Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

BĂNG HUYẾT SAU SINH ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.38 KB, 4 trang )

BĂNG HUYẾT SAU SINH

Sinh xong rồi mà huyết ra một lượng rất nhiều gọi là chứng Sản Hậu Huyết Băng.
Tương đương trong phạm vi chứng 'Băng Huyết Sau Khi Sinh’ của YHHĐ.
Nguyên Nhân
Nguyên nhân bệnh chứng này theo sách ' Nữ Khoa Kinh Luân’ trích từ câu của
Trần Lương Phủ rằng: “Sau lúc sinh, kinh mạch bị hao thương chưa được bình
phục mà làm việc nặng nhọc, gây nên tổn động cho nên huyết băng mạnh”.
Sách ‘Sản Dục Bửu Khố Tập’ lại cho rằng: “Vì sao sản hậu sinh chứng huyết
băng? - Đáp: Vì sản hậu huyết xuống quá nhiều, khí huyết quá hư, chưa bình phục
được, hoặc vì lao nhọc, hoặc vì kinh giận, khiến cho huyết bị bạo băng”.
Vì vậy, đàn bà sau khi sinh sản, tình trạng sinh lý chưa được bình phục như trước,
mà lao nhọc không đúng mức hoặc bị kích thích tinh thần có thể gây nên chứng
sản hậu huyết băng, đó là thuộc về hư chứùng. Thực chứng là bên trong có ứ
huyết, có thể gây nên băng huyết. Sách 'Y Tông Kim Giám’ viết: “ Nếu do bên
trong có ứ trệ, phần nhiều bụng dưới đau, nên dùng bài Phật Thủ Tán, Thất Tiếu
Tán.
Đúc kết lại có thể thấy nguyên nhân gây bệnh sản hậu băng huyết gồm ba thứ là:
Lao thương mạch Xung, Nhâm, giận dữ thương tổn Can khí, ở trong có ứ trệ.
Phép Trị
Về nguyên tắc trị bệnh: Nếu sản hậu âm huyết đã tổn thương lại bị chứng băng rồi
sinh ra huyết thoát khí hãm thành ra bệnh nặng. Phải nên bổ mạnh, dùng bài 'Độc
Sâm Thang’ để cứu chữa tức là phương pháp huyết thoát thì ích khí. Nếu chỉ dùng
thuốc bổ huyết không có kết quả. Nếu 6 mạch quá Vi, tay chân lạnh băng nên
dùng vị Sâm và Phụ tử, lượng lớn để hồi dương. Nếu vì tức giận quá thương tổn
Can khí khiến cho huyết vọng hành, dùng bài ‘Tiêu Dao Tán’ thêm Hắc sơn chi,
Sinh địa, Bạch mao căn để thanh Can. Nếu vì ứ trệ mà sinh thực chứng, đau bụng
dưới, nên dùng ‘Thất Tiếu Tán’ là thuốc khử ứ, hành huyết.
Triệu Chứng
+ Hư Hàn: Lượng huyết rất nhiều, sắc mặt trắng, nặng lắm thì thở khò khè, ra mồ
hôi, tay chân lạnh băng, gần như chứng co cứng, mạch Trầm Vi muốn tuyệt hoặc


Phù Đại hư thoát, nên dùng 'Độc Sâm Thang’ hoặc 'Sâm Phụ Thang’ thêm bội
Nhân sâm. Nếu thiên về huyết hư chứng hiện ra huyết băng, sắc nhạt, choáng
váng, hồi hộp da khô, mạch Tế. Nên dùng bài ‘Khung Quy Giao Ngải Thang’ làm
chủ. Nếu khí huyết đều hư nên dùng bài ‘Thập Toàn Đại Bổ Thang’.
+ Huyết Ứ: Huyết băng mà có hòn cục, bụng dưới trướng lên, ấn vào thấy cứng,
mạch Huyền mà Sắc. Cho uống bài ‘Thất Tiếu Tán’, 'Sinh Hóa Thang".
+ Khí Uất: Sản hậu huyết băng, nóng nảy, bứt rứt hay giận hoặc tinh thần uất ức,
váng đầu, đầu căng, bụng đầy tức, ợ hơi, thở dài, ăn ít, bụng trướng đau, đại tiện
không đều hoặc tiêu lỏng không thông, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch Huyền Tế, nên
trị với thang "Tiêu Dao Tán gia vị
Y Án Trị Băng Huyết Sau Khi Sinh
(Trích trong (Nữ Khoa Y Án Tuyển Tuý).
Bà họ Kim sau khi sinh một tháng, huyết cứ lai rai ra mãi, lạnh tay lạnh chân, tự ra
mồ hôi không ngớt, cho uống dưỡng huyết, bổ âm vẫn không có kết quả. Chẩn
mạch thấy 2 mạch xích không đại, không có thần. Theo sách ‘Chử Thị Di Thư’ thì
Huyết dù thuộc âm, huyết vận được thì dương sẽ hòa, nay huyết nghịch tự ra mồ
hôi, mạch Đại vô căn là vì chân dương Tỳ Thận ở trong suy kém, nên huyết không
nơi nương tựa mà thoát ra, thế là dương hư thì âm phải đi. Cần dùng phép đại bổ
chân dương để nhiếp hư âm. Nếu bổ huyết dưỡng âm sợ huyết chưa kịp sinh mà
lại thương tổn đến dương khí thì âm khí không giữ được. Liền cho uống Nhân sâm
90g, Bạch truật 30g, Phụ tử 9g, Phục linh, Chích thảo đều 3g. Uống 1 thang đã
khác, 2 thang thì bớt, thêm vài thang nữa thì tinh thần khác thường”.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×