Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ Karaoke tại thành phố Biên hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.24 MB, 88 trang )

www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII)
đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.

Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, việc coi trọng chính sách đầu
tư văn hóa, đầu tư cho con người; khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân
tham gia sáng tạo văn hóa, hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn là thể hiện
vai trò của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Từ
khi có Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1997, Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày
19/8/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực
văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao đã mở đường cho cơ hội phát huy nguồn
nội lực trong nhân dân cùng tham gia phát triển văn hóa theo mô hình xã hội
hóa.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa đó, tỉnh Đồng Nai đã có bước phát triển
rõ rệt của khu vực ngoài công lập; bước đầu huy động được tiềm năng và nguồn
lực xã hội; mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình, tăng cường cơ sở vật
chất, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ. Nghị định 73/1999/NĐ-CP ra đời
đã tạo ra hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh với nhiều ưu đãi ở mức cao, nên đã
thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Riêng tại thành phố Biên
Hòa, đã nhanh chóng phát triển nhiều mô hình hoạt động văn hóa như: Các câu
lạc bộ, đội nhóm văn hóa văn nghệ... do tư nhân bỏ vốn đầu tư; hoạt động vũ
trường; cửa hàng kinh doanh băng đĩa hình, nhạc; tụ điểm hát cho nhau nghe;
sân khấu ca nhạc ngoài trời; tụ điểm vui chơi giải trí dành cho thiếu nhi; chiếu


phim; siêu thị sách... Đặc biệt, loại hình kinh doanh karaoke phát triển khá mạnh
do các chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở đầu tư ở mức độ vừa và nhỏ; đã góp phần
làm phong phú, đa dạng hơn hoạt động văn hóa; thu hút đông đảo mọi tầng lớp,
đối tượng đến tham gia sinh hoạt vui chơi trong thời gian rỗi.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


2

Những năm đầu triển khai, một mặt đã phát huy được tính tích cực, góp
phần không nhỏ cùng các thiết chế văn hóa của Nhà nước (Nhà văn hóa, câu lạc
bộ, thư viện, bảo tàng…) nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân
dân, được sự đồng tình của xã hội; khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà
nước là đúng đắn. Mặt khác, những năm gần đây, cùng với quá trình hội nhập,
một bộ phận các chủ cơ sở karaoke vì “hám lợi” đã cạnh tranh không lành mạnh,
đưa “chiêu bài” sử dụng tiếp viên nữ với nhiều phương thức “câu khách” làm
cho hoạt động karaoke biến dạng một cách rõ nét. Các ngành nghề dịch vụ
thương mại nhạy cảm khác như: nhà hàng, quán ăn, cà phê, quán bar (rượu,
bia)…len lỏi, hoạt động song hành với karaoke; từ đó đã xuất hiện nhiều tệ nạn
xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống và thuần phong mỹ
tục của dân tộc Việt Nam, gây nhiều dư luận xã hội và báo chí đã lên tiếng cảnh
báo; làm đau đầu các cơ quan quản lý trên lĩnh vực hoạt động này.
Là một cán bộ đang công tác và gắn bó trong ngành văn hóa, sinh ra và
lớn lên trên mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai. Trước “báo động” thực trạng hoạt
động karaoke luôn diễn biến phức tạp. Tôi quyết định chọn đề tài: “Quản lý Nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke tại thành phố Biên Hòa -
Đồng Nai” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Văn hóa - chuyên ngành
Quản lý Văn hóa. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình đưa karaoke trở
về với mô hình văn hóa lành mạnh, ứng dụng thiết thực vào cuộc sống; kiến

nghị một số giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước
trong hoạt động kinh doanh karaoke; góp phần cùng thành phố Biên Hòa - Đồng
Nai và cả nước thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đề tài đi sâu tìm hiểu phân tích hoạt động dịch vụ karaoke, những vấn
đề đặt ra với tư cách là sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần;
- Khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra của
hoạt động dịch vụ karaoke ở các quán karaoke, nhà hàng karaoke, các tụ điểm
karaoke trên địa bàn thành phố Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai.
3. Phương pháp nghiên cứu.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


3

Căn cứ vào đường lối, chính sách pháp luật và các văn bản pháp quy của
Đảng và nhà nước. Dựa trên cơ sở lý luận của Mác - Angghen về 2 hình thái sản
xuất vật chất và tinh thần, cùng với hệ thống lý thuyết của khoa học liên ngành
và nhu cầu hưởng thụ văn hóa giải trí của quần chúng nhân dân kết hợp các
phương pháp:
- Khảo sát thăm dò và quan sát tham dự.
- Sưu tầm tổng hợp tư liệu và phân tích.
4. Nhiệm vụ và đóng góp đề tài.
Đề tài không đi sâu tìm hiểu nguồn gốc đặc trưng sự hình thành và phát
triển của hoạt động karaoke, mà đi sâu phân tích để đi đến:
- Khẳng định karaoke là một sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần;
- Tìm hiểu những yêu cầu khách quan và giá trị xã hội của hoạt động
karaoke;
- Tìm hiểu thực tiễn quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke;

- Đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động kinh doanh dịch
vụ karaoke.
5. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khóa luận được bố cục thành 3
chương.
CHƯƠNG I: Cơ sở khoa học của công tác quản lý hoạt động văn hóa và
dịch vụ karaoke.
CHƯƠNG II: Thực tiễn quản lý hoạt động kinh doanh karaoke ở thành
phố Biên Hòa.
CHƯƠNG III: Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động kinh doanh dịch
vụ karaoke ở thành phố Biên Hòa.


www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


4


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VÀ DỊCH VỤ KARAOKE.
1.1. Quản lý hoạt động văn hóa - Sản phẩm hàng hóa tinh thần.
1.1.1. Sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần.
Văn hóa là vật phẩm tinh thần, không thể coi như sản phẩm vật chất. Ở
đây không có sự phân chia quyền lợi văn hóa giữa nhà nước và công dân, không
có đa dạng hóa hình thức sở hữu các giá trị văn hóa. Trong lĩnh vực văn hóa, giá
trị sử dụng của vật phẩm không phải là thuộc tính tự nhiên, nội dung vật chất

của vật phẩm ấy, mà chính là thuộc tính xã hội, nội dung giá trị văn hóa tinh
thần của nó. Đây là một khác biệt có tính nguyên tắc khi nói đến hàng hóa văn
hóa. Giá trị sử dụng của một tác phẩm văn hóa (sử dụng thuật ngữ này theo Ông
Đoàn Văn Chúc - chuyên đề xã hội học văn hóa - tài liệu cá nhân) không phải là
thuộc tính vật chất tự nhiên của nó, mà là nội dung giá trị nghệ thuật, giá trị văn
hóa. Nội dung này ở những thời điểm lịch sử, với từng địa phương, từng nhóm
công chúng khác nhau có sự khác nhau về mặt công dụng của nó, nghĩa là về tác
động tư tưởng thẩm mỹ.
Một điểm nữa là giá trị sử dụng của một vật phẩm vật chất có thể là đối
tượng chiếm hữu và sử dụng của một cá nhân, có thể hao phí hoàn toàn trong
quá trình sử dụng; còn giá trị sử dụng của một tác phẩm văn hóa luôn luôn là tài
sản chung của toàn xã hội, cho dù bản thân tác phẩm ấy thuộc quyền sở hữu của
nhà nước hay tư nhân. Chính vì vậy trong văn hóa, giá trị sử dụng của hàng hóa
văn hóa phải là mối quan tâm hàng đầu. Buông lỏng quản lý, xu hướng thương
mại hóa, sự lan tràn sản phẩm độc hại trên thị trường... chính là xem nhẹ hoặc
hy sinh giá trị sử dụng để chạy theo giá trị trao đổi hàng hóa tinh thần (bài hát,
bức tranh, điệu múa…) là để bán, nên mục đích chủ yếu của họ là giá trị chứ
không phải giá trị sử dụng. Nhưng quá trình thực hiện giá trị lại được tiến hành
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


5

trước quá trình thực hiện giá trị sử dụng, hoặc quá trình thứ nhất được tiến hành
một lần là xong, còn quá trình thứ hai có hậu quả lâu dài trong đời sống xã hội.
Ở đây giá trị sử dụng không chỉ là đối tượng quan tâm hàng đầu của người tiêu
dùng cụ thể (người mua vé, mua sách, báo...) mà thực chất là toàn xã hội tiêu
dùng. Vì vậy hàng hóa văn hóa đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ hơn. Đó là một dạng
hàng hóa đặc biệt.

Hai mặt giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa như đã phân tích đòi hỏi
phải tính đến hai hệ nguyên tắc cơ bản của sản xuất hàng hóa văn hóa.
Nguyên tắc kinh tế là sự điều tiết của quy luật giá trị, quy luật cung -
cầu, phải tính đến những đòi hỏi của công chúng với tư cách thị trường tiêu thụ
sản phẩm để điều chỉnh việc sản xuất và lưu thông hàng hóa, để kích thích việc
cải tiến công nghệ, cải tiến tổ chức sản xuất, tăng năng xuất lao động, hạ giá
thành (dù là sản phẩm hay dịch vụ) dành ưu thế và mở rộng số nhu cầu hiện thực
trong công chúng.
Nhưng đối tượng của giá trị sử dụng hàng hóa văn hóa đòi hỏi việc sản
xuất tác phẩm văn hóa phải tuân thủ nguyên tắc chính trị, đó là vai trò to lớn về
mặt tư tưởng, tinh thần của sản phẩm văn hóa đối với toàn xã hội, nên nó phải
được kiểm soát chặt chẽ bởi sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước
nhằm đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở nội dung giá trị sử
dụng của tác phẩm văn hóa. Giá trị sử dụng ấy chính là giá trị nhân văn của tác
phẩm văn hóa, nó nhằm phát huy nhân tố con người, phát triển toàn diện bản
thân con người, tất cả vì con người, cho con người. Muốn vậy hoạt động văn
hóa phải là “một bộ phận khăng khít trong sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng”. Nói cách khác, định hướng xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc sống còn
của sản xuất hàng hóa văn hóa.
Quản lý văn hóa cũng chính là quản lý con người trong hoạt động văn
hóa. Văn hóa, nếu bản chất của nó là những hệ giá trị, chuẩn mực, truyền thống
thị hiếu, thì hình thái của nó là những hệ biểu trưng được con người sáng tạo,
lưu trữ và vận hành trong đời sống xã hội. Những biểu trưng này làm thành di
sản văn hóa của một cộng đồng, vận hành trong đời sống xã hội như một môi
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


6


trường sinh thái văn hóa mà ở đó tồn tại những cá thể người với tư cách văn hóa
cá nhân và những tập thể.
Sản xuất của cải vật chất là quá trình tác động giữa con người vào giới tự
nhiên, nhằm biến đổi các hình thái vật chất của tự nhiên để tạo ra các sản phẩm
phù hợp với nhu cầu của mình. C. Mác và Ph. Ănghen chỉ ra rằng: “sản xuất của
cải vật chất là cơ sở, là điều kiện tiên quyết tất yếu và vĩnh viễn của sự tồn tại và
phát triển của con người và xã hội lòai người”.
Trong cuộc sống và trong quá trình lao động sản xuất, để nhận thức, để
giảm áp lực sự vất vả và tìm thấy niềm vui, sự hưng phấn, con người đã tạo ra
các hoạt động tinh thần không thể thiếu được của con người. Nhu cầu tinh thần
ngày càng trở nên phong phú và đa dạng như nhu cầu tình cảm; nhu cầu nhận
thức; nhu cầu sáng tạo; nhu cầu tổ chức cộng đồng trong quá trình hợp tác với
nhau để cải tạo tự nhiên, để bảo vệ cuộc sống, bảo vệ quê hương đất nước; nhu
cầu hoạt động xã hội; nhu cầu khẳng định mình trong cơ cấu xã hội; nhu cầu
thẩm mỹ...
Khi con người còn ở thời kỳ sơ khai, thì việc sản xuất và thỏa mãn các
nhu cầu tinh thần thường gắn chặt với quá trình sản xuất của cải vật chất và phân
phối các giá trị vật chất. Các giá trị tinh thần được con người sáng tạo ra bằng
cách bắt chước, mô phỏng trực tiếp từ thiên nhiên hay từ các động tác của con
người, do đó nó gắn liền với giá trị vật chất, với hoạt động kinh nghiệm. Nhưng
khi xã hội càng phát triển, nhận thức của con người trở nên sâu sắc hơn, thì hàm
lượng tri thức trong các sản phẩm tinh thần do con người sáng tạo ra càng cao.
Từ thực tế cuộc sống, con người quan sát, chiêm nghiệm rồi sáng tạo ra các giá
trị tinh thần có tính tư tưởng và nghệ thuật cao, đứng độc lập với các sản phẩm
vật chất. Rồi do ảnh hưởng tác động của các sản phẩm tinh thần đến mọi người
ngày càng lớn, cũng như sự đòi hỏi về nhu cầu tinh thần của người dân, của xã
hội ngày càng phong phú, sâu sắc nên một bộ phận dân chúng có năng lực, tài
năng đã tách khỏi lãnh vực sản xuất vật chất để chuyên tập trung vào sáng tạo ra
giá trị tinh thần.
www.HanhChinhVN.com

Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


7

Sản phẩm văn hóa tinh thần là hình thái quan niệm về văn hóa nghệ
thuật, tư tưởng, chính trị, pháp luật, tôn giáo, đạo đức, thẩm mỹ, do con người
sáng tạo ra trong thực tiễn; sản phẩm tinh thần tập trung trong nó các giá trị tinh
thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, hướng con người
tới những giá trị chân, thiện, mỹ, ích.
Sản phẩm văn hóa tinh thần có thể phân làm hai loại: loại tri thức và loại
văn nghệ.
- Sản phẩm văn hóa tinh thần loại tri thức như: ca dao, tục ngữ, triết học,
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kỹ thuật sản xuất, công nghệ cao...
- Sản phẩm văn hóa tinh thần loại văn nghệ như: dân ca, văn học, kịch,
hội họa, tạo hình âm nhạc, vũ đạo, truyền hình, điện ảnh.
Giống như sản phẩm vật chất, sản phẩm văn hóa tinh thần cũng là kết
quả hoạt động thực tiễn của con người. Trong quá trình tác động vào tự nhiên để
thay đổi các hình thái vật chất của tự nhiên, phục vụ nhu cầu vật chất của mình,
ở con người đồng thời xuất hiện những nhu cầu tinh thần và các giá trị tinh thần.
Để thỏa mản các nhu cầu đó, các sản phẩm văn hóa tinh thần được sáng tạo ra,
nhưng sản phẩm văn hóa tinh thần là loại sản phẩm đặc biệt, chỉ có được ở con
người và tồn tại trong xã hội loài người nên nó có những đặc trưng sau:
- Sản phẩm văn hóa tinh thần lúc đầu gắn với kinh nghiệm nhiều hơn.
Khi xã hội loài người mới hình thành, trình độ nhận thức khoa học kỹ
thuật chưa phát triển, con người gần như phụ thuộc vào thiên nhiên. Sự phụ
thuộc này làm ảnh huởng đến cuộc sống và các hoạt động vật chất của con
người. Do đó để hạn chế và tránh những tác hại của tự nhiên, con người đã quan
sát các quy luật của tự nhiên và rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Để các kinh
nghiệm này được dễ nhớ và dễ lưu truyền, người ta đã đặt thành những câu ca

dao, tục ngữ:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” (ca dao)
“Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa” (tục ngữ)
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


8

Nhưng khi xã hội vật chất ngày càng phát triển, nhận thức của con người
cũng ngày một sâu sắc thì các sản phẩm văn hóa tinh thần đã dần dần tách khỏi
sản phẩm vật chất thông thường, đứng độc lập và mang tính tư duy, tính khái
quát nhiều hơn, do đó, tính tư tưởng và nghệ thuật cũng được nâng cao.
- Sản phẩm văn hóa tinh thần có tính chất ban đầu là công hữu và phi
hàng hóa.
Việc sản xuất và sử dụng sản phẩm văn hóa tinh thần ban đầu mang tính
chất công hữu tập thể, phục vụ cho số đông hoặc toàn xã hội. Nhưng khi kinh tế
hàng hóa xuất hiện thì nhiều sản phẩm tinh thần dần dần tham gia vào quá trình
trao đổi mua bán và trở thành hàng hóa. Sự biến đổi này đã làm cho sản phẩm
văn hóa tinh thần chuyển dần từ công hữu sang tư hữu.
Sản phẩm văn hóa tinh thần có mâu thuẩn giữa tính hàng hóa và tính phi
hàng hóa. Tính phi hàng hóa đòi hỏi sản phẩm văn hóa tinh thần phải phục vụ
cho cơ sở chính trị, kinh tế nhất định, còn tính hàng hóa đòi hỏi sản phẩm văn
hóa tinh thần phải được trao đổi, sản xuất, kinh doanh theo quy luật giá trị, quy
luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh và chịu sự tác động điều tiết của các quy luật
này. Đây cũng chính là mâu thuẫn mang tính biện chứng của sản phẩm văn hóa
tinh thần.
Một số sản phẩm văn hóa tinh thần lúc đầu được sản xuất ra không nhằm
mục tiêu mua bán trao đổi, nó không phải là hàng hóa. Nhưng do nhu cầu của

người tiêu dùng, chúng có thể được chủ sở hữu chuyển nhượng hoặc bán cho
người khác bằng một giá cả thỏa thuận nào đó, lúc này sản phẩm văn hóa tinh
thần đó trở thành hàng hóa.
- Giá trị của sản phẩm văn hóa tinh thần thường được tính theo lao động
cá biệt chứ không phải lao động bình quân.
Theo quan điểm kinh tế chính trị học Mác - Lê nin thì thời gian lao động
cá biệt và thời gian lao động tất yếu (cần thiết) là hai yếu tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị của hàng hóa. Áp dụng cho sản phẩm văn hóa tinh thần, có thể hiểu
sản phẩm văn hóa tinh thần gắn liền với khả năng sáng tạo, mang tính cá nhân,
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


9

không thể dùng những quy chuẩn, định lượng chung của xã hội để tính toán như
sản phẩm vật chất.
- Nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần không chịu giới hạn về thời gian và
không gian; có thể truyền bá rộng khắp, với số lượng không hạn chế.
Sản phẩm văn hóa tinh thần có tính lưu truyền lâu đời, được bảo tồn,
phát triển và gìn giữ qua nhiều thế hệ. Ví dụ như: “Những tác phẩm điện ảnh
kinh điển”, “những bài ca đi cùng năm tháng”... Thời gian sử dụng của sản
phẩm văn hóa tinh thần thường kéo dài, bao hàm trong đó cả tính kế thừa và yếu
tố sáng tạo không ngừng.
Những sản phẩm văn hóa tinh thần tồn tại ở dạng phi vật thể, có khả
năng phổ biến rộng, được nhân bản vô cùng, không hao mòn trong sử dụng. Có
những sản phẩm văn hóa tinh thần càng sử dụng, thưởng thức, đánh gía thì giá
trị lại càng tăng lên như: Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Sản phẩm văn hóa tinh thần được sáng tạo trên nguyên tắc tuân thủ một
kết cấu thẩm mỹ nào đó. Do vậy, để thưởng thức sản phẩm văn hóa tinh thần

cần có thời gian và trình độ nhất định, Hiện nay, trong số các sản phẩm văn hóa
tinh thần có một số loại đòi hỏi một trình độ am hiểu và cảm thụ rất cao trong
thưởng thức, tiêu biểu như các vở kịch theo dạng kịch phi lý; tác phẩm hội họa
theo trường phái ấn tượng, lập thể, nhạc thính phòng; giao hưởng.
Hàng hóa văn hóa tinh thần là một loại hàng hóa đặc biệt, được tạo nên
từ sự kết hợp của hai yếu tố sản phẩm tinh thần và hàng hóa. Nói cách khác,
hàng hóa và văn hóa tinh thần là những sản phẩm văn hóa tinh thần được đem ra
trao đổi, mua bán.
Với tư cách là sản phẩm văn hóa tinh thần, nó thỏa mãn các tiêu chí:
- Là sản phẩm lao động trí tuệ.
- Có khả năng thỏa mãn nhu cầu tinh thần của một cá nhân hay cộng
đồng người.
- Với tư cách là hàng hóa, nó cũng thực hiện được giá trị và giá trị sử
dụng, được trao đổi mua bán trên thị trường.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


10

- Giá trị sử dụng của hàng hóa văn hóa tinh thần là tính hữu dụng có thể
thỏa mãn yêu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của mọi người.
- Giá trị của hàng hóa văn hóa tinh thần là lao động trí tuệ trừu tượng của
con người kết tinh trong đó. Hàng hóa văn hóa tinh thần là sản phẩm của lao
động, khi sản xuất ra nó người ta phải tiêu hao một lượng sức lao động và lượng
lao động tiêu hao đó tạo thành nguồn gốc của giá trị. Đối với hàng hóa văn hóa
tinh thần, việc xác định lượng giá trị thường căn cứ vào thời gian lao động cá
biệt của người sáng tạo, chứ không thể tính theo thời gian lao động trung bình
như các loại hàng hóa thông thường, bởi hàng hóa văn hóa tinh thần bao gồm
thời gian thai nghén và thời gian thể hiện (viết, vẽ...); thời gian thể hiện có thể

tính được từ thời gian tác giả bắt đầu viết, vẽ tác phẩm đến lúc kết thúc, nhưng
thời gian thai nghén thì trừu tượng, không thể quy ra thời gian vật chất cụ thể.
Bên cạnh đó, cũng còn xét đến tư tưởng, tính nghệ thuật của bản thân sản phẩm
và việc thực hiện chức năng thẩm mỹ, giáo dục, giải trí của sản phẩm văn hóa
tinh thần.
Việc sản xuất sản phẩm văn hóa tinh thần cũng cần đến các yếu tố
nguyên vật liệu, công nghệ, sức lao động. Nhưng vì chúng là những sản phẩm
tinh thần nên có tính chất đặc biệt và cách hiểu phải mềm dẻo linh hoạt hơn.
- Nguyên vật liệu sử dụng để sáng tạo ra sản phẩm văn hóa tinh thần
không chỉ ở dạng vật chất mà cả dạng phi vật chất, như trình độ hiểu biết, vốn
sống, tri thức, tình cảm, quan điểm, tư tưởng, đạo đức, khiếu thẩm mỹ... và các
giá trị tinh thần của nhân loại mà tác giả kế thừa được. Thông thường, con người
nếu hội tụ được các yếu tố như hiểu biết rộng, quan điểm đúng đắn, thẩm mỹ
lành mạnh sẽ có nhiều khả năng sáng tạo được sản phẩm văn hóa tinh thần có
giá trị. Nhưng cá biệt cũng có những sản phẩm văn hóa tinh thần xuất sắc được
tác giả sáng tạo trong trạng thái xuất thần.
- Công nghệ trong sản xuất sản phẩm văn hóa tinh thần không chỉ đơn
thuần là máy móc, công nghệ theo nghĩa thông dụng thường ngày, mà phần quan
trọng được cấu thành nên từ trí tuệ, tài năng và phương pháp sáng tạo của ngừơi
lao động văn hóa, lao động trí óc.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


11

- Sức lao động trong sản xuất sản phẩm văn hóa tinh thần phải kể đến
những yếu tố về mặt tinh thần, sự nhạy cảm tư tưởng, tình cảm, tài năng... của
con người. Đồng thời sức lao động trong sản xuất sản phẩm văn hóa tinh thần
còn chịu tác động của những đòi hỏi bức xúc của hiện thực xã hội và những

nguồn cảm hứng sáng tạo. Vì vậy, đối với con người lao động trí óc, văn hóa
nghệ thuật đòi hỏi bù đắp cả hao mòn hữu hình lẫn hao mòn vô hình.
Sản phẩm văn hóa tinh thần có tính chất hàng hóa gồm chủ yếu là loại
hình sản phẩm văn hóa ứng dụng: xuất bản phẩm, báo chí, phim ảnh... Chúng
cũng là sản phẩm của lao động, được sáng tạo nhằm mục đích trao đổi. Những
hàng hóa này đi vào thị trường văn hóa và thực hiện giá trị của mình, được
người tiêu dùng mua để phục vụ nhu cầu tinh thần - một nhu cầu không thể thiếu
và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống hiện đại.
- Hàng hóa văn hóa tinh thần có giá trị sử dụng kép.
Sản phẩm vật chất thông thường khi tiêu dùng mang tính cá nhân cao.
Nó chủ yếu thỏa mản nhu cầu của người tiêu dùng và ít có ảnh hưởng đến xã
hội. Ví dụ, khi chúng ta tiêu dùng một cái bánh mì, hoặc một đồ dùng trong nhà
thì việc tiêu dùng đó chỉ thỏa mản nhu cầu cá nhân mà rất ít ảnh hưởng đến xã
hội. Có thể gọi những vật phẩm như vậy là những vật phẩm có giá trị sử dụng
đơn, tức là chỉ thỏa mản nhu cầu cá nhân. Nhưng trái lại, khi chúng ta thưởng
thức sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần, như một cuốn phim, một tác phẩm
văn học thì ngoài việc thỏa mản nhu cầu cá nhân ra chúng còn góp phần thỏa
mản những nhu cầu của xã hội, như nhu cầu tổ chức cộng đồng, nhu cầu giáo
dục tư tưởng hoặc nhu cầu duy trì trật tự an ninh xã hội...Như vậy, nó mang giá
trị sử dụng kép.
Một sản phẩm văn hóa tinh thần nếu có nội dung lành mạnh, có tính tư
tưởng và nghệ thuật cao sẽ có tác động tích cực đến người tiêu dùng và xã hội.
Nó làm cho con người sống nhân văn hơn, thương yêu nhau hơn; nó khích lệ
người ta vượt qua những khó khăn, gian khổ, đau buồn để vươn tới một cuộc
sống tốt đẹp. Những nhân vật tiêu biểu, tích cực trong tác phẩm là những tấm
gương có sức cuốn hút mạnh để người ta học tập, noi theo. Bên cạnh đó, các sản
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa



12

phẩm văn hóa tinh thần còn phê phán những thói hư, tật xấu của con người, của
xã hội để cảnh tỉnh rút ra những bài học phòng tránh. Trong thời gian gần đây
một số bộ phim do điện ảnh Việt Nam sản xuất như: “Mùa ổi”, “Thung lũng
hoang vắng”, “Đời cát”... Ngòai việc thu lợi với tư cách là những bộ phim ăn
khách, các tác phẩm này còn được công nhận là những sản phẩm văn hóa tinh
thần có giá trị, nhận giải thưởng cao trong các liên hoan phim quốc gia và quốc
tế.
Ngược lại, những sản phẩm văn hóa tinh thần được sáng tạo ra theo quan
điểm thẩm mỹ lệch lạc, bị chi phối bởi lợi nhuận là nguyên nhân xuất hiện trên
thị trường những tác phẩm “phản văn hóa”. Loại hàng hóa văn hóa tinh thần
kiểu này nhằm thỏa mản những thị hiếu thẩm mỹ thấp kém, nhu cầu giải trí thiếu
lành mạnh. Ví dụ như các loại báo “lá cải”, phim ảnh văn hóa phẩm đồi trụy,
kích động bạo lực... Những loại hàng hóa văn hóa này sẽ gây ra những tác động
tiêu cực dễ dẫn người ta đến sự buồn chán, xa đọa, nổi loạn.
Do đó để có một thị trường hàng hóa văn hóa tinh thần phong phú lành
mạnh có tính tư tưởng và nghệ thuật cao thì chủ thể sáng tạo, nhà sản xuất phải
dựa vào nhu cầu, lợi ích chính đáng của xã hội, không được vì lợi ích kinh tế của
riêng mình, chạy theo những thị hiếu tầm thường, cá nhân thiểu số mà làm tổn
hại đến môi trường văn hóa chung, lành mạnh của xã hội.
- Hàng hóa văn hóa tinh thần vừa có tính công hữu vừa có tính tư hữu.
Hàng hóa văn hóa tinh thần chủ yếu do cá nhân sáng tạo ra và ghi dấu cá
nhân đậm nét, vì thế nó có tính tư hữu. Nhưng trong thực tế thì cá nhân - chủ thể
sáng tạo chỉ là người trực tiếp thể hiện, tức là cho ra đời sản phẩm văn hóa tinh
thần - còn chất liệu để làm ra sản phẩm văn hóa tinh thần thì chủ thể sáng tạo
phải lấy từ trong các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống và hiện đại của cộng
đồng, của dân tộc, của quốc tế, do đó khi sản phẩm văn hóa tinh thần trở thành
hàng hóa văn hóa tinh thần thì nó đồng thời cũng có tính công hữu.
Tính tư hữu và công hữu của hàng hóa văn hóa tinh thần không đối lập

với nhau mà gắn bó hữu cơ với nhau.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


13

1.1.2. Quản lý hoạt động văn hóa là quản lý hệ thống sản xuất tinh
thần.
Điểm xuất phát để nhìn nhận hoạt động văn hóa như một hệ thống tổ
chức sản xuất là tư tưởng của học thuyết Mác-xít về sản xuất vật chất là hai hình
thái cơ bản của hoạt động người. Trong “hệ tư tưởng Đức” Mác và Ăng-ghen
viết về hai phương diện hoạt động. Sự chế tác thiên nhiên bởi con người và chế
tác con người bởi con người. Trong tập bốn bộ tư bản Mác nói đến hai trường
hợp sản xuất phi vật chất và nhiều lần ông trở lại tư tưởng này. Chẳng hạn, Mác
viết “trong nền sản xuất phi vật chất, ngay cả nếu chỉ được tiến hành để trao đổi,
sản xuất hàng hóa, vẫn có hai trường hợp:
* Những hàng hóa tồn tại tách biệt khỏi người sản xuất, do đó có thể
trong khoảng cách giữa sản xuất và tiêu dùng trở thành hàng hóa.
Ví dụ: Cuốn sách, bức tranh, tất cả tác phẩm nghệ thuật tồn tại tách khỏi
hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ sáng tạo ra chúng .
* Những sản phẩm gắn liền với hoạt động của người sản xuất.
Sản xuất tinh thần không những tạo ra các giá trị tinh thần được khách
quan mà còn bao hàm cả việc hình thành văn hóa cá nhân, văn hóa cộng đồng và
sự giao tiếp văn hóa. Sản xuất tinh thần cũng có thể phân ra đối tượng lao động,
quá trình lao động và kết quả lao động. Tuy nhiên, ở đây đối tượng lao động có
thể là những quan hệ xã hội và quá trình tư duy nhân loại, còn sản phẩm lao
động có thể tồn tại không tách khỏi hành động sáng tạo của người sản xuất trực
tiếp.
Sự phát triển sản xuất tinh thần như một ngành tương đối độc lập trong

hoạt động xã hội đã tạo ra đội ngũ đặc biệt những người làm việc chuyên môn
hóa. Tuy nhiên, phát triển mạnh mẽ đời sống tinh thần còn phụ thuộc sự tham
gia vào lĩnh vực này của đông đảo nhân dân lao động. Ở đây có ý nghĩa quan
trọng là tư tưởng của Mác về mối quan hệ giữa sự phát triển lực lượng sản xuất
và thời gian tự do, phát triển tính cách con người thông qua sử dụng thời gian tự
do có văn hóa và tác dụng của nó đối với sự phát triển lực lượng sản xuất.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


14

Với tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thời gian tự do rất cần thiết để
phát triển tự do, để sản xuất các giá trị tinh thần trước hết là sản xuất ra bản thân
người lao động với những thuộc tính văn hóa phong phú.
Tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất tinh thần của nhân dân trong thời
gian tự do là nội dung chủ yếu và là thực chất đối tượng nghiên cứu của khóa
luận.
Nhìn nhận hoạt động văn hóa như một hệ thống sản xuất có nghĩa bộ
máy quản lý hành chính không là tất cả, cũng không là chủ yếu. Phát triển sự
nghiệp này trước hết phải gắn liền với việc mở rộng mạng lưới thiết chế sự
nghiệp như những đơn vị sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm. Sự phong phú số
lượng và chất lượng, sự phân bổ đều khắp mạng lưới ấy, và một tầng lớp nhân
sự gắn liền với chúng, hình thành những trung tâm văn hóa tiêu biểu cho diện
mạo đời sống tinh thần của nhân dân là dấu hiệu xã hội văn hóa cao.
Xuất phát từ yêu cầu tổ chức quản lý một bộ phận nhất định những hoạt
động người, có thể xem văn hóa như quá trình sản xuất tinh thần và khách thể
hóa chúng như những giá trị tinh thần và giá trị vật chất, những thuộc tính của
bản thân con người với tư cách chủ thể của quá trình hoạt động.
Bất kỳ văn hóa của cộng đồng xã hội có giai cấp nào cũng cấu thành bởi

hai dòng văn hóa. Văn hóa chính thống của giai cấp đại diện cho phương thức
sản xuất hiện hành và văn hóa dân gian của các giai cấp thực hành phương thức
sản xuất ấy.
Về mặt xã hội học lao động, người ta gọi văn hóa dân gian là văn hóa
nghiệp dư, và mặt xã hội học thời gian là “hoạt động rỗi” bởi phần lớn những
hoạt động này chủ yếu diễn ra trong thời gian rỗi (thời gian tự do).
Xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp thống trị kinh tế đồng thời thống
trị về tinh thần. Tầng lớp đặc biệt, tầng lớp “hệ tư tưởng của xã hội đã hình
thành để thực hiện nhiệm vụ đó”. Chính tầng lớp này đóng vai trò quyết định
trong sản xuất các giá trị tinh thần. Hoạt động văn hóa của họ là chuyên nghiệp,
hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này, diễn ra như quá trình lao động xã hội.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


15

Trái lại, với đại bộ phận nhân dân, thời gian lao động, xã hội trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất. Nhân dân tham gia sản xuất tinh thần chủ yếu dưới
hình thái hoạt động rỗi, nghĩa là tự biểu hiện trong nghỉ ngơi, giải trí. Vì vậy có
thể gọi quá trình thực hiện bản chất người ấy là giải trí - sáng tạo văn hóa.
Trước chủ nghĩa xã hội, văn hóa dân gian là hiện tượng tự phát của nhân
dân lao động. Thuật ngữ “folklore” trong đa số ngôn ngữ các xứ la tinh, Bắc Mỹ
và Bắc Âu ứng dụng cho những cuộc trình diễn những liên hoan ca khúc và
nhảy múa, trong khoa học là sự nghiên cứu văn hóa nông dân. Ở Mỹ “folklore”
gợi đến những ca sĩ tóc dài hoặc những người kể chuyện dân gian các thế kỷ xa
xưa. Ở Đức và Anh muốn nói đến những truyền thuyết dân gian thực chất, còn
trong khoa học nhân văn Xô Viết và Trung Âu “folklore” là trí tuệ nhân dân
biểu thị sự bất bình của họ chống lại các giai cấp bóc lột.
Văn hóa dân gian là hoạt động tinh thần của người lao động. Một sự thật

phổ biến như không khí, lâu dài như lịch sử loài người là: sáng tạo văn hóa là
quyền năng của mỗi cá nhân với tư cách con người xã hội - đơn vị cấu thành xã
hội. Giải phóng quyền năng sáng tạo ấy và sự nở rộ các hoạt động người chỉ có
dưới chủ nghĩa xã hội, trước hết và cơ bản là mở rộng số lượng và giá trị tăng
chất lượng thời gian rỗi.
Hoạt động là một phương thức tri thức của cá nhân, là điều kiện thiết yếu
tiến hành sản xuất tinh thần dành cho sự phát triển toàn diện cá nhân. Văn hóa
quần chúng ngày nay là cái tương ứng với văn hóa dân gian trước đây.
Tuy nhiên có những khác biệt. Nếu văn hóa dân gian là hiện tượng tự
phát dưới các chế độ chính trị khác thì dưới chủ nghĩa xã hội, văn hóa quần
chúng là đời sống tinh thần của nhân dân được nhà nước tổ chức quản lý, được
Đảng lãnh đạo và hệ thống cơ quan chuyên môn tổ chức chỉ đạo. Ở đây có hai
mặt gắn bó chặt chẽ và quy định lẫn nhau: một mặt là hoạt động tự thỏa mản
nhu cầu cơ bản của quần chúng lao động. Mặt khác là trách nhiệm tổ chức quản
lý của nhà nước. Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở khách quan cho sự thống nhất hai
mặt này. Đây là bản chất văn hóa quần chúng, sản phẩm của sự thống nhất
quyền lợi chính trị - kinh tế giữa nhà nước và nhân dân.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


16

Khi so sánh lịch đại sự khác nhau giữa văn hóa dân gian và văn hóa quần
chúng là khác nhau giữa hai kiểu sản xuất tinh thần trên cơ sở hai kiểu sản xuất
khác nhau, là tính liên tục lịch sử được thực hiện bởi sự gián đoạn lịch sử giữa
hai loại hình văn hóa trên cơ sở hai hình thái kinh tế xã hội. Khi so sánh đồng
loại giữa văn hóa và văn hóa quần chúng thì văn hóa là tổng thể và văn hóa quần
chúng là bộ phận. Tương ứng với điều ấy, công tác văn hóa là hoạt động nhà
nước tổ chức quá trình sản xuất tinh thần trên cơ sở phù hợp với phương thức

sản xuất mà nó đại diện và phổ cập các giá trị bằng những phương tiện mà nó sở
đắc trong thời đại.
Nhưng do bản chất chính trị của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể
tiến hành cả hai phần việc để xây dựng nền văn hóa: tổ chức quản lý văn hóa
chuyên nghiệp và tổ chức quản lý văn hóa quần chúng. Công tác văn hóa có thể
phân thành hai mảng:
1. Tổ chức quản lý văn hóa chuyên nghiệp bao gồm cả sản xuất và lưu
thông phân phối đem văn hóa đến quần chúng.
2. Tổ chức quản lý văn hóa quần chúng, bao gồm cả hoạt động sản xuất,
trao đổi và tiêu dùng các giá trị tinh thần đem quần chúng đến văn hóa.
Ở hệ thống thứ hai nhân dân trực tiếp tham gia quá trình sản xuất sản
phẩm văn hóa. Đây là hệ thống thiết chế sự nghiệp công tác văn hóa quần
chúng, đối tượng xem xét chủ yếu trong khóa luận này.
Quá trình xã hội hóa và phát triển cá nhân, sự hình thành nhân cách văn
hóa bao giờ cũng diễn ra bởi hai chiều tác động liên tục đan xen lẫn nhau, dệt
thành những nhân cách cụ thể. Chiều dọc là sự tác động của văn hóa xã hội của
cá nhân ấy, tức cá nhân tự xác định mình trong môi trường văn hóa. Sự vận
động này thống nhất hai mặt giáo dục văn hóa và thỏa mãn nhu cầu văn hóa toàn
diện của con người. Tính chất phong phú thực sự về tinh thần của cá nhân hoàn
toàn tùy thuộc vào tính chất phong phú các mối quan hệ thực sự của chính cá
nhân ấy. Ở đây con người thể hiện trong sự vận động văn hóa trên ba mối quan
hệ chủ yếu:
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


17

+ Cá nhân chiếm lĩnh giá trị văn hóa.
+ Cá nhân sáng tạo văn hóa.

+ Cá nhân như đại biểu mang văn hóa, có quan hệ giao lưu trao đổi với
nhau.
Tổ chức quản lý vận động văn hóa theo chiều ngang này như là một lĩnh
vực sản xuất tinh thần, hệ thống công tác văn hóa quần chúng bao gồm từ bộ
máy quản lý nhà nước các cấp đến mạng lưới các đơn vị sự nghiệp. Bộ máy
quản lý là Bộ văn hóa ở cấp Trung ương. Sở văn hóa thông tin tỉnh, thành;
phòng văn hóa thông tin quận, huyện. Chức năng cơ bản loại hình hoạt động này
là quản lý nhà nước về hành chính pháp chế (đường lối của Đảng, tổ chức, kế
hoạch, kinh phí…)
Sản xuất tinh thần cũng được tổ chức thành hoạt động cụ thể do các thiết
chế sự nghiệp như những đơn vị cơ sở tiến hành. Hoạt động văn hóa như một
quá trình sản xuất. Chức năng quản lý chỉ xuất hiện từ yêu cầu tổ chức và điều
hành sản xuất. Các cơ quan quản lý chỉ phát huy tác dụng của mình thông qua
những đơn vị sản xuất nhằm tăng cường hiệu quả kinh tế văn hóa của chúng.
Chỉ có bộ máy quản lý hành chính pháp chế gồm những Bộ, Sở, Phòng, Ban...
tức là chưa có đơn vị sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm. Vì vậy, nếu giáo dục
phải có trường học, y tế phải có bệnh viện... thì văn hóa quần chúng phải có thiết
chế sự nghiệp như: Cung văn hóa, nhà văn hóa, thư viện, bảo tàng... với tư cách
là đơn vị sản xuất, chủ thể trực tiếp của công tác văn hóa quần chúng. Có thể
phát thảo lược đồ hệ thống tổ chức sản xuất văn hóa như sau:
CẤP QUẢN LÝ BỘ MÁY QUẢN LÝ CƠ SỞ SẢN XUẤT
Trung ương Bộ Văn hóa (cục - vụ -
viện)
Cung văn hóa, nhà văn hóa, bảo
tàng, thư viện Trung ương…
Tỉnh, thành phố Sở Văn hóa thông tin
(phòng, ban)
Nhà văn hóa, triển lãm, thư viện
tỉnh…
Quận, huyện, thị

xã, thành phố thuộc
Phòng Văn hóa thông tin Nhà văn hóa, trung tâm văn hóa
thông tin, thư viện huyện…
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


18

tỉnh
Xã, phường, thị trấn UBND (cán bộ văn xã) Trung tâm VH xã, phường…
1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động dịch vụ karaoke.
1.2.1. Quản lý nhà nước về hoạt động văn hóa.
Quản lý là đối tượng nghiên cứu và vận hành của nhiều ngành khoa học
trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên - khoa học xã hội và nhân văn. Trong mỗi
lĩnh vực - phạm vi hoặc mỗi ngành nghề nghiên cứu ứng dụng và vận hành quản
lý ở mỗi góc độ riêng biệt, cũng từ đó đưa ra các định nghĩa riêng về quản lý của
lĩnh vực hay ngành khoa học đó. Theo điều khiển học, quản lý là sự điều khiển
định hướng một hệ thống hay một quá trình vận động, căn cứ vào những quy
luật, định luật hay những nguyên tắc tương ứng, điều khiển hệ thống hay quá
trình vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích,
lợi ích và kết quả đã được định trước.
Trong lĩnh vực xã hội loài người quản lý ở phạm vi vĩ mô được chia
thành hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý, ở phạm vi vi mô quản lý được
chia thành chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Như vậy, quản lý là sự tác động
có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý. Như vậy, quản lý là sự
tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý một lần hoặc
nhiều lần, gián tiếp hay trực tiếp là tùy thuộc theo từng lĩnh vực phạm vi, vấn đề
hay cơ chế quản lý đặt ra.
Angghen viết: “Một bên là phải có quyền uy nhất định, không kể quyền

uy đó được tạo lập bằng cách nào và một bên phải có sự phục tùng nhất định”.
Quản lý nhà nước chính là quản lý hành chính pháp chế, căn cứ vào hiến pháp
nhà nước, cơ quan lập pháp tối cao đưa ra các điều luật pháp chế quy định, giao
cho hệ thống các cơ quan hành pháp từ Trung ương đến địa phương thực hiện,
thông qua các văn bản, thể chế, nghị định, chế tài, điều lệ các văn bản, điều lệ
tiêu chuẩn, chế độ…Hệ thống các cơ quan hành pháp có nhiệm vụ xây dựng cơ
cấu tổ chức, xác lập mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, tổ
chức chỉ đạo đưa ra các quyết định, các Chỉ thị, mệnh lệnh, điều chỉnh hoạt động
đúng hướng, uốn nắn sai lệch. Như vậy quản lý nhà nước chính là quản lý pháp
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


19

quyền dựa trên cơ sở pháp lý của hiến pháp và pháp luật ban hành theo từng hệ
thống, phân cấp quản lý theo từng phạm vi lĩnh vực trên cả nước và từng địa
phương.
Văn hóa ngày nay có ý nghĩa to lớn trong đời sống con người và trong sự
phát triển xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
(khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc đã khẳng định” “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.

Nếu trên bình diện lý luận, nhận thức đúng đắn và đầy đủ về văn hóa là
cả một quá trình, thì trên bình diện đời sống xã hội, việc tổ chức quản lý hoạt
động văn hóa thực hiện những tư tưởng sâu sắc trong các nghị quyết của Đảng
còn khó khăn hơn nhiều.
Một thời gian khá dài dân tộc ta phải tiến hành cuộc chiến đấu khốc liệt
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, văn hóa là một

mặt trận. Mặt trận văn hóa tư tưởng (cũng như một mặt trận bất kỳ nào khác)
đều có “ta và địch”, có “bạn và thù”. Thắng lợi trên mặt trận ấy là thắng lợi
những giá trị tinh thần Việt Nam. Trong hoàn cảnh ấy, nội dung cốt lõi của nâng
cao dân trí và phát triển văn hóa là bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước và giác ngộ
chủ nghĩa xã hội. Văn hóa trước hết là “văn hóa chính trị tư tưởng”.
Văn hóa là một hệ thống những giá trị và chuẩn mực xã hội. Nhưng giá
trị không tồn tại lơ lững, siêu hình. Giá trị là nội dung, là bản chất của văn hóa
bao giờ cũng được khách quan hóa, đối tượng hóa dưới dạng những hình thức
(của nội dung) những hiện tượng (của bản chất), những quan hệ và quá trình xã
hội.
Quản lý văn hóa không đơn giản chỉ là công tác tuyên huấn, mà chính là
quản lý những quá trình xã hội này. Khoa học quản lý đòi hỏi phải nhìn nhận đối
tượng quản lý trong sự vận động của nó, phải nắm bắt được những quy luật của
đối tượng vận động và vận động của đối tượng.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


20

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện trong đời sống xã
hội và chuẩn bị gia nhập WTO dưới sự lãnh đaọ của Đảng, từ một nền kinh tế
tập trung, bao cấp chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà
nuớc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một bộ máy hành chính quan liêu
chuyển đổi thành bộ máy nhà nước pháp quyền. Những khái niệm “hàng hóa”,
“sản xuất hàng hóa”, “cơ chế thị trường” đã phổ dụng trong lĩnh vực kinh tế.
Nhưng phải chăng, chỉ có thể và cần thiết xóa bỏ bao cấp trong kinh tế là đủ?
Phải chăng cái luận thiết “thể Đông dụng Tây” của thời quân chủ suy tàn vẫn
còn sức hấp dẫn?
Lịch sử cho thấy trong quy luật sinh tồn của nó văn hóa là “giao lưu” là

“tiếp biến” là “kế thừa” và “đổi mới”. Không một thế trị nào, một bộ máy quyền
lực nào có thể bao cấp về văn hóa tinh thần nói chung, về văn hóa chính trị nói
riêng bởi lẽ hiển nhiên là nền tảng tinh thần của bất kỳ cộng đồng dân tộc nào
cũng được sản sinh và xây dựng trong chính cuộc sống thường nhật của mỗi
người dân chứ không thể chỉ bằng món ăn ngoại nhập từ ngoài vào hay trên
xuống. Nền tảng tinh thần ấy là bản sắc dân tộc và diện mạo đích thực của họ ở
mỗi chặng đường thăng trầm của lịch sử.
Mặc khác, không một giai cấp thống trị, một bộ máy nhà nước nào lại
buông lỏng quản lý văn hóa. Tình trạng buông lỏng thậm chí bất lực trong quản
lý văn hóa (mà nhiều khi biểu hiện dưới dạng những biện pháp cực đoan) bao
giờ cũng là dấu hiệu rõ rệt chứng tỏ sự suy yếu của thể chế chính trị hoặc của bộ
máy quyền lực đó.
Trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, Đảng ta chủ
trương lãnh đạo toàn dân xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc. Một trong những tư tưởng chỉ đạo của Đảng để thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ cao cả đó là:
“Văn hóa văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội. Phát triển các hoạt động
văn hóa văn nghệ của nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng và
sự quản lý của nhà nước, khắc phục tình trạng “hành chính hóa” các tổ chức văn
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


21

hóa nghệ thuật, và xu hướng “thương mại hóa” trong lĩnh vực này (văn kiện hội
nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương khóa VII).
Nếu trên lĩnh vực kinh tế, vai trò quản lý của nhà nước là sự điều tiết theo
định hướng xã hội chủ nghĩa thì trên lĩnh vực văn hóa có khác. Ở đây không có
sự phân chia quyền lợi văn hóa giữa nhà nước và công dân, không có đa dạng

hóa hình thức sở hữu các giá trị văn hóa. Nhưng việc sản xuất, bảo quản, lưu
thông và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa lại không nhất thiết và không thể bao
cấp nhà nước hoàn toàn. Đảng ta chủ trương phát triển các hình thức hoạt động
văn hóa, văn nghệ của nhà nước, tập thể và cá nhân.
Nhìn nhận hoạt động văn hóa như một hệ thống tổ chức sản xuất tinh
thần, đòi hỏi và cho phép vận dụng khoa học quản lý trong lĩnh vực này nhằm
tăng cường vai trò của nhà nước không chỉ trong việc khắc phục tình trạng hành
chính hóa các tổ chức văn hóa mà còn khắc phục hữu hiệu tình trạng thương mại
hóa văn hóa các hoạt động văn hóa. Không thể biến toàn bộ hoạt động văn hóa
thành chuyện buôn bán lời lãi, điều đó không đồng nghĩa với việc triệt tiêu hoàn
toàn tính chất “thương mại” trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, nơi tồn tại đa
thành phần hoạt động (nhà nước, tập thể, cá nhân) nơi tồn tại quy luật cung - cầu
mà sự thống nhất định hướng giá trị văn hóa không phải là sự đồng nhất thị hiếu
để mọi người cùng ăn một suất ăn tập thể như nhau. Đã nói đến cung - cầu là nói
đến cạnh tranh thị trường và tác động của quy luật giá trị. Cũng như nói đến sản
xuất là nói đến hoạch định kinh tế. Đây là những vấn đề kinh tế học trong văn
hóa không chỉ có ý nghĩa to lớn, trong nghiên cứu lý luận mà có giá trị thiết thực
và cấp bách trong tổ chức hoạt động thực tiễn. Theo hướng này, khóa luận chỉ là
sự đề cập bước đầu đến một vấn đề mới mẽ, phong phú và phức tạp. Trong giới
hạn, bài viết là sự vận dụng ngôn ngữ quản lý vào việc xem xét lĩnh vực hoạt
động văn hóa như một hệ thống sản xuất tinh thần, từ đó xem xét vận hành một
thiết chế văn hóa với tư cách đơn vị cơ sở trong hệ thống vĩ mô quốc gia tương
tự như vận hành một doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực văn hóa. Tăng
cường vai trò quản lý của nhà nước về văn hóa bằng những biện pháp chuyên
môn và kinh tế là điều kiện cần thiết để phát triển văn hóa lành mạnh, phong
phú, đa dạng, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu về đời sống tinh thần của nhân
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa



22

dân, nhu cầu về phát triển nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc
của mỗi người dân, mỗi gia đình ngày hôm nay.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo khoa học quản lý là điều kiện để thực
hiện thắng lợi chính sách của Đảng “xây dựng có trọng điểm, cơ sở vật chất kỹ
thuật cao cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin đại chúng, đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước đuổi kịp trình độ kỹ thuật của
thế giới.
1.2.2. Hoạt động karaoke một sinh hoạt văn hóa hiện đại.
Karaoke bắt nguồn từ sự kết hợp của chữ KARA có nghĩa là “không”
(cũng như trong môn karate có nghĩa là tay không với chữ OKE (viết tắt của chữ
Okesutora) có nghĩa là dàn nhạc. Karaoke cấu tạo bởi 2 phần: phần nhạc nền
được ghi âm trước được phối đồng bộ (cùng xung) với phần chữ (lời bài hát);
phần xướng dành cho người biểu diễn (hát) trực tiếp cầm micro biểu diễn theo
nhạc và chữ chạy trên màn hình (tivi).
Thông qua cách giải thích trên, nguồn gốc của karaoke có xuất xứ từ
Nhật Bản; khi nói đến nước Nhật không thể không nói đến các quán Bar; chơi
đàn Ghita hoặc chơi đàn Piano truyền thống, vốn là địa bàn giải trí chủ yếu của
các doanh nhân Nhật từ nhiều năm trở về trước. Trong các quán Bar, khán giả
được mời hoặc tình nguyện hát với nhạc đệm của Piano. Từ đó, karaoke bắt đầu
hình thành tại thành phố Kore của nước Nhật vào những năm 1970; Kore là một
thành phố cảng vùng Kansai, vốn đã là nơi mở cửa thương mại quốc tế vào đầu
năm 1868 thời kỳ Meiji như một cánh cửa cho Nhật Bản phát triển. Kore nổi
tiếng và vinh hạnh là thành phố đứng đầu về thời trang và sự sáng tạo về lĩnh
vực kinh doanh với nhiều sản phẩm mới lạ như: tắm hơi, siêu thị, thời trang,
karaoke...
Karaoke ra đời sau câu chuyện kể rằng ở một quán nọ tại thành phố Kore,
nhạc công vì một lý do nào đó không có mặt tại buổi diễn, ông chủ quan Bar
quyết định bật băng ghi nhạc cho mọi người hát và từ khởi nguồn đơn giản đó

karaoke đã ra đời và nhanh chóng trở thành phổ biến.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


23

“Hộp” karaoke đầu tiên xuất hiện vào những năm 1984 trên cánh đồng
lúa tại Miền quê Okayama phía Tây Kansai. Nó được làm từ những toa xe chở
hành khách đã được cải tiến lại. Từ đó các hộp karaoke được xây dựng trên
những vùng đất trống khắp nơi trên đất Nhật. Và trong khu thành thị, phòng hát
karaoke được chia làm nhiều ngăn (phòng) và được cách âm phát triển ngày
càng nhiều hơn.
Cũng có thông tin cho rằng, xuất xứ của karaoke từ một người tên là
Daisuke Inoue; năm 31 tuổi khi còn là người chơi đàn Keyboard trong một câu
lạc bộ, ông đã phát minh ra máy hát karaoke đã gây cơn sốt khắp thế giới. Động
cơ sáng chế ra chiếc máy này, theo Inoue là do ông lười vì cứ phải đệm đàn cho
khách hàng câu lạc bộ hát hết bài này sang bài khác, trong khi Inoue không biết
đọc nhạc (dù đã chơi trống từ năm 16 tuổi). Lẽ ra Daisuke Inoue đã thành tỉ phú
nếu ba thập niên trước ông kịp thời xin cấp bằng sáng chế cho phát minh
karaoke. Nay, con người đã tạo ra một công nghiệp mà chỉ trên đất Nhật thôi,
doanh thu đã lên tới 7,5 tỉ USD/năm, đang hy vọng đặt dấu ấn của mình cho cái
mà ông gọi là cuộc "cách mạng sạch". Nhà phát minh karaoke thành thật thú
nhận: "Chơi đàn cho khách hàng chẳng có gì khó. Nhưng căng nhất là tháng nào
phải học thuộc lòng nhiều bài mới trong khi tôi không đọc nhạc được". Ý tưởng
làm máy hát karaoke nảy ra năm 1971, khi một khách hàng mời Inoue đi theo
đàn cho ông ta hát trong một cuộc du ngoạn cuối tuần của công ty; Inoue không
thể bỏ việc tại câu lạc bộ. Vì nể khách, Inoue làm ra một đọan băng có nhạc nền
sẵn cho ông này. Cuối năm đó, ở tuổi 31, Inoue làm ra chiếc máy hát karaoke
đầu tiên mang tên Juke 8. Nhưng Inoue chỉ kiếm được tiền ba năm sau nhờ bán

các máy karaoke hát bằng băng video qua các thiết bị của những công ty
Daiichikosho, nay là công ty karaoke hàng đầu thế giới. Doanh thu của Inoue đã
giảm đi 12 năm, sau khi các máy hát bằng dĩa Laser xuất hiện, và cuối cùng
Inoue phải biến công ty từ sản xuất máy karaoke thành một công ty thương mại.
Inoue được trao giải Nobel năm 2004 với lời bình là ông "đã tạo ra một thiết bị
giúp con người biết chịu đựng lẫn nhau", hiện Ông đang sống cùng vợ, hai con
cùng 9 chú chó và 2 con mèo.
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


24

Nền công nghệ tiên tiến, hiện đại cùng với tốc độ đô thị hóa cao đã làm
cho môi trường bị ô nhiễm; không gian nghỉ ngơi ngoài trời bị hạn chế, chính vì
vậy sự phát triển các hoạt động giải trí trong nhà như các quán Bar, vũ trường,
phòng hát karaoke… là cần thiết. Sự vượt trội của Video âm nhạc như một hình
thái kinh doanh của ngành công nghiệp âm nhạc mang phong cách dân gian -
hiện đại là điều kiện tiên phong cho sự phát triển của karaoke.
Karaoke thật sự bùng phát khi công nghệ đĩa Laser và đĩa Compact cho
phép những bài hát thể hiện trên màn hình tivi, trong khi âm nhạc nổi lên và xác
định vị trí của từng bài hát. Vì quyền lợi của các công ty âm nhạc, việc thương
mại hóa kinh doanh karaoke là trung gian tuyệt vời cho sự quảng cáo các bài hát
âm nhạc Pop và các ngôi sao mới.
Karaoke trong tiến trình phát triển đã có sự tiến hóa nhất định. Từ những
ngày đầu ghi trên băng đĩa; karaoke được chuyển sang đĩa CD (Compact disc),
cuối cùng kết hợp với Video, đồ họa nhạc với lời bài hát hiện trên màn hình
nhắc cho những người không nhớ lời nhạc. Một ngành công nghiệp đã được mở
ra xung quanh karaoke và các sản phẩm kỹ thuật đã được chuyển dụng để nâng
cao trình diễn. Những dàn máy tại gia đình, các thư viện phần mềm được hoàn

thiện, các micro cho khách và những chiếc hộp có sẵn; chúng đang sẵn sàng
“vào cuộc hát karaoke”. Các phòng thu đã mở cửa cho khách khi có yêu cầu đến
để thu âm giọng hát của mình; đồng thời các cuộc thi hát karaoke được tổ chức
ở nhiều nơi. Karaoke ngày càng được biết đến không chỉ ở Nhật mà còn lan rộng
ở nhiều quốc gia khác như: Mỹ, Nga, Trung Quốc... tất cả các quốc gia đã tiếp
thu nó như một giá trị văn hóa và đưa vào hoạt động trong cuộc sống hàng ngày,
được xem là món ăn tinh thần của từng dân tộc. Việt Nam cũng đã sớm tiếp thu
giá trị văn hóa này, đến nay phát triển trên phạm vi toàn quốc.
Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa mở rộng giao
lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp
hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Chính vì thế, karaoke
được tiếp nhận, ứng dụng trong đời sống và được xem như món ăn tinh thần của
người Việt. Năm 1980 karaoke được du nhập vào Việt Nam; con đường du nhập
www.HanhChinhVN.com
Khóa luận tốt nghiệp.  Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở TP Biên Hòa


25

karaoke vào Việt Nam đang có nhiều tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu. Có
nhiều người cho rằng, những thương nhân người Nhật khi vào Việt Nam làm
việc, trong thời gian thư rỗi họ đã hát karaoke; sau đó người Việt chúng ta đã
học hỏi và karaoke được xuất hiện ở Việt Nam. Nhưng có một số ý kiến khác lại
cho rằng không phải karaoke được truyền từ người Nhật mà từ khách du lịch
trên thế giới, họ đến Việt Nam để tham quan, du lịch và chính họ đã tổ chức hoạt
động này nhằm để giải trí trong nhà, nhất là ban đêm. Còn nhiều ý kiến khác nữa
về karaoke, nhưng một điều mà chúng ta phải công nhận, đó chính là sự học hỏi
và tiếp thu văn hóa của nhân loại và ứng dụng vào cuộc sống; điều đó “khẳng
định karaoke là một sinh hoạt văn hóa hiện đại”.
1.2.3. Các văn bản pháp quy của Nhà nước về quản lý hoạt động kinh

doanh karaoke.
Song song với sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa có
chiều hướng “đi chệch”; tình hình quản lý các hoạt động văn hóa có biểu hiện
buông lỏng, thiếu kiên quyết. Hệ thống các văn bản pháp quy của nhà nước về
quản hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa nói chung, karaoke nói riêng ra đời
nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trên lĩnh vực hoạt động này như:
- Chỉ thị 814/TTg ngày 12/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc
tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ
một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng;
- Nghị định số: 87/CP ngày 12/12/1995 của Chính phủ về tăng cường
quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ
nạn xã hội nghiêm trọng;
- Nghị định số 88/CP ngày 14/12/1995 của Chính phủ quy định về xử
phạt hành chính trong các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa và phòng chống
tệ nạn xã hội;
- Quy chế lưu hành, kinh doanh phim, băng đĩa hình, băng đĩa nhạc, bán
cho thuê xuất bản phẩm; hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa nơi công cộng;

×