong bảng sau:
Bảng 22.8. Các khí độc không gây ung thư phát ra từ lò đốt rác nguy
hại
Con đường
xâm nhập
Nông dân Cư dân lớn
tuổi
Cư dân nhỏ
tuổi
Ngư dân
Hô hấp 1,40E–01 1,00E–02 5,00E–02 1,40E–01
Thức ăn 2,00E–04 3,00E–05 1,50E–05 2,00E–04
Tiếp xúc qua da 2,00E–04 3,00E–05 6,00E–05 2,00E–04

Ăn thòt bò 2,00E–01 NA NA 2,00E–01
Uống sữa 2,00E–06 NA NA 2,00E–02
Ăn cá NA NA NA 3,50E–04
Ăn rau 4,00E–08 5,00E–09 6,00E–09 2,30E–09
Tổng rủi ro 3,60E–01 1,00E–02 5,00E–02 2,30E–00
(Nguồn: R.A, Becker, Cơ quan BVMT, California, 1997)
Trong hầu hết các trường hợp các chất nêu trên có giá trò thấp
(nhỏ hơn một) thì phải có sự điều chỉnh thích hợp.

22.11.3.3. Phân tích không chính xác
Trong bất kỳ bước nào trong bốn bước đánh giá rủi ro tác động
lên con người, sự giả đònh luôn không tránh khỏi sự thiếu chính
xác. Tuy nhiên, cũng có một số giả đònh tin cậy được, trong đó nó
chứa ít nhân tố ngẫu nhiên. Mỗi sự giả đònh đều có mức độ không

1003
chính xác trong đánh giá tác động rủi ro. Khi biết ít thông số về giá
trò thực thì việc đánh giá sức khỏe con người không được ở mức
thấp. Khi tất cả các giả đònh đều có sự tương tác lẫn nhau thì độ tin
cậy sẽ cao hơn.
22.11.3.4. Nhận xét về đánh giá rủi ro từ đốt rác độc hại
Quá trình đốt luôn phát ra những chất thải nguy hiểm ảnh
hưởng đến sức khỏe con người, nhất là những chất gây ung thư. Vì
thế để đốt rác thải, đặc biệt là chất thải nguy hại, cần phải xây dựng
lò đốt rác có hệ thống xử lý đạt tiêu chuẩn thì mới hạn chế được
lượng chất nguy hại phát thải ra.
Việc đánh giá tác động rủi ro của các chất phát ra từ lò đốt rác
giúp chúng ta biết được tính độc hại của những chất này để từ đó có
biện pháp phòng ngừa thích hợp
22.12. KẾT LUẬN

Cần phải hiểu tương quan giữa các nguy cơ do các chất thải độc
hại vào môi trường và các mối nguy cơ khác gặp phải hằng ngày
trong đời sống, từ đó làm cơ sở để có các quyết đònh cần thiết vận
dụng nguồn lực quý hiếm của khu vực công và tư vào việc kiểm soát
các nguy cơ. Có nhiều tình huống trong đời sống thường nhật gây ra
nguy cơ lớn hơn kể cả ung thư, do tiếp xúc ở mức xác suất 1 trong
1.000.000. Trong lúc các thông tin này được sử dụng, xử lý sự cố, thì
các vấn đề về thông tin khác lại nảy sinh, do vậy cần thận trọng hơn,
và nhanh chóng nắm bắt thông tin, đánh giá rủi ro có độ tin cây cao
hơn nữa.
* Ghi nhận có cự cộng tác của Trần Thò Ngọc Oanh, Dương Chí Son,
Dương Hồng Huệ

1004
CHƯƠNG 23

ĐỘC HỌC MÔI TRƯỜNG BỆNH CÚM
GIA CẦM H5N1
23.1 TỔNG QUAN CÚM GÀ
Thật ra cúm gà chỉ là cách gọi một cách cụ thể một loại bệnh
cúm có ở nhiều loài lông vũ, nhưng chỉ vì nó rất hay gặp và đang xảy
ra trên con gà nên gọi là cúm gà mà thôi. Gọi cho đúng tên theo
WHO: là avian influenza hoặc là bird flu vì bệnh cúm xảy ra ở loài
chim, hoặc các loài gia cầm lông vũ khác như gà, vòt, bồ câu… Tuy
nhiên, cũng theo WHO bệnh này còn xảy ra ở lợn, nhưng rất hiếm.
Tác nhân gây bệnh là do các loại virus cúm A hay cúm type A
thuộc họ Orthomyxovirida, giống Influenzavirus A (gọi tắt là cúm
A).
Loại bệnh cúm gia cầm này xuất hiện lần đầu tiên tại Italy
năm 1878 làm chết hàng triệu gà vòt, sau này ở Mỹ tại bang

Pennsylvania năm 1983–1984 giết hơn 17 triệu con gà, làm thiệt
hại 65 triệu dollar, 1992 cũng xảy ra dòch cúm tại Hongkong có 18
người mắc bệnh, 6 người chết, trong đó với 17 người làm việc trong
các chợ buôn bán thòt gia cầm và một người có tiếp xúc trực tiếp từ
gà mắc bệnh.
23.1.1 Cấu tạo và đặc điểm virus cúm A
Virus cúm A có kích thước trung bình từ 80–120nm, acid nhân
ARN, có vỏ lipid và vô số gai bề mặt dài từ 10–12nm nhô ra từ lớp vỏ.

1005
Virus chứa 8 mẫu ARN một sợi đơn nhất, mã hoá ít nhất 10
protein. Mỗi đoạn ARN có chức năng như một gene mã hoá 1 hoặc 2
protein.
Các gai ở bề mặt gồm: hemagglutinin (HA) hình que và
neuraminidase (NA) hình nấm. HA và NA có các vùng giúp chúng
bám chặt vào vỏ lipid. Các gai này cắm sâu vào trong vỏ khoảng
7 – 8 nm, và thò ra bên ngoài khoảng 10 – 14nm
- HA có tác dụng giúp virus bám vào tế bào vật chủ và kết
hợp với màng tế bào vật chủ. Hành vi này mở đầu cho chu kỳ tái
tạo virus.
- NA tham gia vào việc giải phóng virus mới ra đời khỏi tế
bào vật chủ và tạo điều kiện cho virus xâm nhập vào lớp nhầy
nằm bên trên biểu mô hô hấp.
Mỗi đặc tính kháng nguyên của HA và NA được kiểm soát bởi
những gene nhất đònh, song nhiều virus cúm A lại được kiểm soát
bởi những gene khác và sự tương tác giữa nhiều gene. Chính sự
thay đổi kháng nguyên ở HA và NA (gọi các đột biến HA & NA)
ảnh hưởng sâu sắc tới loại vật chủ, tính độc hại và tiềm ẩn nguy
cơ lây lan của virus.
Virus cúm A H5N1 không phải là dạng virus mới. Lần đầu

tiên giới khoa học phân lập được nó tại Nam Phi vào những năm
1961. Kể từ đó người ta đã xác đònh, H5N1 gây ra nhiều đại dòch
lớn ở gia cầm. Lần đầu tiên, H5N1 lây nhiễm sang người vào năm
1997 tại Hồng Kông. Hiện nay, tìm thấy ở người là type A (H1N1),
type A (H3N2) và type A (H5N1).
Virus cúm gà có thể tồn tại lâu ngoài môi trường. Người ta
có thể tìm thấy nó trong các giọt nước nhỏ (các sol) trong không
khí ẩm, các hạt bụi nhỏ, virus cúm gà có thể sống sót qua vài
ngày.



1006












Hình 23.1. Cấu tạo virus cúm gà H5N1
Căn cứ vào sự có mặt của các loại kháng nguyên khác nhau mà
chia ra thành các type virus cúm khác nhau.
Bảng 23.1. Các loại kháng nguyên HA và NA có trong người, ngựa,
heo, gà









Nguồn: (Karl G Nicholson, et al Lancet 2003; 362: 1733 – 45)

1007
23.1.2. Những biểu hiện của bệnh cúm gà
23.1.2.1 Triệu chứng gà bò nhiễm
Bệnh cúm gà do virus Influenzavi A gây nên. Một số dòng (đặc
biệt là H5 và H7) có độc lực cực kỳ cao và lây lan nhanh, có thể gây
chết 90% hoặc toàn bộ đàn gà. Gà chết nhanh hay chậm phụ thuộc
vào thời gian sinh trưởng của gia cầm, điều kiện môi trường và độc
lực của chủng virus. Sau đây là các triệu chứng gà bò nhiễm bệnh.
• Loài mắc bệnh: gà, gà tây, vòt, ngan, ngỗng, đà điểu, các loài chim.
• Thời gian nung bệnh từ vài giờ đến 21 ngày, có trường hợp
kéo dài đến 28 ngày.
• Con vật sốt cao, biểu hiện không bình thường ở hệ thống tiêu
hoá, hô hấp, sinh sản và thần kinh. Triệu chứng chung của con vật
mắc bệnh, gồm:
- Giảm hoạt động.
- Giảm tiêu thụ thức ăn.
- Gầy yếu.
- Bệnh xảy ra với gà ấp, ở đàn gà đang đẻ, làm giảm sản lượng
trứng và tỷ lệ trứng nở thành con.
• Trường hợp bệnh nặng thì có những biểu hiện như:

- Ho, khó thở.
- Chảy nước mắt.
- Đứng túm tụm lại một chỗ.
- Lông xù, phù đầu và mặt.
- Những chỗ da không có lông bò tím tái.
- Chân bò xuất huyết.
- Rối loạn thần kinh.
- Ỉa chảy.
- Một số con có biểu hiện co giật hoặc đầu ở tư thế không bình
thường.

1008
Những triệu chứng trên có thể gặp cùng một lúc hoặc riêng rẽ.
23.1.2.2. Cách lây truyền
• Truyền trực tiếp giữa con mắc bệnh và con cảm nhiễm.
• Truyền gián tiếp thông qua môi trường không khí, dụng cụ
chăn nuôi, xe cộ, phân rác, thức ăn, thức uống có chứa mầm bệnh.
• Theo tiến só Hoàng Văn Nam, Trưởng Phòng dòch tễ – Cục
thú y, sự lưu hành bệnh bắt nguồn từ chim trời phát tán virus H5N1
từ nơi này sang nơi khác qua môi trường trung gian. Đến ngày
26/05/2005 Trung Quốc thừa nhận số chim di trú chết vì H5N1 ở hồ
Thanh Hải đã lên đến hơn 1.000 con.
• Virus lây lan từ đàn gia cầm này sang đàn khác bởi sự vận
chuyển những đàn gà nhiễm bệnh, dụng cụ bò ô nhiễm, xe chở thức
ăn gia súc, thức ăn chứa mầm bệnh mà chưa được nấu chín và cả
những người tham quan. Trên các đàn gà bệnh ở Pennsylvania
(Mỹ), virus có thể dễ dàng được phân lập với số lượng lớn từ phân
và chất tiết hô hấp của những gia cầm nhiễm (gia cầm có sẵn virus
gây nhiễm trong màng niêm của túi khí hay khí quản). Toàn bộ cơ
thể gà đều có chứa virus (do nhiễm trùng huyết). Phần vỏ của trứng

gà bò cúm có rất nhiều virus. Lòng đỏ trứng cũng là nơi tập trung
virus và sự lây lan bệnh có thể thực hiện qua việc sử dụng chung
nguồn nước uống bò ô nhiễm hoặc dòng chảy sông suối cũng có thể
mang virus cúm từ vùng này đến vùng khác. Hay qua không khí
cũng có thể xảy ra lây nhiễm.
• Nhiều bằng chứng được xác đònh trong phòng thí nghiệm
cho thấy, virus có thể phục hồi từ lòng đỏ và lòng trắng trứng của
những con gà bệnh. Do vậy, cần chú ý tới cả những nguy cơ từ trứng
của gà bệnh.
• Virus cúm lây lan mạnh trong điều kiện môi trường độ có ẩm độ
cao và nhiệt độ lạnh. Virus cúm cư trú trên các loài thủy cầm di cư (cò,
ngỗng trời, vòt trời…) nên sự lây lan của bệnh rất khó kiểm soát.
Thực tế trong thời gian qua các ổ dòch xảy ra là do người ta mua
gà mắc bệnh ở chợ về ăn, làm lây cho đàn gà nuôi trong gia đình,

1009
mua ngan giống nhiễm bệnh làm mắc bệnh ở đàn gia cầm đòa
phương, hoặc có thể lây qua những người tiếp xúc với gà mắc bệnh
nhưng không được khử trùng trước khi rời ổ dòch.
25.1.3. H5N1 rất nguy hiểm
Khả năng đột biến rất nhanh có xu hướng thu nhận gen của
các virus cúm gây bệnh ở các loài khác và tái tạo tổ hợp gen để tạo
thành dạng phụ (subtype) mới. Khi một tế bào bò nhiễm bởi hai
virus khác nhau, virus mới được tạo ra có thể là một hỗn hợp của
hai virus “cha– mẹ”
– Bộ gen của virus cúm gà gồm: HA, NA, NS, NP, M, PB1, PB2,
PA.
– Hiện nay ta đã biết có 15 subtype H, 9 subtype N và 2 subtype
NS. Sự kết hợp giữa H và N sẽ tạo ra rất nhiều subtype khác nhau
với các khả năng gây bệnh không giống nhau, H5 và H7 là những

loại có độc lực rất cao.
– Việc virus cúm tái tổ hợp thành một virus có tính chất khác
xảy ra rất dễ và rất nhanh.
Ví dụ: Năm 1997 ở Hongkong một virus H5N1 mới được tạo ra
do lấy phần H5 của virus H5N1 ở con ngỗng, phần N1 lấy từ H6N1
của virus ở một con vật khác và phần còn lại của bộ gen ( NP, MA,
NS, PB1, PB2, PA) thì lấy từ virus H9N2 ở chim cút.

H5N1 của ngỗng H6N1
H9N2 ở chim cút
H5N1 mới rất độc với gà H5N1 mới rất độc với người

1010








Hình 25.2. Quá trình tái tạo và tổ hợp gen của các type cúm
25.1.4. Các yếu tố môi trường ảnh hưởng lên virus cúm

Các yếu tố như nhiệt độ, pH mạnh, những điều kiện không đẳng
trương, sự khô ráo có thể bất hoạt virus. Sau đây là một số yếu tố
ảnh hưởng đến virus:
- Ở 60
o
C bò tiêu diệt trong 30 phút.

- Ở 70
o
C chết trong vòng 15 phút.
- Bò diệt ở pH < 5,0 và > 8,0, trong môi trường có áp suất thẩm
thấu cao như nước muối và khi bò chiếu các tia cực tím, gamma.
- Virus đã được xác đònh có mặt trong trứng và thòt của gia
cầm.
- Có thể tồn tại trong máu và gà ướp đông lạnh 3 tuần.
- Trong phân nó có thể sống được tối thiểu 35 ngày ở nhiệt độ
40
0
C. Virus có thể sống được nhiều ngày trong thòt gà ở điều kiện
nhiệt độ môi trường bình thường và sống đến 23 ngày nếu để thòt
trong tủ lạnh.
- Là virus có vỏ bọc nên nhạy cảm với các chất tẩy rửa và dung
môi hữu cơ.
- Virus cũng bò phá hủy bởi các chất sát trùng như formol, β–
propilactone, phenol, glutaraldehyde, cloramine B…

1011
23.2. DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH DỊCH CÚM GÀ TRÊN THẾ GIỚI
Đại dòch cúm gà đã lan nhanh hoành hành ở các nước châu Á
như Thái Lan, Hàn Quốc, Campuchia, Nhật, Đài Loan,… và một phần
ở các nước châu Âu
Theo Reuters, (26/1/2004) bệnh cúm gà đã lan rộng ở châu Á. Tổ
chức y tế thế giới (WHO) cho biết mức độ lan truyền này nhanh chưa
từng thấy trong lòch sử.
23.2.1. Tại Thái Lan
Bộ y tế cho biết, năm 2005 nước này đã có 10 người mắc bệnh
cúm gà, bệnh cúm hiện đã lan ra 10 tỉnh của Thái Lan. Chính phủ đã

phải điều động tới 650 binh só tới các trang trại ở tỉnh Supan Buri để
giúp nông dân tiêu hủy gà bệnh.
Ngày 10/3/2005 dòch bệnh đã bùng phát ở tỉnh Uttaradit,
chính quyền tỉnh đã ra lệnh giết 2.900 con gà tại các trang trại trong
bán kính 1km từ trang trại có dòch cúm ở quận Muang. Ngày
13/3/2005, lo ngại ngày càng tăng khi hơn 20.000 con gà tại huyện
Sansai ở Chiang Mai bò chết.
Kể từ ngày 1/12/2004, Thái Lan thông báo 12 người được khẳng
đònh đã nhiễm cúm gà H5N1, tám người trong số này đã tử vong, bốn
người đã phục hồi. Có 21 người khác bò nghi nhiễm virus.
23.2.2. Tại Indonesia
Bệnh cúm gà đã bùng phát ở đảo Giava và Bali từ tháng 9/2003
làm 4,7 triệu con gà chết. Các quan chức bộ nông nghiệp Indonesia
cho biết các chuyên gia vừa phát hiện một loại virus cúm chim ở hàng
triệu con gà trên cả nước. Chính phủ Indonesia cho biết, họ sẽ tiến
hành điều tra kỹ hơn. Phát ngôn viên bộ nông nghiệp Inđonesia cho
biết họ sẽ xem xét kỹ lưỡng trước khi ra lệnh tiêu hủy gà hàng loạt ở
các khu vực bò nhiễm.
23.2.3. Tại Hồng Kông
Dòch cúm gà vào năm 1997 đã làm chết 6 người trong tổng số
18 người nhiễm (đó là lần đầu tiên virus H5N1 vượt qua ranh giới

1012
loài, nhiễm từ gia cầm sang người), buộc chính quyền Hồng Kông
phải giết trên 1,4 triệu con gà. Dòch đã bùng phát trở lại khi một
người đàn ông, sau khi du hành sang Phúc Kiến, Trung Quốc (vào
tháng 1), đã chết vào ngày 16/2/2002 do nhiễm cúm gà H5N1.
Các nhà khoa học lo ngại các trang trại gia cầm đông đúc ở
Hồng Kông và các chợ bán gà sống có thể là môi trường thích hợp
cho các dạng mới của loại virus H5N1.

23.2.4. Tại Hàn Quốc
Vào ngày 15/12/2003, lần đầu tiên Hàn Quốc thông báo có một
trại gà ở tỉnh Chuncheong nhiễm cúm. Bệnh dòch đã nhanh chóng lây
lan tới nhiều trang trại gia cầm ở 5 tỉnh khác. Bộ nông nghiệp và
lâm nghiệp Hàn Quốc cho biết, xét nghiệm gần đây đối với gà bò nghi
nhiễm cúm đã cho kết quả dương tính đối với H5N1ø. Tuy nhiên, vẫn
chưa có thông báo gì về việc bệnh cúm gà lây sang người dân đòa
phương. Gần 2 triệu con gà và vòt đã bò giết rồi đem chôn, nhằm
ngăn chặn sự lây lan của bệnh. Chưa có một ai trong số 1.500 người
tiếp xúc với gia cầm nhiễm bệnh thông báo các triệu chứng cúm.
Các quan chức bộ nông nghiệp nước này cho biết virus H5N1 lây
lan nhanh với thời gian ủ bệnh 20 ngày.
Hàn Quốc đã thực thi các biện pháp kiểm dòch chặt chẽ chẳng
hạn như hạn chế sự di chuyển của người và động vật tại các trang
trại bò ảnh hưởng trong vòng 30 ngày kể từ khi dòch bùng phát, tẩy
uế các trang trại gà cũng như vườn thú để bảo vệ những loài chim
hiếm.
Dòch cúm gà ảnh hưởng tới Hàn Quốc kể từ năm 1996. Các quan
chức nước này cho biết có rất ít khả năng dạng virus H5N1 ở nước
này lây nhiễm sang người bởi phần lớn các dạng H5N1 không thể
làm điều đó.
23.2.5 Tại Bắc Triều Tiên
Ngày 28/03/2005 lần đầu tiên Bắc Triều Tiên chính thức xác
nhận dòch cúm gia cầm bùng phát và cho biết hằng trăm ngàn con gà
đã bò tiêu hủy để ngăn chặn dòch. Hãng thông tấn Bắc Triều Tiên

1013
(KCNA) cho biết có tới 3 trang trại nuôi gà ở thủ đô Bình Nhưỡng bò
nhiễm bệnh.
Ngày 06/04/2005 virus cúm gà H7 – dòng có khả năng gây bệnh

cho người – vừa được tìm thấy ở Bắc Triều Tiên.
27/4/2005 Tổ chức nông lương thế giới (FAO) thông báo đã dập
tắt dòch cúm gia cầm H7 ở thủ đô Bình Nhưỡng. Virus H7 đã được
loại trừ khỏi 3 trại gia cầm nhiễm bệnh ở Bình Nhưỡng, bằng cách
kết hợp tiêu hủy gần 218.000 con gà bệnh, tiêm phòng cho gà và thực
hiện nghiêm ngặt công tác an toàn.
23.2.6. Tại Nhật Bản
Vào cuối tháng 12/2003 dòch cúm gà đã xuất hiện ở nông trại
Win – Win của thành phố Ato quận Yamaguchi ở miền nam nước
Nhật. Dòch đã giết chết 6.000 con gà, hơn 28.600 con gà đã bò tiêu
hủy và chôn trong vài ngày tới. Gà từ trang trại này sẽ không được
xuất khẩu. Bộ y tế và lao động Nhật Bản đã ra chỉ thò tăng cường quy
chế giám sát bệnh đối với lợn, vì các chuyên gia y tế lo ngại rằng
virus gây bệnh cúm gà có thể truyền sang cơ thể lợn và biến dạng
thành loại virus gây bệnh cho người.
Vậy là sau 79 năm kể từ khi dòch cúm gà lần cuối xảy ra tại
Nhật vào năm 1925, tình trạng dòch lại bùng phát trở lại.
Ngày 12/1/2004, các nhà chức trách Nhật Bản đã cho triển khai
các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn sự lây lan của dòch bệnh.
Bộ nông, lâm và ngư nghiệp của Nhật Bản cùng chính quyền quận
Yamuchi đang điều tra nguồn gốc gây bệnh.
23.2.7. Tại Đài Loan
Theo Hội đồng nông nghiệp Đài Loan gần 20.000 con gà tại một
trang trại ở thò trấn Phương Uyên, huyện Chương Hoá, miền trung
Đài Loan đã bò giết khi virus cúm gà H5N1 được tìm thấy ở một số
con. Các quan chức thuộc Cục điều tra sức khoẻ động thực vật thuộc
Hội đồng cho biết dạng cúm trên được tìm thấy vào ngày 5/1, nó ít
gây nguy hiểm hơn so với loại virus cúm gia cầm ở Việt Nam.

1014

Bên cạnh đó, họ đã phát hiện trại gà thứ hai bò nhiễm một
dạng cúm gà nhẹ (H5N2) tại huyện Chiayi, 35.000 con gà đã bò giết ở
đây. Cúm gà đã tràn tới Chiayi hai ngày sau khi Đài Loan thông báo
dòch cúm ở huyện Chương Hoá, cách Chiayi 100 km. Li Shiyu, chuyên
gia sức khoẻ động vật, cho biết virus tại hai trại gà trên giống hệt
nhau và nghi ngờ chim di cư là thủ phạm lây truyền virus, cũng có
khả năng là virus lây từ trại gà ở Chương Hoá sang. Tuy nhiên, cúm
gà dạng H5N1 chưa xuất hiện tại nơi đây.
Các quan chức Đài Loan cho biết cần phải thận trọng bởi vùng
lãnh thổ này là nơi trú đông của khoảng 30.000 con chim di cư từ
Siberia. Trên đường tới Đài Loan chúng có bay qua Hàn Quốc và
Nhật Bản là hai quốc gia đã có dòch cúm, phân của chúng có thể dễ
dàng lây truyền virus.
Hội nông nghiệp Đài Loan cũng tăng cường kiểm tra thòt gà tại
các khu chợ bởi đây cũng có thể là ổ lây lan virus. Một số trang trại
đã giăng lưới cá để ngăn chặn sự xâm nhập của các loại chim di cư
vào trang trại.
23.2.8. Tại Lào
Bounlom Douangngeun, giám đốc trung tâm sức khoẻ động vật
quốc gia Lào cho biết, virus cúm gà đã xuất hiện và tập trung ở 5
quận của Vientiane, có khoảng 40.000 con gia cầm bò giết. Bên cạnh
đó, Pachone Bounma, một quan chức cấp cao thuộc Bộ nông nghiệp
thông báo (chưa được khẳng đònh) về đợt dòch tiêu chảy tại một trang
trại ở tỉnh Champasal, Nam Lào.
Lào nằm giữa Việt Nam và Thái Lan – hai quốc gia có người tử
vong do cúm gà H5N1, nhưng Lào vẫn chưa biết dạng virus đang
hoành hành ở đây. Hôm 28/1/2004 chính phủ Lào đã thừa nhận sự
tồn tại của cúm gà tại nước này song phủ nhận đó là dạng H5N1. Sau
đợt dòch ở Vientiane, một đợt dòch mới lại tiếp tục xuất hiện tại một
trại gà ở ngoại ô Vientiane.

Cho tới nay, vẫn chưa có người nào bò nhiễm bệnh ở Lào. Tuy
nhiên các chuyên gia quốc tế lo ngại chính phủ Lào có thể đang che
đậy quy mô của dòch bệnh.


1015
23.2.9. Tại Campuchia
Mẫu gà chết tại các tỉnh Siem Reap, Kandal và Takeo vào ngày
21/2/2004 có kết quả là do virus H5N1. Cục trưởng Kao Phao cho biết
đã phát hiện mười đợt dòch cúm gia cầm trên toàn quốc.
Các chuyên gia lo ngại bệnh cúm gia cầm có thể sẽ lây lan
mạnh hơn do nước này nằm giữa Việt Nam và Thái Lan. Đến năm
2004, thủ đô Phnom Penh đã có hai đợt dòch, tỉnh Kandal ba đợt,
tỉnh Siem Reap hai đợt, và tỉnh Takeo giáp Việt Nam ba đợt. Đã có
14.231 con gà đã chết do cúm, và 6.000 con nữa đã bò giết.
Để ngăn chặn dòch bệnh tràn vào Campuchia, các quan chức
nước này đã cấm nhập gia cầm từ Thái Lan và Việt Nam. Các nhà
chức trách nước này đã tống giam 10 người do nhập khẩu trứng vòt từ
Việt Nam. Họ bò bắt tại tỉnh Takeo ở miền nam Campuchia
23.2.10. Tại Pakistan và Bangladesh
Trong tháng 1/2003, khoảng 22 trẻ em đã chết do nhiễm cúm ở
6 bệnh viện tại thành phố cảng Karachi (Pakistan), bác só đã nghi
ngờ các ca tử vong đó có liên quan tới cúm gà. Bên cạnh đó, còn có
230 người được đưa tới bệnh viện ở Karachi do có liên quan tới viêm
phổi. 27/1/2003, chính phủ Pakistan đã bác bỏ lời khẳng đònh của
hiệp hội gia cầm rằng cúm gà đã làm chết 3,5 triệu gia cầm ở
Karachi trong 3 tháng qua. Abdul Maroof Siddiqui, thuộc Hiệp hội gia
cầm Pakistan khẳng đònh dòch cúm gà bùng phát vào tuần cuối của
tháng 10 tại nước này, ảnh hưởng tới hơn 2.000 trại gia cầm ở
Karachi.

Ngày 28/1/2003, các nhà chức trách Bangladesh đã ra lệnh điều
tra việc hàng nghìn con gà bò chết tại huyện Gazipur ở miền bắc,
cách thủ đô Dhaka 32km. Bangladesh cũng đã cấm nhập khẩu gà từ
Pakistan, Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Đài Loan, Malaysia, Nhật
Bản và Hàn Quốc nhằm ngăn chặn cúm gà. Lính biên phòng cũng đã
được lệnh tăng cường kiểm soát đối với hoạt động buôn lậu gà và
trứng gà từ Ấn Độ. Bangladesh mỗi năm nhập khẩu tới 1,5 triệu con
gà 1 ngày tuổi từ 9 nước Châu Á để nuôi trong các trang trại.

1016
23.2.11. Tại Hà Lan
Kể từ khi dòch cúm gà bùng nổ hồi cuối tháng 2/2004, chính phủ
Hà Lan đã phải ra lệnh giết 11 triệu con gà (chiếm 10% số gà ở trong
nước). Căn bệnh này khiến gia cầm chết nhưng thường không gây
nguy hiểm cho người. Đã có hơn 50 nhân viên y tế nhiễm bệnh nhưng
biểu hiện duy nhất là nhiễm trùng nhẹ ở mắt, và phục hồi rất nhanh.
Vò bác só thú y 57 tuổi, qua đời ngày 17/4/2004, là trường hợp
đầu tiên bò viêm phổi và tử vong khi nhiễm bệnh cúm gà ở Hà Lan
(ông bò ốm 2 ngày sau khi tới làm việc cho một trang trại nhiễm dòch
cúm).
Theo ước tính, virus cúm gà đã gây nhiễm cho 243 trang trại ở
Hà Lan. Họ đã phải giết bỏ hơn 18 triệu gia cầm nhằm ngăn chặn
dòch lan rộng.
Do số bệnh nhân gia tăng nhanh chóng, Bộ y tế Hà Lan đã
quyết đònh áp dụng các phương pháp phòng ngừa để ngăn chặn khả
năng xuất hiện chủng bệnh nặng hơn. Loại virus ở Hà Lan có vẻ lành
tính hơn ở các nước khác. Tuy nhiên, các cơ quan y tế nước này vẫn
lo ngại rằng nếu bệnh nhân bò nhiễm cùng lúc cả hai loại virus cúm
gà và cúm người thì các tác nhân gây bệnh có thể đột biến và trở
thành dạng virus giết người.

Vì vậy, tất cả các đối tượng đã tiếp xúc với gia cầm bò cúm sẽ
được dùng thuốc kháng virus và tiêm chủng phòng cúm người. Các
chuyến tàu chở gia cầm từ Hà Lan cũng đã bò hoãn lại.
Bộ nông nghiệp Hà Lan đã quyết đònh giết vòt ở Lopik, tỉnh
miền trung Utrecht, sau khi xét nghiệm máu cho thấy dấu hiệu của
kháng thể virus cúm vào ngày 14/3/2003. Chính phủ Hà Lan đã quyết
đònh tiêu hủy toàn bộ 22.000 con gà ở một trang trại ở Eemsmond
thuộc vùng đông bắc của nước này, sau khi mẫu máu lấy ở đó có
kháng thể chống virus.
23.2.12. Tại Bỉ
Ngày 16/4/2003, Bỉ phát hiện ổ cúm gà đầu tiên tại trang trại
Meeuwen – Gruitrode, ở phía đông LimBurg. Việc xuất khẩu gà tươi

1017
sống và trứng đã bò cấm; việc vận chuyển gia cầm và sản phẩm gia
cầm trong nước cũng bò đình chỉ. Chính phủ Bỉ đã quyết đònh giết
khoảng 250.000 con gà trong bán kính 3 km xung quanh trang trại
Meeuwen – Gruitrode. Tuy nhiên, bệnh lại tiếp tục xuất hiện ở một
trang trại gần đó. Đã có khoảng 1,5 triệu con gà buộc phải đem tiêu
hủy khi người ta phát hiện ra 6 chuồng có loại virus này. Theo phát
ngôn viên của cơ quan an toàn thực phẩm quốc gia Bỉ (AFSCA), nước
này vừa phát hiện thêm 2 con gia cầm bò nghi ngờ nhiễm cúm gà.
Bệnh cúm gà có sức lây lan cao đã tràn vào Bỉ từ nước láng giềng Hà
Lan. Các nhà chức trách Bỉ đã khuyên mọi người khi tiếp xúc với gia
cầm cần uống thuốc chống virus. Bỉ cũng đã cấm xuất khẩu gà sống,
đình chỉ hoạt động chuyên chở gia cầm và các sản phẩm gia cầm
trong phạm vi cả nước khi có dòch.
23.2.13. Tại Mỹ
Ngày 11/2/2003, các quan chức bang Delaware khẳng đònh vừa
phát hiện virus cúm gà ở một đàn gà thứ hai tại hạt Sussex. Virus

gây bệnh cũng là H7 – thủ phạm buộc các nhà chức trách phải cho
giết 12.000 con gà vào hôm 7/1/2003 trong đợt dòch thứ nhất tại một
trang trại ở hạt Kent cách đó 8 km. Cũng trong ngày 11/2, các quan
chức bang đã xác đònh virus cúm gà ở Kent là H7N2.
Ngay lập tức, nhiều biện pháp phòng ngừa đã được tiến hành
như hoạt động buôn bán gia cầm bò cấm, 74.000 con gà tại 3 khu
chuồng ở trang trại trên đã bò giết để ngăn chặn sự lây lan của dòch
bệnh, 74 trang trại trong bán kính 10km từ trang trại có dòch đang
được cách ly cho tới khi có thông báo thêm. Gà trên 21 ngày tuổi tại
những trang trại trên sẽ được kiểm tra 10 ngày 1 lần để dò virus, các
xe tải chở thức ăn gia cầm chỉ được giao cho một trang trại trong mỗi
chuyến.
23.2.14 Tại Canada
Một dạng virus cúm gia cầm lây lan cao đã tràn tới trang trại
Loewen Acres ở Abbotsford giết 18.000 con gà bệnh, và chỉ vài tuần
sau virus cúm đã tràn tới trang trại thứ hai tại tỉnh Bristish
Columbia ở Canada buộc nhà chức trách phải cho giết 36.000 con gà

1018
và tăng cường các biện pháp kiểm tra để ngăn chặn sự lây lan dòch
bệnh. Cả hai trang trại này đều bò ảnh hưởng bởi virus cúm H7N3.
Dạng H7N3 giết gần 100% gia cầm mà nó lây nhiễm, song ít nguy
hiểm đối với người. Cả hai trang trại này đều đã bò cách ly. Chính
quyền tỉnh tuyên bố thiết lập một vùng kiểm soát rộng lớn nhằm
hạn chế sự vận chuyển của mọi loại gia cầm, trứng và vật nuôi.
Nông dân phải xin giấy phép mới được vận chuyển gia cầm ra khỏi
vùng kiểm soát trải dài từ dãy núi North Shore giáp với Mỹ và
thành phố Hope. Các trang trại trong bán kính 10 km cũng được
khảo sát để phát hiện virus.
23.3. DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH DỊCH XẢY RA Ở VIỆT NAM

Ởû nước ta, dòch cúm gà được phát hiện lần đầu tiên ở các tỉnh phía
Bắc, cụ thể, ngày 24/6/03 tại Hà Nội rồi lan ra các tỉnh như Vónh Phúc.
Dòch cúm gà bùng phát từ tháng 12/2003 tại trại gà giống
Chương Mỹ (Hà Tây), lan rất nhanh ra 2.574 xã, phường, 381 huyện,
thò thuộc 57 tỉnh, thành phố trong cả nước. Theo tin nhanh của
Thông tấn xã Việt Nam đến ngày 7/2/2004 có 64 tỉnh thành trên cả
nước xuất hiện cúm do vi khuẩn H5N1. Tính đến ngày 28/2/2004 tổng
số gia cầm phải tiêu hủy đã lên tới 38 triệu con.
Ngày 27/01/04 UBND TPHCM đã có cuộc họp khẩn với các ban
ngành, sở NN & PTNT cùng với các quận–huyện để triển khai kế
hoạch phòng chống dòch cúm gia cầm cũng như công tác tiêu hủy đàn
gia cấm của TP trong thời gian tới: “Chúng ta phải nhanh chóng
khống chế cúm gà và đặc biệt bằng mọi cách không để bệnh tiếp tục
lây sang người”.
Tình trạng người chết do virus cúm A tăng lên. Người ta đang
tìm hiểu xem đó có phải là một biến thể của virus cúm gà hay không
và có hay không giả thiết cúm gà có thể lây từ người sang người.
Báo cáo của Bộ y tế 2/2/2004 cho biết số người nghi nhiễm cúm
A vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là ở các tỉnh phía nam. Toàn quốc
đã có hơn 70 ca nghi nhiễm, trong đó có 21 người tử vong. Tuy nhiên,
mới có 11 mẫu bệnh phẩm cho kết quả dương tính với H5N1. Số bệnh
nhân này sống ở 7 tỉnh, thành phố.

×