Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

GIÁO TRÌNH BỆNH TRUYỀN NHIỄM THÚ Y (PHẦN ĐẠI CƯƠNG) part 7 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.36 KB, 22 trang )


130


Cách ly kịp thời: Sau khi phát hiện có con vật bị bệnh hoặc con
nghi mắc bệnh phải cách ly ngay. Những con nghi mang mầm bệnh phải
nhốt riêng để tránh lây lan. Động vật đƣợc cách ly ở nơi chữa bệnh hoặc
nhà cách ly riêng.
Các cơ sở chăn nuôi động vật tập trung phải có hàng rào bao quanh
bảo đảm ngăn chặn đƣợc ngƣời và động vật xâm nhập, bảo đảm các điều
kiện vệ sinh thú y và phải có nhà cách ly. Nhà cách ly phải có cống rãnh
tiêu độc và xa chuồng nuôi động vật và nhà ở ít nhất 50 mét. Phải cử ngƣời
chăm sóc riêng động vật cách ly. Họ phải có quần áo riêng và những
phƣơng tiện bảo hộ cần thiết, có tinh thần trách nhiệm và ý thức vệ sinh
phòng bệnh cao. Khi cho động vật cách ly ăn uống hoặc quét dọn, tiêu độc
chuồng, phải giữ gìn cẩn thận tránh để bệnh lây từ động vật sang ngƣời.
Phải cấm ngƣời ra vào chuồng cách ly trừ những ngƣời chăm sóc và chữa
bệnh. Trƣớc cửa ra vào khu vực phải có hố vôi tiêu độc, trƣớc cửa ra vào
chuồng cần có xô (chậu) chứa dung dịch tiêu độc để ngƣời vào hoặc ra
khỏi khu cách ly mỗi khi cần phải nhúng ủng bảo hộ, có không gian đệm
để thay quần áo bảo hộ riêng cho từng khu vực: khu cách ly và khu bình
thƣờng. Ở không gian đệm này cần bố trí dung dịch khử trùng (cồn ethylic
70°, ) và đèn tử ngoại (nếu có điều kiện) để khử trùng tay, quần áo và bao
gói dụng cụ điều trị và lấy mẫu bệnh phẩm, bao bì thức ăn động vật, mỗi
khi cần đƣa vào hoặc ra khỏi khu vực cách ly. Những ngƣời có trách
nhiệm chăm sóc, lấy mẫu bệnh phẩm và điều trị bệnh cho động vật ở nhà
cách ly hay khu cách ly cần tránh đi lại nhiều không cần thiết giữa khu
cách ly với khu bình thƣờng. Nếu có nhu cầu đi lại giữa hai khu vực phải
áp dụng biện pháp tiêu độc (nhúng ủng vào dung dịch tiêu độc, thay quần
áo bảo hộ khi ở không gian đệm, phun dịch sát trùng hoặc chiếu tia cực tím
lên dụng cụ mang theo để lấy mẫu bệnh phẩm, tiêm thuốc, ) tránh đƣa


những vật có thể mang mầm bệnh từ khu vực cách ly ra khu vực an toàn.
Điều trị triệt để: Phải điều trị triệt để những con bệnh tiên lƣợng tốt
ở trong ổ dịch cho đến khi lành bệnh và không để chúng trở thành vật
mang trùng. Nếu thấy khả năng điều trị không khỏi (tiên lƣợng xấu) thì
phải xử lý ngay. Cách xử lý tùy theo loại bệnh: có thể giết chết đem chôn
hoặc đốt (giết hủy), hoặc giết thịt luộc rán làm thực phẩm hoặc chế biến
thành công nghệ phẩm và thức ăn gia súc (giết thịt tận dụng). Khi xử lý
cần phải chú ý tránh lây lan bệnh.

131


b. Đối với động vật nghi lây bệnh
Phải điều tra để phát hiện những con tiếp xúc với con bệnh do nuôi
chung, chăn dắt chung hoặc tiếp xúc với sinh vật môi giới và ngoại cảnh
chứa mầm bệnh. Trên nguyên tắc, mọi súc vật có thể nhiễm bệnh (súc vật
mẫn cảm) ở trong một ổ dịch đều phải đƣợc coi là con nghi đã bị lây, vì
chúng nếu không tiếp xúc với con bệnh thì cũng tiếp xúc với ngoại cảnh
chứa mầm bệnh. Những loại súc vật trên phải đƣợc cách ly với thời gian
nung bệnh dài nhất có thể vận dụng. Phải khám nghiệm lâm sàng, xét
nghiệm, tiêm phòng khẩn cấp hoặc điều trị dự phòng và tiến hành tiêu độc
thích hợp.
c. Xử lý tình huống dịch bệnh động vật
Khai báo dịch khẩn cấp: Mọi ngƣời, trƣớc hết là chủ vật nuôi, tổ
chức và cá nhân chăn nuôi động vật, ngƣời áp tải động vật trên đƣờng vận
chuyển, đều có nhiệm vụ và có quyền khai báo dịch bằng mọi phƣơng tiện
nhanh chóng nhất với nhân viên thú y, cơ quan thú y hoặc cơ quan chính
quyền gần nhất. Nhân viên thú y và cơ quan thú y khi đƣợc thông báo về
tình hình động vật phát bệnh, chết bệnh hoặc có dấu hiệu bệnh thì phải
nhanh chóng chẩn đoán xác định bệnh, nếu xác định bệnh truyền nhiễm

thuộc danh mục bệnh phải công bố dịch thì phải hƣớng dẫn chủ vật nuôi,
chủ sản phẩm động vật thực hiện các biện pháp xử lý dịch bệnh nhƣ không
bán, không giết mổ và không vứt động vật, xác và sản phẩm động vật ra
môi trƣờng mà phải cách ly động vật mắc bệnh, bố trí ngƣời chăm sóc
động vật, hạn chế lƣu thông động vật và sản phẩm động vật, chôn hoặc đốt
xác động vật và chất thải của động vật bệnh, vệ sinh khử trùng cơ sở (chăn
nuôi, giết mổ, phƣơng tiện vận chuyển, ). Nhân viên thú y, cơ quan thú y
tùy theo tính chất và mức độ bệnh dịch mà báo cáo Ủy ban nhân dân
(UBND) cùng cấp để thực hiện biện pháp phòng chống dịch bệnh đối với
khu vực đó, đồng thời báo cáo cơ quan thú y cấp trên trực tiếp. Khi đƣợc
tin ở địa phƣơng có dịch hoặc nghi có dịch thuộc danh mục bệnh phải công
bố dịch, UBND cấp xã phải báo cáo ngay cho UBND cấp huyện biết.
UBND cấp huyện phải cử ngay cán bộ thú y về tận nơi kiểm tra xác minh.
Kết quả kiểm tra phải báo cáo lại cho UBND huyện và Chi cục thú y (hoặc
Chi cục Quản lý chất lƣợng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, nếu bệnh
dịch xảy ra ở động vật dƣới nƣớc và lƣỡng cƣ) biết để kiểm tra xác nhận
dịch, nếu có dịch thì các cơ quan này quyết định các biện pháp cần thiết để
bao vây và dập tắt dịch, đồng thời phải báo cáo cho sở Nông nghiệp và
PTNT và UBND tỉnh hay thành phố trực thuộc trung ƣơng (cấp tỉnh) biết.

132


Khi gặp trƣờng hợp có dịch hoặc nghi là dịch nguy hiểm tuy chƣa
biết chính xác là bệnh gì, chính quyền địa phƣơng vẫn phải áp dụng ngay
những biện pháp đầu tiên nhƣ tạm thời cách ly con vật bệnh, cấm vận
chuyển, cấm bán chạy, cấm mổ thịt, tiêu độc để hạn chế lây lan.
Khi dịch bệnh của động vật trên cạn xảy ra mà Chi cục thú y chẩn
đoán là bệnh thuộc danh mục phải công bố dịch, hoặc nghi ngờ bệnh thuộc
danh mục phải công bố dịch thì Chi cục thú y báo cáo để UBND cấp tỉnh

thông báo khu vực hạn chế lưu thông động vật và sản phẩm động vật, đồng
thời báo ngay Cục thú y. Trong trƣờng hợp Chi cục thú y còn nghi ngờ
nguyên nhân gây bệnh thì gửi bệnh phẩm để Cục thú y tiến hành xác định
bệnh. Nghiêm cấm việc đƣa vào hoặc mang ra khỏi khu vực hạn chế lƣu
thông loài động vật dễ nhiễm và sản phẩm động vật mang mầm bệnh.
Công bố dịch: Khi có dịch bệnh nguy hiểm của động vật xảy ra ở
vùng biên giới giáp Việt nam thì Cục thú y phải báo cáo để UBND cấp
tỉnh vùng biên giới đó quyết định công bố vùng bị dịch uy hiếp và tại đó
phải thực hiện các biện pháp nhƣ: quy định cửa khẩu, số và loài động vật
đƣợc phép thông quan, cấm đƣa vào lãnh thổ Việt Nam những động vật
bệnh và dễ nhiễm bệnh (động vật mẫn cảm) và sản phẩm động vật mang
mầm bệnh đó, chỉ đạo thực hiện vệ sinh tiêu độc, khử trùng cho ngƣời và
các loại phƣơng tiện vận chuyển qua cửa khẩu, xác định vùng bị dịch uy
hiếp hay vùng đệm (để thành lập vành đai bảo vệ) trong phạm vi 5 km tính
từ biên giới và thực hiện các biện pháp nhƣ vùng bị dịch uy hiếp.
Khi có báo cáo bằng văn bản của UBND cấp huyện về tình hình
diễn biến dịch bệnh và văn bản kết luận của Chi cục hoặc Cục thú y (hoặc
tƣơng đƣơng đối với động vật dƣới nƣớc và lƣỡng cƣ) đã xác định dịch
bệnh truyền nhiễm nguy hiểm phải công bố dịch, UBND cấp tỉnh ra lệnh
công bố dịch. Lệnh công bố dịch phải ghi rõ tên bệnh và những vùng (địa
phƣơng) có dịch.
Tùy theo tính chất bệnh, tình hình địa lý, tình hình diễn biến ổ dịch
mà quyết định vùng có dịch và vùng nguy cơ dịch (vùng dịch uy hiếp),
không công bố tràn lan, chỉ khoanh vùng cần thiết để bao vây dập tắt dịch.
Có thể công bố dịch ở một trại chăn nuôi, một thôn, một xã hoặc nhiều xã,
một huyện hoặc nhiều huyện trong tỉnh.
Khi ra quyết định công bố dịch, chủ tịch UBND cấp tỉnh phải báo
cáo với Bộ trƣởng Nông nghiệp và PTNT, đồng thời báo cáo lên Chính
phủ. Khi có quyết định công bố dịch, chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi có dịch


133


có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các ngành các cấp phối hợp với các tổ
chức xã hội trong địa phƣơng và huy động nhân lực, vật lực theo pháp luật
để thực hiện các biện pháp chống dịch. Việc xác định giới hạn vùng có
dịch và lập vành đai bảo vệ quanh vùng có dịch cũng do UBND cấp tỉnh
quyết định và thông báo cho cấp dƣới và các cơ quan hữu quan.
Tùy tính chất và quy mô của dịch mà thành lập Ban chỉ đạo chống
dịch cấp xã, huyện và tỉnh, đồng thời thành lập Ban chống dịch các cấp với
thành phần gồm lãnh đạo chính quyền (phó chủ tịch tỉnh, huyện phụ trách
nông nghiệp), lãnh đạo ngành nông nghiệp (giám đốc hoặc phó giám đốc
Sở, trƣởng hoặc phó phòng phụ trách nông nghiệp huyện), đại diện ngành
thú y (chi cục trƣởng, trạm trƣởng, nhân viên thú y xã), đại diện công an
(ủy viên), đại diện quản lý thị trƣờng (ủy viên), có thể có thêm chủ cơ sở
chăn nuôi tập trung, chủ nhiệm hợp tác xã, đại diện ngành y tế và đại diện
thông tin tuyên truyền (các ủy viên). Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
đƣợc phân công, Chi cục thú y chỉ đạo lực lƣợng thú y địa phƣơng tham
gia chống dịch, chịu trách nhiệm về chuyên môn kỹ thuật thú y trong công
tác chống dịch, đồng thời phải báo cáo diễn biến dịch và kết quả chống
dịch 10 ngày một lần cho UBND cấp tỉnh và Cục thú y cho đến khi hết
dịch.
Bộ trƣởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thủy sản công bố dịch,
chỉ đạo và tổ chức chống dịch trong trƣờng hợp dịch bệnh động vật thuộc
danh mục phải công bố dịch xảy ra ở hai tỉnh trở lên. Thủ tƣớng Chính phủ
công bố dịch, chỉ đạo và tổ chức chống dịch khi có dịch bệnh nguy hiểm
của động vật có khả năng lây sang ngƣời theo đề nghị của Bộ trƣởng Bộ
Nông nghiệp và PTNT hoặc Bộ Thủy sản.
Pháp lệnh Thú y quy định phòng chống dịch bệnh là trách nhiệm
của mọi cấp, mọi ngành và toàn dân. Ở vùng có dịch trong quyết định công

bố dịch phải đặt trạm gác có lực lƣợng công an và thú y hƣớng dẫn, kiểm
tra, giám sát việc vận chuyển động vật; cơ quan nhà nƣớc về quản lý thú y
phải đặt biển báo nơi có dịch; trong khu vực có dịch phải hạn chế việc lƣu
thông động vật và sản phẩm động vật, vệ sinh tiêu độc khử trùng chuồng
nuôi, vật dùng cho chăn nuôi, chất thải động vật bệnh và môi trƣờng bị ô
nhiễm. Đồng thời cơ quan thú y tiến hành kiểm tra phân loại động vật dễ
nhiễm với bệnh đã công bố để thực hiện việc cách ly động vật và áp dụng
các biện pháp vệ sinh thú y khác. Trong vùng dịch tất cả các động vật mắc
bệnh, cảm nhiễm mầm bệnh và nghi nhiễm phải nuôi riêng trong suốt thời
gian chữa bệnh, không đƣợc thả trên bãi chăn chung, đồng thời bố trí

134


ngƣời chăm sóc và dụng cụ nuôi riêng cho động vật bệnh, chôn hoặc đốt
xác, xử lý súc vật chết, tiêu độc chuồng trại, tiêu hủy thức ăn thừa của
động vật bệnh hoặc chết, không đƣa (và cấm đƣa) gia súc, gia cầm dễ
nhiễm bệnh ra và vào hoặc đi qua ổ dịch, đình chỉ vận chuyển mua bán,
cấm mổ thịt (trừ trƣờng hợp có thể giết thịt tận dụng theo quy định dƣới sự
hƣớng dẫn của ngành thú y), canh gác cổng ra vào ổ dịch, cấm ngƣời
không phận sự ra vào ổ dịch, vùng có dịch. Phải chữa bệnh và tiêm chống
dịch ở ổ dịch và tiêm phòng dịch ở vùng nguy cơ dịch. Dụng cụ vật liệu
dùng cho động vật bệnh phải qua xử lý tiêu độc cho đến khi hết dịch.
Trong trƣờng hợp bắt buộc phải vận chuyển động vật dễ nhiễm, thức ăn,
chất thải qua vùng có dịch phải đi theo tuyến đƣờng quy định và không
đƣợc dừng lại.
Trong vùng dịch uy hiếp trong phạm vi 30 km tùy theo từng bệnh
tính từ chu vi vùng có dịch phải thực hiện hạn chế việc lƣu thông, vận
chuyển, mua bán, trao đổi động vật và sản phẩm động vật dễ nhiễm với
dịch bệnh đã công bố. Tại vùng này cơ quan thú y phải tăng cƣờng kiểm

soát việc vận chuyển động vật, sản phẩm động vật và kiểm tra phát hiện
kịp thời động vật mắc bệnh. Khẩn cấp tổ chức tiêm phòng bắt buộc hoặc
áp dụng các phƣơng pháp phòng bắt buộc khác cho động vật mẫn cảm với
bệnh dịch đã công bố. Nhiều trƣờng hợp phải giết mổ bắt buộc ở một nơi
quy định xa chuồng trại chăn nuôi để hạn chế sự lây lan dịch bệnh theo
quyết định của UBND cấp tỉnh do Chi cục thú y đề nghị. Khi đó sản phẩm
giết mổ không đƣợc sử dụng dƣới dạng tƣơi sống mà phải dƣới dạng chế
biến chín hoặc qua xử lý nhiệt để thu sản phẩm tận dụng làm thức ăn gia
súc, đồng thời phải xử lý tiêu độc, đốt và chôn phân rác, chất bài xuất, sản
phẩm động vật không sử dụng đƣợc và tiêu độc cơ sở giết mổ cũng nhƣ
phƣơng tiện vận chuyển động vật giết mổ bắt buộc tránh mầm bệnh lây
lan. Phƣơng tiện vận chuyển phải có sàn kín tránh làm rơi vãi các chất thải
dọc đƣờng đi.
UBND cấp tỉnh công bố hết dịch theo đề nghị của Chi cục thú y
(hoặc tƣơng đƣơng đối với thủy sản) sau khi Chi cục đã kiểm tra điều kiện
công bố hết dịch, báo cáo Cục thú y (hoặc tƣơng đƣơng đối với thủy sản)
và Sở Nông nghiệp và PTNT (hoặc Sở Thủy sản) và đã đƣợc Cục Thú y
(hoặc tƣơng đƣơng đối với thủy sản) đồng ý. Chỉ đƣợc công bố hết dịch
động vật trên cạn khi có đủ ba điều kiện sau: 1) sau con chết, giết mổ bắt
buộc hoặc con lành bệnh cuối cùng từ 15 đến 30 ngày (dài ngắn tùy loại
bệnh, theo quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT) mà không thấy con
nào bị mắc bệnh và chết với dịch đã công bố nữa, 2) toàn bộ đàn gia súc

135


mẫn cảm ở trong ổ dịch và vành đai bảo vệ đã đƣợc tiêm phòng hoặc áp
dụng các biện pháp phòng khác và đủ thời gian miễn dịch đối với bệnh đó
và 3) đã tổng vệ sinh tiêu độc toàn bộ ổ dịch đảm bảo yêu cầu vệ sinh thú
y.

Đối với dịch trong phạm vi từ hai tỉnh trở lên, Cục Thú y (hoặc
tƣơng đƣơng đối với thủy sản) sau khi kiểm tra đủ điều kiện công bố hết
dịch thì đề nghị Bộ trƣởng Bộ Nông nghiệp và PTNT (hoặc Bộ Thủy sản)
công bố hết dịch, hoặc đối với dịch bệnh nguy hiểm của động vật có khả
năng lây sang ngƣời thì báo cáo Bộ Nông nghiệp và PTNT (hoặc Bộ Thủy
sản) để Bộ đề nghị Thủ tƣớng Chính phủ công bố hết dịch.
3. Đối sách với đường truyền lây
3.1. Khi chƣa có dịch
Mầm bệnh lây từ con vật bệnh hoặc mang trùng sang con khỏe
bằng nhiều đƣờng thông qua các tác nhân trung gian truyền bệnh hình
thành các con đƣờng truyền lây khác nhau. Các nhân tố trung gian truyền
bệnh có vai trò quyết định trong việc làm bệnh lây lan. Chúng có thể làm
cho dịch lẻ tẻ biến thành dịch lƣu hành. Các biện pháp đối với nhân tố
trung gian là giống nhau khi chưa có dịch cũng như khi có dịch và đều
nhằm làm cho chúng không mang mầm bệnh hoặc làm cho mầm bệnh bị
tiêu diệt bằng cách tiêu độc thƣờng xuyên. Đối với những nhân tố trung
gian truyền bệnh là sinh vật nhƣ động vật chân đốt và chuột cần thực hiện
các biện pháp tiêu diệt chúng hoặc ngăn cản chúng tiếp xúc với gia súc, gia
cầm.
Đối với những bệnh lây qua đƣờng tiêu hóa, cần chú ý đến vệ sinh
thức ăn, nƣớc uống, cấm chăn thả ở các vùng nhiễm mầm bệnh (nhƣ nhiễm
nha bào nhiệt thán), ở các bãi chăn hoặc nguồn nƣớc bị nhiễm các chất bài
tiết, bài xuất của động vật bệnh, các chất thải của các xí nghiệp chế biến
thú sản, lò giết mổ động vật. Phải giải quyết tốt nguồn nƣớc uống và nguồn
nƣớc tắm rửa. Phải bảo quản tốt các loại thức ăn, thực hiện tốt tiêu độc,
tiêu diệt côn trùng, ve bét và chuột, xử lý tốt phân, rác và nƣớc tiểu của
động vật bệnh, bảo đảm vệ sinh chuồng trại.
Đối với những bệnh lây qua đƣờng hô hấp, nhân tố trung gian
truyền bệnh duy nhất là không khí, nhƣng việc cắt đƣờng truyền lây này là
việc rất khó khăn. Cần giữ chuồng trại sạch sẽ, thoáng mát, tránh nhốt gia

súc, gia cầm chật chội. Cần thƣờng xuyên tiêu độc chuồng trại. Thỉnh

136


thoảng cần chăn thả gia súc ngoài trời. Tránh để phân, ổ lót bẩn lƣu cửu
trong chuồng. Tránh làm bụi bay nhiều khi quét dọn chuồng.
Đối với những bệnh lây qua đƣờng máu, nhân tố trung gian truyền
bệnh duy nhất là sinh vật môi giới hút máu, cần phải tiêu diệt hoặc ngăn
cản chúng tiếp xúc với gia súc, gia cầm.
Đối với những bệnh lây qua da và niêm mạc, vì có nhiều loại nhân
tố trung gian, nên cần có nhiều biện pháp nhƣ tránh cho động vật khỏe tiếp
xúc trực tiếp với động vật bệnh và các nhân tố trung gian, cần giữ gìn vệ
sinh thân thể, vệ sinh vết thƣơng, thƣờng xuyên tiêu độc ngoại cảnh,
chuồng trại và dụng cụ chăm sóc nuôi dƣỡng động vật,
Tóm lại, biện pháp cắt đứt đƣờng truyền bệnh là xóa bỏ các nhân tố
trung gian. Cho nên cần có nhiều biện pháp nhƣ tránh cho động vật khỏe
tiếp xúc trực tiếp với động vật bệnh, vệ sinh thức ăn nƣớc uống, vệ sinh
chuồng trại, vệ sinh thân thể, thực hiện tiêu độc, tiêu diệt côn trùng, ve bét
và chuột.
2.2. Khi có dịch xảy ra
Biện pháp đối với nhân tố trung gian cần phải thực hiện các biện
pháp bổ sung, tiến hành khẩn trƣơng và huy động mọi nguồn lực có thể
đƣợc trong xã hội vào công tác ngăn chặn dịch lây lan rộng. Các biện pháp
quan trọng đối với nhân tố trung gian truyền bệnh là tiêu độc, tiêu diệt
động vật chân đốt và các biện pháp ngăn cản các nhân tố đó lan rộng.
Gia súc, gia cầm dễ nhiễm với bệnh đã công bố dịch thì nhất thiết
không đƣợc thu mua, không đem bán, không đƣa vào đƣa ra ổ dịch hoặc đi
qua ổ dịch. Xe cộ, ngƣời, gia súc khi cần thiết phải đi xuyên qua ổ dịch thì
phải tiêu độc. Các loại động vật không nhiễm bệnh khi đƣa ra ngoài phải

đƣợc tiêu độc. Chuồng trại phải đƣợc niêm yết, chỉ đƣợc mở cửa khi cho
ăn hoặc chữa bệnh. Cấm mổ thịt bên ngoài bừa bãi. Súc vật bệnh và súc
vật chết phải có biện pháp xử lý thích đáng. Trứng gia cầm trong khu vực
nguy cơ dịch vẫn có thể sử dụng vào mục đích thực phẩm nhƣng không
đƣợc bán ra ngoài ở dạng chƣa chế biến, trong những cơ sở chăn nuôi đó
có thể thu hoạch trứng, ngâm khử trùng khoảng 1 - 2 phút trong dung dịch
iốt (iodine) 0,1% rồi chế biến tại chỗ thành trứng muối. Ở các trại chăn
nuôi tập trung nên có nơi chế biến xác chết (trừ bệnh nhiệt thán, bệnh bò
điên và các bệnh nguy hiểm khác có nguy cơ lây sang ngƣời) thành mỡ
công nghiệp, bột xƣơng, bột thịt dùng cho công nghiệp hoặc làm phân bón.
Biện pháp này giúp làm giảm lƣợng chất phế thải phải chôn hoặc đốt một

137


khi có dịch do nông trại không bán đƣợc sản phẩm động vật nên thiếu tiền
đầu tƣ thức ăn để duy trì quy mô đàn. Nếu không có điều kiện chế biến thì
phải chôn sâu giữa hai lớp vôi, chôn xa nguồn nƣớc, bãi chăn, mạch nƣớc
ngầm, chuồng gia súc và nhà ở. Làm tƣơng tự đối với chất bài xuất từ động
vật bệnh và sản phẩm phụ giết mổ tận dụng. Trong trƣờng hợp bệnh nhiệt
thán không đƣợc mổ xác dù là với mục đích lấy bệnh phẩm nghiên cứu để
tránh sự hình thành nha bào khi vi khuẩn tiếp xúc với không khí, nhất thiết
phải đốt xác, nếu không có nhiên liệu để đốt thì phải chôn sâu 2 mét, trƣớc
khi chôn trên và dƣới xác cần đổ vôi chƣa tôi, mả súc vật phải rào lại, đổ
bê tông, cắm biển ghi tên bệnh. Khi chuyển xác chết đến nơi chôn cần
tránh làm rơi phân và các chất bài tiết của con vật. Dụng cụ vận chuyển,
ngƣời vận chuyển phải đƣợc tiêu độc sau khi chôn xác.
Chuồng trại phải quét vôi, nền chuồng cần chèm lửa hoặc rãi vôi
bột, phân rác phải thực hiện dọn tập trung và tiêu độc. Thức ăn thừa phải
đốt hoặc chôn, cống rãnh phải khơi thông và tiêu độc. Nguồn nƣớc rửa,

giếng nƣớc nhiễm bẩn phải tiêu độc. Tóm lại, phải tiêu độc toàn bộ trong ổ
dịch.
2.3. Một số biện pháp kỹ thuật cụ thể đối với yếu tố trung gian truyền bệnh
Dƣới đây trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm cắt đứt yếu tố
trung gian truyền bệnh: tiêu độc và chăn nuôi khép kín.
a. Tiêu độc (tẩy uế)
Tiêu độc nhằm mục đích tiêu diệt mầm bệnh trên các yếu tố trung
gian truyền bệnh (do bị nhiễm từ các chất bài tiết của súc vật bệnh, từ xác
súc vật chết bệnh, từ súc vật mang trùng) và tiêu diệt mầm bệnh ngay trên
thân thể súc vật (nhƣng không đƣợc áp dụng với vết thƣơng và nội quan
động vật). Tiêu độc chỉ có ý nghĩa thực sự khi cùng tiến hành các biện
pháp phòng chống bệnh tổng hợp, vì tiêu diệt mầm bệnh ở ngoại cảnh vẫn
không loại trừ đƣợc mầm bệnh (khi nguồn bệnh là vật mang trùng mà ta
không nhận biết đƣợc). Có tiêu độc khi chƣa có dịch, tiêu độc khi có dịch
và tiêu độc khi đã hết dịch. Đó là biện pháp cần thực hiện thƣờng xuyên
(khi chƣa có dịch) và khẩn trƣơng, triệt để (khi có dịch).
Đối tƣợng tiêu độc rất rộng rãi: chuồng trại, sân phơi, bãi chăn,
dụng cụ chăn nuôi và dụng cụ đã tiếp xúc với động vật, phƣơng tiện vận
chuyển động vật, nguyên liệu động vật (da, lông, ), các nơi chế biến và
lƣu trữ nguyên liệu động vật, thức ăn nƣớc uống, thân thể động vật, tay
chân và quần áo của ngƣời,

138


Có nhiều phƣơng pháp tiêu độc: tiêu diệt mầm bệnh bằng cách trực
tiếp tiêu diệt chúng (tiêu độc vật lý, hóa học) hoặc tạo ra những điều kiện
sống không thích hợp đối với chúng để chúng bị tiêu diệt (tiêu độc cơ
giới).
Tiêu độc cơ giới làm giảm số lƣợng mầm bệnh hoặc làm giảm

những chất thích hợp cho sự tồn tại của mầm bệnh cũng nhƣ các chất tác
động xấu đến chất lƣợng tiêu độc hóa học và vật lý, nhờ vậy làm tăng hiệu
lực tác dụng của các phƣơng pháp tiêu độc khác. Tiêu độc cơ giới bao gồm
việc thực hiện thu dọn phân rác, rơm rạ độn chuồng và thức ăn thừa để
đem ủ hoặc đốt hủy; cọ rửa hoặc cạo lớp ngoài của dụng cụ, nạo vét mặt
tƣờng, nền nhà, sân chơi, bãi chăn, cống rãnh,
Tiêu độc cơ giới cần phải thực hiện trƣớc và sau các biện pháp tiêu
độc khác.
Tiêu độc vật lý gồm nhiều phƣơng pháp nhƣ dùng ánh sáng mặt
trời, nhiệt độ cao (lửa, đun sôi, hơi nƣớc), dùng tia tử ngoại,
Dùng ánh sáng mặt trời chiếu thẳng tiêu diệt đƣợc nhiều loại mầm
bệnh. Có thể lợi dụng ánh sáng mặt trời bằng cách mở rộng cửa chuồng
trại, cho gia súc tắm nắng, phơi nắng thƣờng xuyên dụng cụ chăn nuôi, yên
cƣơng,
Dùng lửa để đốt thức ăn thừa, phân rác và các dụng cụ rẻ tiền. Có
thể dùng lửa đốt hoặc hơ nóng để tiêu độc bề mặt các dụng cụ bằng tre, gỗ
(cây khiêng xác chết, gióng, cuốc xẻng, ). Những dụng cụ bằng kim loại
có thể dùng ngọn lửa mạnh của đèn xì để tiêu độc.
Dùng nƣớc sôi là phƣơng pháp thông thƣờng, rẻ tiền, hiệu lực cao,
đƣợc dùng rộng rãi trong thực tiễn (đun sôi) đối với nhiều loại đối tƣợng
cần tiêu độc. Nƣớc đun sôi 60 - 80
o
C tiêu diệt đƣợc hầu hết các loại vi
khuẩn không có nha bào trong nửa giờ, đun sôi diệt đƣợc một số vi khuẩn
có nha bào sau 15 phút.
Nƣớc đun sôi cho thêm 1 - 2% xút (NaOH) dùng để tiêu độc dụng
cụ kim khí, đồ gỗ, đồ dùng bằng vải (nhƣ quần áo). Đun sôi 1 - 2 giờ có
thể tiêu diệt đƣợc tất cả các loại mầm bệnh. Trong phòng thí nghiệm ngƣời
ta còn dùng không khí đun nóng trong các lò hấp khô (tiêu độc dụng cụ
thủy tinh, kim khí, ), dùng hơi nƣớc dƣới áp lực trong lò hấp ƣớt (hấp cao

áp tiệt trùng: tiêu độc môi trƣờng nƣớc, đồ vải, cao su, ), dùng tia tử ngoại
của đèn tử ngoại, dùng phƣơng pháp hấp cách quãng (phƣơng pháp tiệt
trùng Pasteur),

139


Tiêu độc hóa học là phƣơng pháp đƣợc dùng rộng rãi nhất trong thú
y. Các chất hóa học dùng để tiêu độc có điểm chung là có tác dụng một
cách toàn bộ, không chọn lọc lên tế bào vi sinh vật hoặc virion của virut
nhƣ làm biến chất protein (nhƣ formol, phenol, ), làm kết tủa protein (nhƣ
muối của kim loại nặng, ethanol, ), tác dụng làm tan cấu trúc màng tế bào
chất (ethanol, ether, ) hoặc tác dụng lên các chất cần thiết cho đời sống vi
khuẩn, biến các chất này thành chất trung gian có tính độc đối với chúng.
Hiệu lực tác dụng của hóa chất phụ thuộc vào tác dụng đặc trƣng của chất
đó và vào sức đề kháng của từng loại mầm bệnh đối với chất đó. Hiệu lực
tác dụng của hóa chất tiêu độc còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhƣ
nồng độ, nhiệt độ của dung dịch đang dùng, nhiệt độ của đối tƣợng tiêu
độc, thời gian tác dụng của thuốc trên đối tƣợng đó, tính chất vật lý và hóa
học của đối tƣợng tiêu độc, mức độ ô nhiễm, cũng nhƣ bản chất của vi sinh
vật mầm bệnh. Vì vậy, khi dùng, phải chọn chất tiêu độc thích hợp và nắm
vững phƣơng pháp tiêu độc thì hiệu lực tiêu độc mới cao. Các chất hóa học
hoàn hảo để tiêu độc phải đảm bảo các tính chất sau: 1) có khả năng diệt
nhiều loại mầm bệnh, 2) ít độc đối với động vật và ngƣời, 3) không làm
hỏng dụng cụ, 4) dễ hòa tan trong nƣớc, 5) dễ sử dụng và 6) rẻ tiền. Tuy
nhiên, nhiều tình huống phải lựa chọn những hóa chất tiêu độc không đủ
các tiêu chuẩn nêu trên nên phải chú ý để phòng tránh những tác động bất
lợi do hóa chất tiêu độc mang lại.
Các chất hóa học dùng dƣới ba dạng: dạng dung dịch hay huyền
dịch, dạng bột và dạng khí. Dạng dung dịch là dạng dùng phổ biến để lau

chùi, rửa, ngâm, phun hoặc tắm. Những chất dùng dƣới dạng này thƣờng là
các muối kim loại nặng, các chất kiềm, các axit vô cơ hoặc hữu cơ, các
hợp chất chlor, Dạng khí dùng để xông chuồng, tủ ấp trứng, phòng thí
nghiệm vi sinh vật học. Những khí thƣờng dùng là khí formaldehyd, khí
chlor, khí lƣu huỳnh, Các chất lỏng hay dung dịch cũng có thể phun dƣới
áp lực cao tạo thành những giọt nhỏ lơ lửng trong không khí (khí dung
nhân tạo). Dạng bột (bột vôi, bột chlorur vôi, ) dùng để rắc nền chuồng,
lối đi, sân chơi, thƣờng kém tác dụng hơn hai dạng trên. Trƣớc khi tiêu
độc hóa học cần phải tiêu độc cơ giới để tăng khả năng sát trùng của hóa
chất tiêu độc. Dƣới đây giới thiệu một số chất tiêu độc thƣờng sử dụng.
- Xút ăn da (NaOH): là chất tiêu độc mạnh, thƣờng dùng tiêu độc
chống ô nhiễm virut. Xút có tác dụng thủy phân protein, carbohydrat, dầu
mỡ. Dung dịch 2 - 4% đun nóng dùng tiêu độc chuồng trại, dụng cụ. Dung
dịch 1% có thể dùng tắm gia súc mắc bệnh lở mồm long móng đã khỏi
bệnh và nhiều bệnh cảm nhiễm virut khác. Tác dụng diệt trùng mạnh hơn

140


khi cho thêm 5 - 10% NaCl (diệt đƣợc nha bào nhiệt thán). Khi dùng có
thể gây tích tụ nhiều ammoniac đầu độc động vật, nên khi tiêu độc xong
phải giữ chuồng cho thoáng.
- Vôi: là chất đƣợc dùng rộng rãi. Vôi sống hay vôi chƣa tôi là oxid
calci (CaO) và là sản phẩm nung thiêu đá vôi (CaCO
3
) mà thành. Vôi sống
hút nƣớc thải nhiều nhiệt nguy hiểm, tạo thành vôi tôi có bản chất hóa học
là Ca(OH)
2
. Chất này có tác dụng diệt trùng mạnh do làm thủy phân

protein tế bào vi khuẩn, diệt đƣợc trứng ruồi nhặng, nhƣng không diệt
đƣợc nha bào, Dùng dƣới dạng sữa vôi 10 - 20% để quét tƣờng, trần nhà,
nền chuồng, tiêu độc phân, nƣớc tiểu và các chất thải, Phải quét vôi ba
lần, mỗi lần cách nhau 3 giờ mới có tác dụng. Sữa vôi cho thêm NaOH 1%
hoặc formol 3%, hoặc dung dịch chlorur vôi 0,5 - 2% tăng cƣờng tác dụng
diệt trùng. Ngƣợc lại, sữa vôi để lâu, do tác dụng của CO
2
không khí biến
thành calci carbonat (CaCO
3
) mất tác dụng diệt trùng. Vôi có thể dùng
dƣới dạng bột nhƣng tác dụng chậm và kém hơn dạng sữa vôi.
- Nƣớc tro: Thành phần chủ yếu của nƣớc tro nóng là kali carbonat
(K
2
CO
3
). Trong nƣớc, K
2
CO
3
sẽ cho KOH: K
2
CO
3
+ H
2
O KOH + CO
2
.

KOH có tác dụng tiêu độc nhƣ các chất kiềm khác. Thƣờng dùng
nƣớc tro nóng 10% cho thêm 0,5% NaOH thì có tác dụng diệt trùng mạnh
hơn. Nên dùng tro mới, tro để quá 3 tháng mất tác dụng diệt trùng.
- Axit sulfuric (H
2
SO
4
): các chất axit là những chất tiêu độc mạnh
vì có khả năng cƣớp nƣớc của nguyên sinh chất tế bào, làm hòa tan và làm
biến tính protein, phân giải protein tế bào thành albumoz, pepton và axit
amin. Tuy nhiên, axit không đƣợc dùng phổ biến. Axit sulfuric có tác dụng
diệt trùng mạnh. Dùng dung dịch 2 - 3% tiêu độc đất, phân, nền chuồng, và
thƣờng dùng tiêu độc da nghi nhiễm nha bào nhiệt thán. Nhƣợc điểm của
chất này là ăn mòn kim loại mạnh (làm hỏng dụng cụ, chuồng trại, ). Có
thể dùng chung với axit phenic hoặc crezol.
- Axit phenic (phenol, C
6
H
5
OH): có tác dụng diệt trùng mạnh, vì có
khả năng hòa tan trong lipid nên dễ thấm sâu vào tế bào vi khuẩn. Chất này
có tác dụng hủy diệt mạnh vi khuẩn không có nha bào, ít có tác dụng đối
với virut. Dùng dung dịch 3 - 5% nhƣ chất tẩy uế nhƣng cũng có thể pha
loãng thêm khoảng 100 lần để rửa vết thƣơng (dùng nhƣ một chất khử
khuẩn). Tuy nhiên, do rất đắt tiền nên phenol không đƣợc dùng rộng rãi
trong tẩy uế. Cũng không dùng phenol để tiêu độc chuồng bò sữa, vì sữa
rất dễ hấp thụ mùi phenol. Có thể dùng giẻ thấm ƣớt dung dịch phenol lau

141



các dụng cụ bằng da để tiêu độc. Khi tiếp xúc với phenol cần chú ý đây là
chất ăn da mạnh nhƣng không gây cảm giác đau nên tổn thƣơng trầm trọng
có thể xảy ra mà không nhận biết đƣợc sớm. Ngoài ra do tan trong lipid
nên khi hít vào đƣờng hô hấp phenol dễ đƣợc cơ thể hấp thu nên có thể gây
ngộ độc trầm trọng. Phenol có thể dùng chung với chlorur thủy ngân II
hoặc axit sulfuric với mục đích tiêu độc.
- Chlor (Cl
2
): dùng dƣới dạng khí để tiêu độc chuồng có thể đóng
kín đƣợc (dùng 1,55 g trong 1 m
3
không khí). Có thể dùng chlor dƣới dạng
tan trong nƣớc (sục khí chlor vào nƣớc).
Cl
2
+ H
2
O HCl + HClO (axit hypochlorid)
HClO HCl + O
Trong nƣớc, HClO và HCl còn tác dụng lẫn nhau để thải khí ClO.
Khí ClO tác dụng với protein vi khuẩn và tàn phá tế bào vi khuẩn, tạo nên
proteinat.
Trong môi trƣờng ẩm ƣớt, khí chlor có tác dụng diệt trùng cao, vì
tạo thành axit hypochlorid và axit chlorhydric. Axit hypochlorid là chất
không bền, phân hủy nhanh thành axit chlorhydric và ôxy nguyên tử có tác
dụng ôxy hóa rất cao, làm phá các chất hữu cơ.
Chlor dùng để tiêu độc chuồng trại, dụng cụ, nƣớc bẩn. Khi dùng
chlor phải có các phƣơng tiện bảo hộ lao động. Tiêu độc xong phải thông
khí chuồng rồi mới cho động vật vào.

- Clorur vôi (hypochlorid calci, Ca(ClO)
2
): là một dạng muối chlor
đƣợc hình thành khi sục khí chlor vào nƣớc vôi. Thành phần thƣờng gồm
có hypochlorid calci (Ca(ClO)
2
), chlorur calci (CaCl
2
) và vôi tôi Ca(OH)
2
,
có tác dụng diệt nhiều loại vi khuẩn, cả vi khuẩn có nha bào. Dung dịch
5% tiêu diệt nha bào nhiệt thán sau 3 giờ. Dùng dung dịch 10 - 20% để tiêu
độc chuồng trại, đất, phân, phƣơng tiện vận chuyển động vật. Dạng bột
thƣờng dùng tiêu độc nƣớc tiểu, nƣớc phân và chất bẩn dạng lỏng khác. Có
thể dùng dung dịch chlorur vôi trong.
Chlorur vôi phải chứa trên 25% chlor hoạt tính. Cần phải bảo quản
tốt nhƣ đựng trong bình kín, để nơi tối, khô ráo, xa nơi ở của ngƣời và
chuồng động vật. Muốn dùng phải xác định lƣợng chlor hoạt tính chứa
trong chlorur vôi trƣớc khi dùng.

142


Tác dụng diệt trùng của chlorur vôi kém nếu đối tƣợng tiêu độc
chứa nhiều chất hữu cơ, vì vậy trƣớc khi dùng phải tiêu độc cơ giới, quét
dọn chuồng trại cho sạch.
Chloramin chứa từ 26 - 29% chlor hoạt tính, là chất kết tinh màu
trắng có mùi chlor nhẹ hòa tan tốt trong nƣớc nóng. Chất này khó mất
chlor hơn chlorur vôi, có tác dụng diệt trùng không kém bichlor thủy ngân

và axit phenic. Dung dịch nóng (50 - 60 °C) là chất sát trùng tốt. Dung
dịch 4 - 5% diệt đƣợc nha bào vi khuẩn. Tác dụng diệt trùng của chloramin
cao là do thải chlor và ôxy.
- Formol (HCHO): là dung dịch trong nƣớc của khí formaldehyd,
thƣờng có dạng thƣơng phẩm là dung dịch 37 - 41% trong nƣớc gọi là
formalin. Có tác dụng diệt trùng cao là do thấm sâu vào tế bào vi khuẩn,
tác dụng với protein nên làm biến đổi cấu trúc phân tử tế bào. Nồng độ cao
làm biến tính protein.
Formol có tác dụng diệt trùng mạnh: dung dịch 1% diệt nha bào
nhiệt thán sau 24 giờ. Dung dịch formol 2 - 5% dùng để rửa nền chuồng,
để phun hoặc ngâm dụng cụ. Formol còn dùng ở dạng khí (xông formol)
bằng cách đun nóng hoặc bổ sung từ từ vào formol một lƣợng vôi tôi hoặc
thuốc tím (permanganat kali) cho formol bốc hơi. Lƣợng dùng cho 1 m
3
không khí là 25 ml formalin. Dạng khí dùng để tiêu độc chuồng, tủ ấp
trứng, phòng thí nghiệm vi sinh vật.
- Bichlor thủy ngân (HgCl
2
): tác dụng diệt trùng cao do làm kết tủa
các dung dịch protein. Dung dịch không bền, dễ bị phân hủy khi tiếp xúc
với một số chất hữu cơ và vô cơ. Muốn tránh chất này bị phân hủy và làm
tăng khả năng thấm sâu vào đối tƣợng tiêu độc thì cho thêm HCl và NaCl.
Dung dịch bichlor thủy ngân 0,1 - 0,2% trong nƣớc dùng tiêu độc
tƣờng, nền gỗ, rửa tay, trong phòng thí nghiệm dùng ngâm các dụng cụ
nhiễm trùng, lau mặt bàn ghế. Tác dụng tiêu độc kém đối với các dụng cụ
bằng kim loại, các chất chứa kiềm và protein. Tuy nhiên, do thủy ngân là
chất độc có thể tích tụ trong môi trƣờng làm liều độc hình thành sau một
thời gian sử dụng liều nhỏ nên đây là hóa chất không nên áp dụng vào mục
đích tiêu độc nhà cửa, chuồng trại, phòng ốc,
- Iôt (I, iodine): Tác dụng sát trùng rất mạnh, phổ tác dụng rất rộng,

diệt đƣợc vi khuẩn kháng cồn, kháng toan, nha bào nhiệt thán, virut, nấm
men, mốc. Dung dịch 1 - 2% diệt nấm, ghẻ; dung dịch 2,5% diệt nha bào;
dung dịch 0,1% dùng tiêu độc vỏ trứng (ngâm trứng 30 - 60 giây).

143


- Cresol, cresyl và lyzol: là những hợp chất hữu cơ không ổn định
về thành phần, đƣợc dùng tẩy uế nhiều đối tƣợng khác nhau ở dạng dung
dịch 0,5 - 5%. Lyzol có tác dụng diệt xoắn khuẩn, tăng cƣờng hiệu lực khi
đun nóng. Dùng tiêu độc chuồng, dụng cụ chăm sóc gia súc, yên cƣơng
ngựa,
Cresol dùng trừ ruồi và nhiều loại động vật chân đốt khác. Cresol
có thể đun bốc hơi để thuốc thấm sâu vào đối tƣợng tiêu độc.
Ngoài ra, từ các hãng sản xuất thuốc thú y có thể có những hợp
chất tiêu độc khác nhau dƣới các tên nhƣ Farm Fluid S, Virkon S, Long
Life 250 S,
- Tiêu độc chuồng trại: Hiệu lực tiêu độc phụ thuộc vào cấu tạo
chuồng trại. Tƣờng, nền chuồng, sân chơi bằng phẳng thì hiệu lực tiêu độc
cao hơn là gồ ghề. Phải tiêu độc cơ giới trƣớc khi tiêu độc hóa học.
Các hóa chất thƣờng dùng là sữa vôi 10 - 20%, chlorur vôi 4 - 20%,
formol 2 - 5%, NaOH 4 - 5%, cresol 0,5 - 3%, cresyl 3 - 5%, axit phenic 2
- 5%.
Có thể dùng nƣớc sôi dội, hun trấu, rắc vôi bột, quét vôi, để tiêu
độc đối với một số lớn bệnh truyền nhiễm trong hoàn cảnh nông thôn nƣớc
ta.
- Tiêu độc các phƣơng tiện vận chuyển phân động vật (ôtô, toa tàu,
xe ba gác, xích lô, ): phân động vật khỏe mạnh phải thực hiện dọn làm
phân bón. Phân, nguyên liệu động vật bệnh hoặc nghi mắc các bệnh cảm
nhiễm vi khuẩn không có nha bào cần tiêu độc bằng phƣơng pháp nhiệt

sinh học. Bên trong và bên ngoài phƣơng tiện vận chuyển cần phun khí
dung hoặc dội dung dịch hóa chất tiêu độc. Sau 2 - 3 giờ dội bằng nƣớc
nóng. Phân và nguyên liệu của động vật bệnh hoặc nghi mắc các bệnh
truyền nhiễm do vi khuẩn có nha bào (bệnh nhiệt thán, ung khí thán, ) cần
phải đốt. Dùng chất tiêu độc mạnh tƣới vào các phƣơng tiện vận chuyển.
- Tiêu độc phân: có ba phƣơng pháp tiêu độc phân là đốt, dùng các
hóa chất và phƣơng pháp ủ nhiệt sinh học.
Phân nếu bị đốt thì chất lƣợng phân bón giảm, mặt khác đốt cháy
không hoàn toàn thƣờng sinh khí độc. Cho nên chỉ đốt khi phân bị nhiễm
các loài mầm bệnh có sức đề kháng cao (nhƣ nhiệt thán, ung khí thán, virut
thiếu máu truyền nhiễm ngựa). Các hóa chất cũng ít đƣợc dùng tiêu độc
phân vì bất tiện, tốn kém, thƣờng không đạt mục đích tiêu độc, lại gây trở

144


ngại khi dùng phân bón. Có thể dùng một số chất nhƣ chlorur vôi 20%,
nƣớc chlor, sữa vôi 20%, hỗn hợp axit sulfuric - axit phenic, formol (sau
khi trộn hóa chất cần phủ lên một lớp màng polyethylen để giữ khí tiêu
độc). Chất tiêu độc tác dụng lên lớp phân mỏng trên mặt, rồi ngấm dần vào
phân.
Phƣơng pháp ủ nhiệt sinh học là phƣơng pháp tiện lợi dùng để tiêu
độc phân động vật mắc bệnh truyền nhiễm do các vi khuẩn không có nha
bào gây nên. Phƣơng pháp này đƣợc dùng để tiêu độc dựa trên cơ sở là các
hợp chất hữu cơ trong phân, nƣớc tiểu, của khối phân ủ xảy ra quá trình
lên men bởi các vi sinh vật, làm nhiệt độ của đống phân tăng cao nên có
thể tiêu diệt đƣợc phần lớn vi khuẩn không có nha bào, virut, ấu trùng và
trứng giun sán.
Phân đƣợc đánh đống thành hình tháp, lƣợng phân chừng 1 tấn. Ở
dƣới đƣợc trải một lớp phân động vật khỏe hoặc rơm rạ dày độ 30 - 40 cm.

Nếu phân khô thì tƣới thêm nƣớc cho ẩm. Nếu ƣớt quá thì phơi cho bớt
nƣớc và để có nhiều không khí lọt vào hoặc cho thêm rơm rác khô trƣớc
khi ủ. Trộn thêm vôi bột và lá xanh (vôi bột 50 kg, lá xanh 200 kg cho mỗi
tấn phân). Bên ngoài phủ một lớp phân của động vật khỏe rồi trát kín bằng
bùn đất hoặc than bùn. Phân sẽ tăng dần nhiệt độ do các vi sinh vật phân
giải các hợp chất hữu cơ trong đó: ban đầu là do các vi sinh vật ƣa lạnh, rồi
các vi sinh vật ƣa ấm, và cuối cùng khi nhiệt độ trong đống phân đã cao
hơn 45 °C thì các vi khuẩn ƣa nóng chiếm ƣu thế, chúng phát triển và làm
cho nhiệt độ trong khối phân đến gần 75 - 80 °C. Ở nhiệt độ đó, các vi sinh
vật gây bệnh cho ngƣời và động vật, các nguyên trùng cũng nhƣ trứng và
ấu trùng giun sán đều bị tiêu diệt. Phân cần ủ nơi xa thôn xóm, trại chăn
nuôi, đƣờng sá và nguồn nƣớc. Sau 5 - 9 tuần mầm bệnh trong phân bị tiêu
diệt, phân hoai có thể dùng bón ruộng.
- Tiêu độc nƣớc: Thực hiện ở các xí nghiệp chế biến thú sản, hải
sản, xí nghiệp chế thuốc sinh vật, nhà máy thuốc lá, các nguồn nƣớc bị ô
nhiễm, Chất hóa học chủ yếu dùng tiêu độc nƣớc là các chế phẩm chứa
chlor. Trƣớc khi dùng chlor phải khử các chất hữu cơ chứa trong nƣớc nhƣ
phân, rác, niêm dịch, Những chất này ngăn cản tác dụng trực tiếp của
chlor đồng thời hấp thụ một lƣợng lớn chlor nên làm giảm hiệu lực tiêu
độc của chất này. Nƣớc uống hàng ngày có thể tiêu độc bằng khí chlor,
Aquatab, Virkon S,
- Tiêu độc đất: trong đất có quá trình tự tiêu độc vì có những vi
khuẩn đối kháng với vi khuẩn gây bệnh, hoặc có các chất kháng sinh thực

145


vật có khả năng diệt mầm bệnh mà ngƣời ta có thể lợi dụng đƣợc bằng
cách không chăn thả ở đó một thời gian. Để tiêu độc đất có thể dùng vôi
bột, sữa vôi 20%, xút 5%, chlorur vôi chứa 5% chlor hoạt tính.

- Tiêu độc chuồng gà vịt: Chuồng gà vịt bệnh phải tiêu độc thƣờng
xuyên 5 ngày một lần. Thƣờng dùng dung dịch nóng KOH 2 - 3%, nƣớc
chlorur vôi trong chứa 2% chlor hoạt tính, sữa vôi 2%, tro nóng. Dụng cụ
chăn nuôi hàng ngày ngâm từ 5 - 10 phút trong dung dịch KOH 1%.
- Tiêu độc lò ấp trứng: Hằng ngày sau khi quét dọn cần lau nền
bằng giẻ hay bàn chải thấm dung dịch nóng KOH 1%. Rửa lò bằng dung
dịch trên. Trƣớc mùa ấp trứng cần xông formol tiêu độc lò.
- Tiêu độc dụng cụ: Dụng cụ rẻ tiền (bằng tre, nứa, ), rơm rạ lót
chuồng, cỏ, thức ăn thừa phải đốt. Đồ dùng bằng kim khí phải hơ lửa. Các
dụng cụ bằng vải thì đun sôi 30 - 60 phút. Có thể dùng nƣớc sôi dội các đồ
dùng chứa thức ăn. Dung dịch xút 4%, sữa vôi 20% ngâm hoặc rửa dụng
cụ. Có thể dùng dung dịch nóng natri carbonat 3 - 5% trong nƣớc hoặc
dùng tro thảo mộc mới đốt hòa với nƣớc thành dung dịch 3% đun sôi, để
lắng rồi dùng.
Với các trang trại chăn nuôi tập trung nên áp dụng những trang
thiết bị cơ giới dùng để tiêu độc, vừa làm giảm nhẹ sức lao động của con
ngƣời tiêu độc, vừa làm tăng hiệu quả tiêu độc. Có nơi đã dùng phƣơng
pháp tiêu độc bằng khí dung. Dung dịch tiêu độc nhờ một loại thiết bị
riêng đƣợc phun dƣới áp suất cao thành hai dòng ngƣợc hƣớng tạo ra dòng
các hạt dịch rất nhỏ (5 - 20 μm) bắn vào không khí, rồi liên tục rơi vào đối
tƣợng tiêu độc.
- Tiêu diệt động vật chân đốt và chuột: Động vật chân đốt có thể
vừa là nguồn bệnh, vừa là nhân tố trung gian truyền bệnh. Trong nhiều
bệnh, côn trùng, ve bét và chuột là nhân tố truyền bệnh duy nhất. Vì vậy,
cần phải có biện pháp tiêu diệt chúng hoặc ngăn cản chúng tiếp xúc với
động vật bệnh cũng nhƣ động vật khỏe. Nguyên tắc chung trong công tác
tiêu diệt động vật chân đốt và chuột là dựa vào đặc điểm sinh lý của chúng
để tìm cách hạn chế sinh sản kết hợp với việc tiêu diệt chúng ở các giai
đoạn sinh trƣởng. Để hạn chế chúng sinh sản, cần giữ chuồng trại sạch sẽ,
che đậy kín thức ăn, phân rác, thoát các vũng nƣớc, phát quang các bụi rậm

ở nơi chăn dắt. Đối với từng loại côn trùng và ve bét cần có các biện pháp
tiêu diệt thích hợp. Có thể bắt chúng bằng tay, đập chết, đánh bẫy, đào bới
tìm diệt ấu trùng, dùng chim, gà, bắt động vật chân đốt trên mình gia súc,

146


Có thể dùng các yếu tố vật lý nhƣ dùng lửa đốt, dùng nƣớc nóng, hoặc tƣới
nƣớc nóng, hun khói chuồng trại.
Có thể dùng các hóa chất thích hợp dƣới dạng bột, dạng dung dịch
hoặc huyền dịch để bôi, phun hoặc tắm cho động vật.
Các hóa chất dùng tiêu diệt động vật chân đốt và chuột không đƣợc
gây hại cho ngƣời, gia súc và đồ dùng, không làm chúng sợ hãi hoặc quen
thuốc.
Tiêu diệt ruồi nhà với biện pháp chính là tiêu diệt chúng ở nơi sinh
đẻ. Cần thực hiện dọn phân rác trong chuồng, thức ăn thừa thãi, che đậy
kín thức ăn, hố phân rác. Có thể dựa vào các giai đoạn sinh sản có chu kỳ
của ruồi nhƣ giai đoạn đẻ ra trứng, giai đoạn trứng biến thái thành giòi,
giai đoạn giòi thành nhộng, giai đoạn nhộng thành ruồi trƣởng thành, để
tiêu diệt chúng ở những giai đoạn nhất định. Các hóa chất nhƣ chlorur vôi,
vôi bột, Solfac WP 10, có thể dùng diệt giòi. Có thể dùng bẫy hoặc đập
ruồi trƣởng thành.
Tiêu diệt muỗi cần dựa vào đặc điểm sinh sản mà diệt chúng ở giai
đoạn bọ gậy và giai đoạn muỗi trƣởng thành. Muỗi trƣởng thành có thể
diệt bằng phun hóa chất độc hoặc dùng vợt điện, bẫy điện. Muốn diệt bọ
gậy phải tát khô ao tù, cống rãnh, khơi thông nơi bùn lầy nƣớc đọng, các
hốc cây chứa nƣớc, để không có nơi cho muỗi sinh đẻ và bọ gậy không
thể sống đƣợc. Chú ý rằng các bãi thải rác công nghiệp (lốp xe, chai lọ, )
cũng là nơi thuận lợi cho việc sinh sản của muỗi. Đối với ao hồ cần thả cá
tiêu diệt bọ gậy. Có thể dùng dầu hỏa trải một lớp mỏng trên mặt ao hồ để

làm bọ gậy tắc thở. Cần lƣu ý rằng mặc dù bằng tay tuy không tiêu diệt hết
muỗi nhƣng, cũng nhƣ đối với các động vật gây hại khác, bằng cách này
có thể làm giảm mật độ của chúng nên cũng góp phần làm giảm tốc độ
sinh sản của chúng.
Tiêu diệt ruồi trâu cũng là việc làm cần thiết. Ruồi trâu có rất nhiều
loại (ở nƣớc ta có hơn 50 loài) nên việc tiêu diệt ruồi trâu rất khó; có thể
hạn chế ruồi trâu đốt gia súc bằng cách không chăn dắt ở những nơi ẩm
thấp, nơi có nhiều cây cối rậm rạp, dùng lƣới che chuồng. Có thể bôi
cresyl, dầu thầu dầu lên mình gia súc. Hạn chế ruồi sinh sản bằng cách tiêu
độc phân động vật, phát quang bụi rậm, khai thông nƣớc đọng, trải một lớp
dầu hỏa mỏng trên mặt nƣớc ao hồ.
Để tiêu diệt rận và ve phải thƣờng xuyên cọ chải cho gia súc. Đối
với ve cần phát quang bụi rậm, quan sát và làm sạch các hốc nhỏ ở chuồng

147


trại, nhà ở, Có thể bắt ve bằng tay hoặc, tốt hơn là, nhỏ dầu hỏa lên ve rồi
gắp ve ra khỏi da hoặc hốc tƣờng mà giết chết. Hóa chất dùng để diệt ve có
thể là HCN 3 - 6%. Mỗi tuần bôi 1 lần, liên tiếp 3 đến 4 tuần.
Tiêu diệt chuột có thể bằng nhiều phƣơng pháp. Phải kết hợp phòng
chuột và tiêu diệt chuột. Phƣơng pháp cơ học có thể là dùng bẫy, săn bắt,
đào hang hay hun khói bắt chuột. Phƣơng pháp hóa học rẻ tiền và có hiệu
quả hơn nhƣng cũng tiềm ẩn nguy cơ đối với sức khỏe ngƣời và động vật.
Có thể dùng phosphur kẽm, nhƣng nhƣợc điểm của thuốc này là có mùi
hắc, nguy hiểm cho ngƣời và gia súc. Ngoài ra, có thể dùng các hợp chất
arsen (thạch tín), hợp chất có sắt, muối bari, thuốc chống đông máu tƣơng
đối không độc với ngƣời và gia súc (nhƣ Racumin TP có thuốc giải độc là
vitamin K, thời gian nhiễm độc không lâu, nhƣng nhƣợc điểm là gây quen
thuốc). Dùng một số thuốc độc thảo mộc để đánh bả chuột cũng có hiệu

quả.
Có thể sử dụng một số bài thuốc diệt chuột (bả chuột) sau đây:
Zn
3
P
2
: 1 phần, cơm rang: 15 phần, hoặc thạch tín (tán nhỏ): 1 phần, cơm
rang: 20 phần. Các hóa chất có thể trộn với mồi có vị thơm hấp dẫn chuột
và phải luôn thay mồi mới. Nên đậy kỹ thức ăn mấy hôm cho chuột đói rồi
mới bẫy.
Phƣơng pháp sinh học là dùng kẻ thù tự nhiên của chuột để diệt
chúng (nhƣ mèo, rắn, chim, các loài động vật ăn thịt khác) hoặc dùng vi
sinh vật gây dịch cho chuột. Bảo vệ các loài rắn, cú mèo trong tự nhiên
cũng nhƣ nuôi mèo để phát tán vào các địa bàn nông thôn là biện pháp hữu
hiệu làm giảm số lƣợng chuột đáng kể, từ đó giảm tốc độ sinh sản của
chúng. Tuy nhiên, cũng cần lƣu ý các động vật diệt chuột cũng có thể là
tác nhân truyền lây mầm bệnh, vì vậy chúng cũng là đối tƣợng cần hạn chế
di chuyển và thậm chí là nguồn bệnh khi có dịch xảy ra.
Ngoài các phƣơng pháp trên, ngƣời ta có hƣớng dùng phƣơng pháp
di truyền, dùng hóa chất hoặc các tia phóng xạ để gây tuyệt giống chuột.
Phòng chuột bằng mọi cách cách ly, xua đuổi chúng đi xa không
cho xâm nhập vào nhà, kho tàng, chuồng trại gia súc, bằng cách phá vỡ các
điều kiện thuận lợi để chúng sống và sinh sản nhƣ cất kỹ thức ăn thừa,
phân rác, giữ nhà cửa phong quang, kho tàng kín đáo để chúng không có
phƣơng tiện làm tổ.

148


b. Chăn nuôi khép kín

Chăn nuôi khép kín là biện pháp phòng dịch quần thể bắt đầu từ
việc hạn chế nhập gia súc, do việc thu nhận gia súc từ ngoài vào là con
đƣờng chủ yếu đƣa vật mang trùng vào chuồng trại và vì việc phát hiện vật
mang trùng không dễ. Xét ở cấp độ quốc gia hay khu vực thì nhiều nƣớc
trên thế giới (New Zealand, Australia, Anh, Nhật Bản, ) nếu thực hiện
triệt để việc quản lý nhập khẩu động vật thì là những hệ thống khép kín
gồm động vật nuôi và động vật hoang bản địa và có thể thực hiện chăn
nuôi khép kín. Tƣơng tự, ở cấp độ nông trại lớn cũng có thể thực hiện chăn
nuôi khép kín. Chẳng hạn, trong chăn nuôi lợn trƣớc đây ngƣời ta tiến
hành nuôi giống và nuôi vỗ trong các trại riêng biệt, để nuôi thịt ngƣời ta
định kỳ nhập gia súc từ các trại khác về. Nhƣng hiện nay hình thức chăn
nuôi khép kín nuôi vỗ lợn con đƣợc sinh sản tại trại nhà (farrow-to-finish
operation) đƣợc áp dụng ngày càng tăng. Chăn nuôi gà thịt cũng đƣợc tiến
hành khép kín nghiêm ngặt, mỗi lô gà con nở ra đƣợc nuôi thành đàn cách
ly hoàn toàn với các đàn khác.
Điểm khó khăn mà chăn nuôi khép kín gặp phải là nuôi con giống,
thƣờng gặp phải nhất là vấn đề con giống nhập trại liệu có sạch bệnh hay
không. Trong chăn nuôi gà và chăn nuôi lợn, để chọn nuôi những con
giống có tính di truyền tốt ngƣời ta phải nuôi tiếp dòng. Các thế hệ giống
cụ kị (GGP), giống ông bà (GP) và con giống sản xuất (giống bố mẹ - PS)
đƣợc chăn nuôi chuyên biệt trong mỗi trang trại để cung cấp lợn giống
nuôi vỗ thịt. Cơ cấu chăn nuôi nhƣ vậy đƣợc gọi là cơ cấu hình tháp. Ƣớc
tính nếu cần nuôi 1,5 triệu lợn vỗ thịt mỗi năm thì cần phải nuôi 500 con
GGP, 6000 con GP và 90.000 con PS. Nếu đàn giống hạng trên cảm nhiễm
thì có nguy cơ toàn bộ đàn giống hạng dƣới bị lây nhiễm. Do đó đàn giống
hạng trên phải đƣợc phòng dịch nghiêm ngặt, và không bao giờ đƣợc cho
di động đàn từ hạng dƣới lên hạng trên, đồng thời mỗi hạng giống cũng
đƣợc nuôi khép kín nghiêm ngặt. Ngoài ra, còn cần phải ngăn chặn sự xâm
nhập của mầm bệnh từ bên ngoài vào. Con đƣờng xâm nhập mầm bệnh
phổ biến nhất cho động vật là ngƣời, cho nên cần phải có quy chế vào ra

chuồng trại. Thực hiện tiêu độc và thay trang phục là bắt buộc.
4. Đối sách với động vật thụ cảm
Các biện pháp phòng bệnh đối với gia súc, gia cầm thụ cảm nhằm
làm tăng sức đề kháng (không đặc hiệu và đặc hiệu) của chúng đối với
bệnh.

149


Các biện pháp đó đã đƣợc vạch ra trong Điều lệ phòng chống dịch
trƣớc đây, trong Pháp lệnh thú y sau này và các văn bản thi hành liên quan,
bao gồm những biện pháp áp dụng khi chƣa có dịch và khi có dịch.
4.1. Làm tăng miễn dịch quần thể
Đối sách cơ bản đối với ký chủ khi chưa có dịch là làm tăng sức
miễn dịch tập đoàn hay miễn dịch đàn. Để có đàn gia súc có sức đề kháng
cao cần thực hiện các biện pháp sau đây.
a. Vệ sinh phòng bệnh
Cá nhân và tổ chức chăn nuôi, chủ động vật nuôi, ngƣời vận
chuyển động vật phải thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh cho
động vật, nhằm bảo đảm sức khỏe động vật, tăng sức đề kháng không đặc
hiệu của gia súc, gia cầm. Vệ sinh phòng bệnh bao gồm: vệ sinh ăn uống,
vệ sinh chuồng trại, chăn thả, vệ sinh thân thể, vệ sinh sử dụng, khai thác,
vệ sinh sinh sản,
Vệ sinh phòng bệnh phải đƣợc xây dựng thành quy trình tiêu chuẩn
kỹ thuật mà ngƣời chăn nuôi bắt buộc phải tuân theo, và mặt khác phải
đƣợc gây thành phong trào quần chúng, thành tập quán trong nhân dân để
mọi ngƣời tự nguyện tự giác thực hiện. Phải kết hợp chặt chẽ với phong
trào vệ sinh phòng bệnh cho ngƣời. Phải dựa vào sự hoạt động của những
tổ chức quần chúng nhƣ "hội bảo hiểm nuôi lợn" hoặc "kết ƣớc phòng toi
gà", hoặc quy định pháp lý "đăng ký xây dựng cơ sở và vùng an toàn

dịch".
Vệ sinh phòng bệnh có tác dụng chủ động tấn công bệnh ở ngoại
cảnh và trên thân thể động vật, làm cho cơ thể khỏe mạnh, tăng sức chống
đỡ bệnh, ngăn chặn mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể. Đối với các bệnh
không truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng, phải lấy vệ sinh phòng bệnh
làm biện pháp chính, nếu không phải là duy nhất, còn đối với bệnh truyền
nhiễm và một số bệnh ký sinh trùng thì phải kết hợp vệ sinh phòng bệnh
với tiêm phòng. Nhờ xây dựng và thực hiện tốt nội quy vệ sinh phòng bệnh
mới hạn chế đƣợc nhiều dịch bệnh.
b. Cải tiến kỹ thuật chăn nuôi
Thực hiện vệ sinh thức ăn, nƣớc uống, chuồng trại, là một khâu
trong cải tiến kỹ thuật chăn nuôi. Phối hợp khẩu phần thích đáng bảo đảm
đủ và cân bằng chất dinh dƣỡng, xây dựng chuồng trại hợp lý, cải tiến việc
quản lý chăm sóc, dùng công cụ cải tiến trong chăn nuôi, chọn lọc cải tạo

150


giống, cơ giới hóa chăn nuôi là những nội dung của cải tiến kỹ thuật chăn
nuôi, đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về các mặt sinh lý, sinh thái, dinh dƣỡng
học, di truyền học, vệ sinh thú y,
c. Tiêm phòng
Tiêm phòng là biện pháp phòng bệnh tích cực, vì làm cho cơ thể tự
sản sinh ra (tiêm vacxin) hoặc tiếp nhận đƣợc (tiêm kháng huyết thanh)
những chất tạo sức đề kháng đặc hiệu chống cảm nhiễm nên giúp cho cơ
thể chống đỡ có kết quả với bệnh trong thời gian nhất định.
Tiêm phòng có ý nghĩa rất to lớn đối với những bệnh mà mầm bệnh
tồn tại lâu dài trong thiên nhiên (bệnh nhiệt thán) hay trong cơ thể động vật
khỏe mạnh (bệnh đóng dấu lợn, tụ huyết trùng), lại càng cần thiết đối với
những bệnh có ổ dịch thiên nhiên, có nhiều vật mang trùng, có nhiều nhân

tố trung gian truyền bệnh hoặc những bệnh khó tiêu diệt nhân tố trung gian
truyền bệnh, cũng nhƣ đối với những bệnh lây qua đƣờng hô hấp.
Tiêm phòng phải thực hiện khi chƣa có dịch là chủ yếu, hoặc khi đã
bị dịch uy hiếp. Thuốc dùng tiêm phòng là vacxin hoặc kháng huyết thanh,
hoặc kết hợp cả hai.
Tiêm phòng bằng vacxin là phƣơng pháp đƣa kháng nguyên của
mầm bệnh vào cơ thể nhằm tạo miễn dịch chủ động cho động vật. Năm
1796, Jenner (1749 -1823) lấy vẩy đậu của bò cái chủng cho ngƣời thì gây
bệnh rất nhẹ cho ngƣời. Sau đó, lấy mụn đậu của ngƣời cho tiếp xúc với
ngƣời đã đƣợc chủng virut đậu bò thì ngƣời này không mắc bệnh đậu mùa
của ngƣời nữa. Từ đó, ở châu Âu ngƣời ta đã sử dụng rộng rãi phƣơng
pháp dùng virut đậu bò để phòng bệnh đậu mùa cho ngƣời (gọi là chủng
đậu - variollation; hoặc chủng vacxin - vaccination).
Hiện tƣợng ngƣời và động vật không mắc các bệnh sau khi mắc và
khỏi bệnh hoặc sau khi đƣợc tiêm chủng gọi là hiện tƣợng miễn dịch.
Nhiều công trình nghiên cứu của Pasteur sau này về các chế phẩm sinh học
phòng một số bệnh truyền nhiễm (tụ huyết trùng gà, đóng dấu lợn, nhiệt
thán, dại) đã giúp ông khẳng định có thể tạo miễn dịch nhân tạo cho ngƣời
và động vật để phòng bệnh truyền nhiễm và đã thúc đẩy những công trình
nghiên cứu trong lĩnh vực đó. Pasteur đã đề nghị gọi các chất dùng tiêm
chủng tạo miễn dịch là vacxin (tiếng Pháp là vaccine, do từ bò cái tiếng
Latin là vacca) và phƣơng pháp tiêm chủng gọi là tiêm chủng bằng vacxin
(vaccination) để nhớ công Jenner.

151


Từ Jenner đến Pasteur và các nhà bác học sau hai ông, những công
trình nghiên cứu nối tiếp về vacxin và huyết thanh phòng bệnh đã góp
phần to lớn làm giảm dần tai họa khủng khiếp của dịch bệnh ở ngƣời và

gia súc, thanh toán đƣợc bệnh đậu mùa và tiến đến thanh toán một số bệnh
dịch nguy hiểm khác (dịch tả trâu bò, dịch tả lợn, ). Yêu cầu về vacxin
phòng bệnh ngày càng tăng do nhiều loại đã đáp ứng yêu cầu của thực tế:
gây miễn dịch tốt, an toàn đối với cơ thể đƣợc tiêm. Tuy nhiên, trong nhiều
trƣờng hợp bệnh việc tìm kiếm một vacxin hữu hiệu còn là thách thức lớn
đối với nhân loại (vacxin tụ huyết trùng gia cầm, chẳng hạn).
Ở nƣớc ta hàng năm chế tạo và cung cấp một số lƣợng lớn các loại
vacxin và kháng huyết thanh. Nhiều loại có hiệu lực miễn dịch chắc chắn,
thời gian miễn dịch tƣơng đối dài. Có loại vacxin đã đƣợc cải tiến, có loại
mới đang đƣợc nghiên cứu chế tạo cho phù hợp với hoàn cảnh nƣớc ta. Đó
là điều kiện thuận lợi giúp chúng ta thực hiện "tiêm phòng rộng rãi" để tạo
miễn dịch tập đoàn hữu hiệu, góp phần vào kế hoạch khống chế và tiêu
diệt các bệnh truyền nhiễm.
Tiêm phòng bằng kháng huyết thanh: Kháng huyết thanh dùng để
chữa bệnh và phòng bệnh. Tiêm phòng bằng kháng huyết thanh là để tạo
miễn dịch thụ động cho động vật.
Kháng huyết thanh đƣợc chế từ các gia súc lớn (ngựa, bò) hoặc lợn,
bằng cách dùng vacxin vi sinh vật mầm bệnh gây tối miễn dịch cho chúng
(tiêm chủng một số lần liên tiếp cách nhau một vài tuần với liều tăng dần)
rồi lấy máu chắt huyết thanh. Kháng huyết thanh có thể là đơn giá khi chỉ
dùng một loại vi sinh vật mầm bệnh làm vacxin để gây tối miễn dịch, hoặc
có thể là đa giá khi dùng nhiều loại vi sinh vật hoặc nhiều typ của một loại
vi sinh vật làm vacxin.
Kháng huyết thanh có thể là huyết thanh kháng vi khuẩn hay kháng
virut (kháng huyết thanh dịch tả lợn, tụ huyết trùng lợn) và cũng có thể là
huyết thanh kháng độc tố (kháng độc tố uốn ván).
Sau khi tiêm kháng huyết thanh vài giờ thì cơ thể có miễn dịch. Vì
vậy, chỉ dùng khi cần phải phòng bệnh khẩn cấp (nhƣ tiêm cho động vật
trong ổ dịch nhƣng chƣa phát bệnh hoặc ở vùng có nguy cơ bị dịch uy
hiếp), hay tiêm phòng cho động vật cần xuất cảng ngay hoặc phải đƣa đi

triển lãm, hội chợ ngay.

×