Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Công nghệ chăn nuôi : Kỹ thuật chăn nuôi trầu bò part 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.28 KB, 5 trang )





ATP
cho tống hợp VSV









Hấp thu qua vách dạ cỏ Tiêu hoá ở ruột non

Hình 5.1. Sơ đồ lên men thức ăn trong dạ cỏ của trâu bò

b) Quá trình tiêu hóa các hợp chất chứa nitơ trong dạ cỏ
Protein thô có thể được phân thành loại hòa tan và loại không hòa tan. Cả hai loại
đều chứa protein thực và ni tơ phi protein (NPN). Cũng giống như carbonhydrate loại hòa
tan được phân giải hầu như hoàn toàn và ngay lập tức sau khi ăn vào. Loại protein không
hòa tan chứa cả phần được phân giải và phần không được phân giải tại dạ cỏ. Tốc độ
phân giải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại thức ăn, khẩu phần và thời gian lưu lại
trong dạ cỏ, các yếu tố này tùy thuộc vào mức độ nuôi dưỡng và kích thước của thức ăn.
Cả vi khuẩn và Protozoa đề có khả năng thủy phân mạch peptid trong phân tử protein cho
sản phẩm là các acid amin, đây chính là nguồn nguyên liệu cho quá trình tổng hợp nên
đại phân tử protein của sinh khối vi sinh vật. Mặt khác vi sinh vật còn khử nhóm amin
của các acid amin và mạch carbon còn lại sẽ được chuyển thành VFA, CO
2


, CH
4
và H
2
O,
một số ATP cũng được hình thành từ con đường này. Một số acid béo mạch nhánh cũng
có thể được hình thành.











Thức ăn
Protein
NPN
Protein không
phân gi
ải
Protein
phân gi
ải
Peptides
Acid amin
NH

3
NPN

T.nướ
c
Gan
NH
3
-

Máu

DẠ CỎ










Hình 5.2. Sơ đồ quá trình tiêu hóa và trao đổi
các chất chứa nitơ trong dạ cỏ
c) Quá trình phân giải lipid trong dạ cỏ
Lipid trong thức ăn của gia súc nhai lại thường có hàm lượng thấp (thường từ 4 - 6%).
Các dạng lipid là triglycerid, galactolipid (thành phần chính lipid trong các loại thức ăn xơ)
và phospholipid. Enzyme của cây cỏ và của vi khuẩn đều liên quan đến quá trình phân giải
lipid. Có nhiều bằng chứng rõ ràng của quá trình trao đổi lipid diễn ra ở dạ cỏ là phản ứng

tách ghép hydro của lipid thức ăn, và quá trình tạo lipid mới cho tế bào vi sinh vật.
Một khía cạnh khác của quá trình trao đổi lipid trong dạ cỏ của động vật nhai lại là
quá trình hóa hợp hydro vào acid béo không no. Như chúng ta đều biết, mỡ mô của loài
nhai lại có độ no cao hơn nhiều so với động vật dạ dày đơn. Nguyên nhân, mà đến nay
được chấp nhận một cách rộng rãi là quá trình sinh hydro diễn ra ngay tại dạ cỏ chứ
không phải tại mô bào như ở động vật dạ dày đơn. Trước khi quá trình tạo hydro xẩy ra
có quá trình thủy phân acid béo khỏi mạch liên kết este của chúng.
Hiệu suất thực của quá trình sinh và hợp hóa hydro là các chuổi acid béo mạch dài,
là nguồn lipid chủ yếu được hấp thu ở ruột, trong đó phần lớn là acid stearic tự do.
Một vấn đề quan trọng nữa là nếu hàm lượng lipid cao trong khẩu phần của gia súc
nhai lại có thể tạo ra ảnh hưởng âm tính đến khu hệ vi sinh vật dạ cỏ, vì thế có thể ảnh
hưởng đến quá trình thủy phân lipid và quá trình no hóa các acid béo trong dạ cỏ. Nhiều
ý kiến cho rằng mức độ cao của lipid trong khẩu phần có thể gây độc cho protozoa trong
dạ cỏ.
d) Quá trình tổng hợp trong dạ cỏ
Quá trình tăng sinh khối vi sinh vật dạ cỏ đòi hỏi nguồn năng lượng và nguyên liệu
ban đầu cho các phản ứng sinh hóa tổng hợp nên các đại phân tử. Trong đó quan trọng
nhất là protein, acid nucleic, polysaccarides và lipid. Các vật chất ban đầu và năng lượng
cho quá trình phát triển của vi sinh vật từ quá trình phân giải vật chất trong dạ cỏ. Nhiều
tác giả đã chứng minh rằng sự phát triển của khu hệ sinh vật dạ cỏ tùy thuộc rất lớn vào
nguồn năng lượng sẵn có như ATP cho các phản ứng sinh hóa. Vì vậy nên hiệu suất sinh
trưởng vi sinh vật được diễn đạt bằng gam vật chất khô VSV là protein VSV / đơn vị
năng lượng sẵn có.
Vi khuẩn có khả năng tổng hợp tất cả các acid amin từ sản phẩm cuối cùng và sản
phẩm trao đổi trung gian của quá trình phân giải protein và carbonhydrate, hoặc là NPN.
Nhiều tài liệu cho rằng 80 - 82 % các loại vi khuẩn dạ cỏ có khả năng tổng hợp protein từ
amoniac (Maeng và cộng sự, 1976). Nồng độ NH
3
trong dạ cỏ có ảnh hưởng sâu sắc đến
cả quá trình phân giải và tổng hợp sinh khối vi sinh vật. Theo Harrison và McAllan

(1980), Leng (1990) nồng độ NH
3
tối thiểu trong dịch dạ cỏ là 50 - 100 mg/lit dịch dạ cỏ.
Theo Preston và Leng (1987) cho rằng nồng độ thích hợp trong dạ cỏ là 50 - 250 mg/lit
dịch dạ cỏ. Protozoa dựa vào acid amin từ quá trình tiêu hóa protein thức ăn hoặc là từ vi
khuẩn làm nguyên liệu cho quá trình tổng hợp. Quá trình tổng hợp protein đòi hỏi một
lượng năng lượng lớn, gấp 3 - 4 lần năng lượng so với sự tổng hợp polysaccharide. Quá
trình tổng hợp acid nucleic (ADN; ARN) đòi hỏi ít năng lượng hơn là protein nhưng đòi
hỏi nhiều carbonhydrate.



NH
3
NH
3

M ẠCH CARBON
Lên men bằng VSV ATP

Các chất khoáng

Sự đồng hoá VSV


PROTEIN VSV
Nguồn cung cấp
năng lượng
Sản phẩm
lên men



Hình 5.3. Sơ đồ quá trình tổng hợp vi sinh vật trong dạ cỏ

Quá trình phân giải và tổng hợp protein trong dạ cỏ của gia súc nhai lại được xem
như có hai mặt:
- Nâng cao giá trị sinh vật học của protein từ những protein có giá trị sinh vật
học thấp trong thức ăn và từ NPN.
- Làm mất mát các acid amin thiết yếu, mất mát năng lượng cho vật chủ,
hay nói cách khác là làm giảm giá trị sinh vật học của các loại protein thức ăn có giá
trị sinh vật học cao.
Từ những vấn đề trên trong thực hành chăn nuôi gia súc nhai lại có hai vấn đề cần
quan tâm là:
- Vấn đề sử dụng ni tơ phi protein (NPN) như thế nào?
- Vấn đề bảo vệ protein thức ăn ở động vật nhai lại?
5.2.2. Nguồn thức ăn và các biện pháp giải quyết thức ăn cho trâu bò ở nước ta
5.2.2.1. Nguồn thức ăn cho trâu bò
Do đặc điểm về điều kiện tự nhiên nên ngành chăn nuôi trâu bò ở nước ta đang đối
mặt với tình hình thiếu hụt thức ăn cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là vào mùa khô
hạn. Do vậy, việc giải quyết thức ăn cho trâu bò được xem là giải pháp đặt lên hàng đầu
để thúc đẩy ngành chăn nuôi trâu bò. Chúng ta có thể phân loại nguồn thức ăn cho trâu bò
thành 3 nhóm chính: -Thức ăn xơ thô; - Thức ăn tinh; - Thức ăn bổ sung
Trong phần này chúng tôi tập trung thảo luận các nguồn thức ăn xơ thô và các biện
pháp giải quyết cho trâu bò
* Thức ăn xanh:
Nguồn này bao gồm các loại cỏ xanh từ đồng bãi, cỏ trồng, các loại lá cây Ðặc
điểm của nguồn thức ăn này là nhiều nước (60 - 80%), dễ tiêu hóa, có tính ngon miệng
cao, gia súc rất thích ăn. Loại thức ăn này có hàm lượng vitamin cao, hàm lượng protein
tùy thuộc vào từng loại. Cỏ hòa thảo vào khoảng 10 - 14% protein, họ dậu và một số cây
giàu đạm hàm lượng protein vào khoảng 18 - 25%.

* Cỏ tự nhiên
Cỏ tự nhiên là hỗn hợp các loại cỏ hòa thảo, chủ yếu là cỏ gà, cỏ lá tre, cỏ mật
mọc ở gò, bãi, bờ đê, bờ ruộng, trong vườn cây, và trong công viên. Cỏ tự nhiên có thể
được sử dụng cho trâu bò ăn ngay trên đồng bãi hoặc thu cắt về nhà. Thành phần dinh
dưỡng tùy thuộc rất lớn vào giai đoạn sinh trưởng, cơ cấu các loại cỏ, chất đất và mùa thu
hoạch. Khi sử dụng nguồn thức ăn này cần lưu ý tránh sử dụng cỏ ở những nơi có phun
thuốc sâu, thuốc cỏ hoặc là nhiễm các chất độc khác
* Các loại cỏ trồng
Trong điều kiện bãi chăn ngày càng bị thu hẹp, năng suất và chất lượng cỏ trên bãi
chăn ngày càng thấp, do vậy để phát triển chăn nuôi theo hướng thâm canh - hàng hóa thì
bà con nông dân phải nghĩ đến việc tận dụng triệt để nguồn đất mà bà con ta có để trồng
một số giống cỏ cao sản.
Các loại cỏ dễ trồng có năng suất cao và chất lượng tốt, trâu bò rất thích ăn như: cỏ
voi, cỏ Ghi nê (cỏ sả), v.v
Cỏ voi là giống cỏ cho năng suất cao (140 - 200 tấn/ha). Trồng vào mùa xuân, cách
trồng như trồng mía, sau 2 - 3 tuần có thể thu hoạch một lần. Sau mỗi lần thu hoạch nên
bón phân và tưới nước. Không nên để cây già rồi mới thu hoạch mà nên thu hoạch khi
cây non để làm tăng hiệu quả sử dụng của gia súc. Cỏ voi có thể trồng thành mảnh hoặc
là trồng quanh bờ rào của vườn, bờ ao để tận dụng đất. Trồng cỏ voi nên trồng sâu, mỗi
lần cắt sau cắt cao hơn lần trước 2 - 4 cm, khi thấy cỏ đã trồi gốc cao và giảm năng suất
có thể đào bỏ gốc để trồng lại.
Cỏ Ghi nê (cỏ sả) là giống cỏ có tính chịu hạn rất cao và có năng suất khá (60
tấn/ha), cỏ sả được trồng như trồng cây sả (bằng chồi cây) hoặc có thể gieo hạt. Sau mỗi
lần thu hoạch nên bón phân và tưới nước để cây phát triển nhanh.
* Thức ăn từ các cây dạng bụi (trees and shrubs)
Cây đa mục đích (Multipurpose trees) là nguồn thức ăn quan trọng cung cấp khối
lượng lớn chất xơ và protein cho gia súc trên toàn thế giới (Leng, 1997), bên cạnh đó nó còn
có vai trò bảo vệ môi trường và chống xói mòn đất, cải tạo đất nhờ khả năng cố định đạm từ
khí trời của các cây họ đậu.
Thức ăn từ cây và cây dạng bụi ngày càng được quan tâm vì tiềm năng giá trị dinh

dưỡng của nó cho gia súc nhai lại, đặc biệt là nguồn cung cấp protein. Ðiều này đặc biệt
đúng ở những vùng có điều kiện khô cằn và khó khăn, khi mà các cây thức ăn này có khả
năng cung cấp sinh khối cao hơn là đồng cỏ và nguồn thức ăn này vẫn giữ xanh và có

×