Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Thể tài du ký trên tạp chí "Nam Phong" (1917-1934) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.04 KB, 8 trang )

Thể tài du ký trên tạp chí "Nam
Phong" (1917-1934)







I. TẠP CHÍ NAM PHONG (1917-1934) VÀ THỂ TÀI DU KÝ

Một cách khái quát, các nhà lí luận xác định: “DU KÝ- Một thể loại
văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân người đi
du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại
những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đi đến. Hình thức của du
ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn
là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh,
phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến [ ]. Dạng đặc biệt của du
ký phát huy cái chất ghi chép về miền xa lạ của nó là du ký về các xứ sở
tưởng tượng, có tính chất không tưởng hay viễn tưởng khoa học [ ].
Dạng du ký khác đậm đà phong vị phương Đông là ghi chép cảm tưởng,
nhận xét về những nơi danh lam thắng cảnh đất nước [ ]. Thể loại du ký
có vai trò quan trọng đối với văn học thế kỷ XVIII- XIX trong việc mở rộng
tầm nhìn và tưởng tượng của nhà văn. Sang thế kỷ XX, du ký mang nhiều
tính chất tư liệu khoa học do các nhà địa chất, nhà dân tộc học viết. Loại
du ký khoa học cũng rất thịnh hành”
(1)
Định nghĩa trên đây đã khái quát
được những đặc điểm cơ bản nhất của du ký - mà chúng tôi duy danh
là thể tài du ký. Tuy nhiên, thể tài du ký là một bộ phận văn học còn chưa
được chú ý đúng mức. Khi nói đến “thể tài du ký” cần được hiểu nhấn


mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật nơi người
viết, chứ không phải ở phía thể loại. Thu hút vào địa hạt du ký có các sáng
tác bằng thơ, phú, tụng và các bài văn xuôi theo phong cách ký, ký sự,
phóng sự, ghi chép, khảo cứu, hồi ức về các chuyến đi, các điểm du lịch,
các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, sinh thái, kiến trúc, mỹ thuật;
thậm chí có thể liên quan tới nhiều phương diện của xã hội học, văn hoá
học, khảo cổ học, dân tộc học và văn hoá- văn nghệ dân gian khác nữa…
Do đó đã xuất hiện thực tế có tác phẩm nằm ở trung tâm thể tài du ký và
nhiều trang viết khác lại nằm ở đường biên hoặc hỗn hợp, pha tạp với
những sắc độ đậm nhạt khác nhau, cả về đối tượng, phạm vi đề tài, nội
dung hiện thực lẫn phong cách thể loại.

Trong nền văn học trung đại Việt Nam đã có nhiều sáng tác thuộc thể
tài du ký như thơ ca đề vịnh phong cảnh Thăng Long, núi Bài Thơ, Yên
Tử, Hoa Lư, sông Hương núi Ngự, Gia Định, Hà Tiên Qua mười thế kỷ đã
xuất hiện nhiều tác gia, tác phẩm nổi bật nhưVịnh Vân Yên tự phú của
Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254-1334); Bài ký tháp Linh Tế núi Dục
Thuý của Trương Hán Siêu (?-1354);Nam trình liên thi tập của Ngô Thì Ức
(1709-1736); Phụng sứ Yên Đài tổng ca của Nguyễn Huy Oánh (1713-
1789); Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720-1791); Nhị Thanh động
phú, Tây Hồ phong cảnh phú của Ngô Thì Sĩ (1726-1780); Tụng Tây Hồ
phú, Ngự đạo hành cung nhật trình của Nguyễn Huy Lượng (1750-
1808); Bài ký chơi núi Phật Tích của Nguyễn Án (1770-1815); Tây hành
nhật ký của Phạm Phú Thứ (1821-1882); Ghi về vương quốc Khơ-me,
Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Ký (1837-1898); Như
Tây nhật trình, Chư quốc thạc hội của Trương Minh Ký (1855-
1900); Hương Sơn hành trình của Chu Mạnh Trinh (1862-1905), v.v

Bước sang thế kỷ XX, thể tài du ký có bước phát triển mạnh mẽ. Khi
thực hiện công trình Mục lục phân tích Tạp chí Nam phong, 1917-

1934, nhà thư mục Nguyễn Khắc Xuyên xác định du ký là một trong 14 bộ
môn và nêu nhận xét về thể tài du ký - còn được ông gọi là du hành - trên
Tạp chí Nam phong: “Nhiều khi chúng ta tự cảm thấy, sống trong đất
nước với giang sơn gấm vóc mà không được biết tới những cảnh gấm
vóc giang sơn. Thì đây, theo tờ Nam phong, chúng ta có thể một phần nào
làm lại cuộc hành trình qua tất cả những phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp đẽ
nhất của đất nước chúng ta từ Bắc chí Nam, từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến
đảo Phú Quốc, từ núi Tiên Du đến cảnh Hà Tiên và Ngũ Hành Sơn, từ Cổ
Loa, Hạ Long đến Huế thơ mộng Với thời gian, hẳn những tài liệu này
càng ngày càng trở nên quý hoá đối với chúng ta Trong mục Du ký này,
phải kể bài Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác,Lại tới Thần kinh của
Nguyễn Tiến Lãng; Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, và nhất là Pháp
du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh”
(2)


Chính thông qua các chuyến đi, các cuộc giao lưu mà mỗi người vừa
tăng thêm nhận thức và niềm tự hào dân tộc, vừa chiêm nghiệm và chứng
nghiệm được đầy đủ tình nghĩa đồng bào. Trong một chuyến tới thăm Hà
Nội, ông Nguyễn Tử Thức là chủ bút Nam trung nhựt báo ở Sài Gòn đã
phát biểu: “Thiệt chúng tôi không ngờ giang sơn nước Nam ta cẩm tú như
vầy. Là bởi xưa nay chưa đi khắp nên chưa biết, chưa biết bờ cõi nước ta
to rộng, nhân dân nước ta đông đảo là dường nào. Tới nay mới biết, càng
biết mà cái cảm tình đối với tổ quốc càng chan chứa biết bao! Khi tới
Tourane, khi tới Hải Phòng, quanh mình toàn những người bổn quốc,
cùng ăn bận như mình, cùng nói năng như mình, nhận ra mới biết người
với mình, mình với người, tuy ăn ở xa nhau mà cũng là người một nòi một
giống, chớ đâu”
(3)
.


Lại nói như bài Cảnh vật Hà Tiên, do Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiểm
sao lục, đã mở đầu bằng niềm tự hào: “Tỉnh Hà Tiên có nhiều cảnh đẹp,
có bãi dài biển rộng, hồ trong núi biếc, mỗi cảnh đều có vẻ đẹp thiên nhiên
của tạo hoá Cảnh bãi biển thì kiêm cả màu trời sắc nước, bãi cát mênh
mông, gió nam mát mẻ. Cảnh núi như Thạch Động có các kỳ quan quái
thạch, núi Bình San, núi Tô thì có cỏ đẹp hoa thơm ”. Niềm tự hào trước
vẻ đẹp quê hương xứ sở của tác giả cũng đồng điệu với tấm lòng người
chủ báo qua mấy dòng đề tựa đầy ý nghĩa: “Muốn cho con trẻ yêu mến
nước nhà thì phải cho con trẻ thông thuộc nước nhà, hiểu biết cả lịch sử,
địa lý, lễ giáo, phong tục; nhỏ từ cách sinh hoạt trong dân gian; lớn đến
các kỷ cương về đạo lý, ngõ hầu mới có lòng thiết tha đến nơi quê hương
tổ quốc của mình. Lại trước khi biết đến cái tổ quốc lớn là toàn thể quốc
gia, phải biết cái tổ quốc nhỏ là nơi địa phương mình sinh trưởng đã”

Rõ ràng là vượt qua những áp đặt tuyên truyền tư tưởng chính trị
“Pháp - Việt đề huề” và hạn chế lịch sử không tránh khỏi, song phải ghi
nhận các trang du ký trên Tạp chí Nam phong đã tiếp nối được tinh thần
yêu nước và niềm tự hào dân tộc từ cội nguồn văn học ông cha. Trong
một chừng mực nhất định, nhiều trí thức cựu học và tân học đã biết lợi
dụng diễn đàn công khai để khơi gợi và giáo dục tình cảm yêu nước, nhắc
nhớ lại truyền thống đấu tranh anh dũng ngàn năm thông qua việc du
ngoạn, thăm viếng, tưởng niệm các danh nhân đất nước (An Dương
Vương, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung )
và các di tích lịch sử (Cổ Loa, đền Lý Bát Đế, hồ Hoàn Kiếm, Hoa Lư, lăng
điện xứ Huế, danh thắng Banà, Ngũ Hành Sơn, Sài Gòn, Tây Đô, Phú
Quốc, Thạch Động, Hà Tiên)

Trên cơ sở giao thông từng bước phát triển mà nhu cầu hiểu biết,
giao lưu văn hoá ngày càng mở rộng từ Bắc vào Nam, từ nơi đồng bằng

đến miền núi, từ vùng sâu vùng xa tới thị thành, từ trong nước cho tới
nước ngoài. Không phải ngẫu nhiên mà cảm hứng được đi xa nhờ các
phương tiện ô tô, xe lửa, tàu thuỷ, tàu bay vốn gắn liền với kỹ nghệ thời
hiện đại đã đem lại cho người viết biết bao những cảm xúc mới lạ, hấp
dẫn. Nhu cầu ĐI (kể cả thời gian, cách thức và phương tiện) và XEM (xem
gì, khả năng chiều sâu nhận thức và hiểu biết, khám phá về xứ sở du lịch)
đã kích thích mạnh mẽ tâm thức sáng tạo của các nhà du hành Như
chúng tôi đã nhấn mạnh, thể tài du ký có thể thu nạp nhiều phong cách
thể loại, bao quát nhiều điểm nhìn chủ thể tác giả và nội dung hiện thực
khác nhau. Với các tác phẩm du ký trên Tạp chí Nam phong, xin phân loại
và dẫn giải thành mấy đặc điểm chính sau đây.

- Có một dòng du ký mang tính quan phương, sự vụ, công vụ. Kiểu
du ký này thường do các trí thức, ký giả quan lại ghi chép. Mặt khác, vì
Tạp chí Nam phong chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của chính quyền
đương thời nên buộc phải phát ngôn tiếng nói quan phương cũng là điều
dễ hiểu. Tuy vậy, các trang du ký này vẫn thể hiện được niềm tự hào dân
tộc và cảm xúc chân thành trước vẻ đẹp non sông đất nước. Hơn nữa, từ
quan điểm lịch sử mà đánh giá sẽ thấy nhiều trang du ký như Cùng các
phái viên Nam kỳ(Thượng Chi); Một tháng ở Nam kỳ, Mười ngày ở Huế,
Pháp du hành trình nhật ký (Phạm Quỳnh); Tổng thuật về việc phái bộ Bắc
kỳ đi quan sát đường xe lửa Vinh-Đông Hà, Lược thuật hành trình cuộc
ngự giá Bắc Tuần, Ngự giá Nam tuần hành trình ký (Song Cử),Lược ký đi
đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn (Mẫu Sơn Mục N.X.H) , lại thực sự có
giá trị sử liệu để xem xét nhiều sự kiện văn hoá - xã hội và định vị hoạt
động tổ chức hành chính của giai tầng công chức thượng lưu dưới thời
thực dân phong kiến.

- Có một dòng du ký viễn du - những chuyến du hành vượt biên giới,
đòi hỏi cả nguồn kinh phí, yêu cầu công việc và ý chí của người ham hoạt

động, ham xê dịch. Đặt trong bối cảnh văn hoá - xã hội đương thời thì các
du ký này quả đã mở ra những chân trời nhận thức mới, đưa lại niềm
phấn khích bởi những trang ghi chép, miêu tả sống động của người trong
cuộc, người trải nghiệm, chứng nghiệm. Đó là những du ký dài hơi, phong
phú, hấp dẫn như Hạn mạn du ký kể lại cuộc đi chơi phiếm qua Bangkok -
Hương Cảng - Nhật Bản - Thượng Hải - Nam Kinh - Quảng Tây - Quế Lâm -
Bắc Kinh - Tứ Xuyên - Quảng Đông và trở về nước, in 6 kỳ (Nguyễn Bá
Trác); Pháp du hành trình nhật ký kể về chuyến đi trong sáu tháng, từ khi
dời bến Sài Gòn ngày 15-3-1922, những ngày lênh đênh trên biển và ở lại
thăm thú nước Pháp văn minh hoa lệ, cho tới ngày 11-9 về tới cảng Hải
Phòng- in 27 kỳ; Du lịch xứ Lào, in 2 kỳ (Phạm Quỳnh); hoặc các bài khác
như Ai Lao hành trình (Trần Quang Huyến), Ngự giá Âu du tổng
thuật (N.P), Học sinh An Nam ở bên Pháp (Thôn Đảo), Trên đường Nam
Pháp (Tùng Hương)

- Có một dòng du ký thiên về khảo cứu danh nhân lịch sử, truyền
thuyết và sự tích liên quan tới một địa điểm cụ thể. Loại du ký này thường
là kết quả sau một chuyến picnich giới hạn trong thời gian ngắn, kiểu
như Ba Bể du ký (Nhạc Anh Hoàng Văn Trung), Du Ngọc Tân ký, Du Tử
Trầm Sơn ký, Bài ký chơi Cổ Loa, Cuộc đi chơi năm tầng núi, Cuộc đi chơi
Sài Sơn (Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục), Banà du ký (Huỳnh Bảo
Hoà), Thăm lăng Sĩ Vương, Nam du đến Ngũ Hành Sơn (Nguyễn Trọng
Thuật)

- Có một dòng du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu cả một vùng văn
hoá rộng lớn. Loại du ký này đòi hỏi người viết có thời gian du ngoạn theo
“tua” dài hơi và đòi hỏi vốn kiến văn sâu rộng, có sự chuẩn bị tư liệu công
phu và ghi chép thực địa kỹ lưỡng. Các du ký tiêu biểu kiểu này có Mười
ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng (Phạm
Quỳnh), Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang (Nguyễn Văn Bân), Hành trình

mạn ngược, từ Cao Bằng xuống Phú Thọ (Thái Phong Vũ Khắc
Tiệp), Cuộc xem cổ tích miền Đông bắc tỉnh Hải Dương (Nguyễn Đôn
Phục), Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh, Các lăng điện xứ Huế (Nguyễn Đức
Tính), Quảng Xương danh thắng, Tây Đô thắng tích, Ninh Bình phong vật
chí (Thiện Đình), Cảnh vật Hà Tiên (Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiểm)

- Có một dòng du ký mà yếu tố “vị nghệ thuật” chiếm phần quan
trọng, ở đó người viết chấm phá một vài nét phong cảnh thiên nhiên, cuộc
sống đời thường bình dị hay thoáng qua niềm vui văn hoá lễ hội, đình
đám. Đó là các bài Chảy chùa Hương (Thượng Chi),Cuộc đi quan phong
làng Thượng Cát (Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục), Một buổi đi xem đền Lý
Bát Đế (Phạm Văn Thư), Cuộc thưởng ca ở làng Hữu Thanh Oai (Nguyễn
Mạnh Hồng), Cuộc chơi trăng sông Nhuệ (Mai Khê), Thăm ông Phạm
Quỳnh (Nguyễn Văn Kiêm),Tết chơi biển (Trúc Phong), v.v

Trên thực tế việc phân chia các phương thức, kiểu loại, nội dung du
ký như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Song dù có khác nhau thế nào thì
các tác phẩm du ký vẫn hướng tâm ở phương thức ĐI và XEM, đặt cược
vào tính tích cực chủ thể là người trực tiếp Chứng Nghiệm - Trải
Nghiệm và vươn tới phẩm chất “vị nghệ thuật” chân - thiện - mỹ cao đẹp,
ít nhiều gián cách với thế tục lầm than. Xin lưu ý, trong phần Mục lục theo
bộ môn, đề mục XIV- Du ký, du hành, nhà thư mục học Nguyễn Khắc
Xuyên thống kê chi tiết danh sách 69 tác phẩm du ký đã in trên Tạp
chí Nam phong. Tuy nhiên, có một số tác phẩm đúng là thuộc thể tài du ký
song lại do tác giả người nước ngoài viết về phong cảnh nước ngoài (các
mục bài Ai Cập, Một mình giữa bể Đại Tây, Hoà Lan du ký, Thăm miếu ông
Khổng, Cảnh vật Nhật Bản, Du lịch về phía Nam nước Tàu), hoặc là bản
dịch tác phẩm từ thế kỷ XVIII (Thượng kinh ký sự của Lãn Ông Lê Hữu
Trác), do đó chúng không thuộc bộ phận du ký Việt Nam hiện đại.


×