Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.37 KB, 34 trang )


TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

[\[\




GIẢI PHẨU BỆNH


VAI TRÒ VÀ NHU CẦU CỦA
VITAMIN, MUỐI KHOÁNG VÀ NƯỚC
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


1

BÀI 2. CƠ SỞ SINH THÁI HỌC CỦA SỨC KHOẺ VÀ BỆNH TẬT

MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Mô tả được mối quan hệ giữa các hoạt động của con người và mất cân bằng sinh
thái
2. Trình bày được những tác động của thay đổi hệ sinh thái lên sức khoẻ con người
3. Giải thích được mối quan hệ giữa sức khoẻ con người và môi trường xung quanh
4. Trình bày được một số bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm liên quan đến
môi trường

1. CON NGƯỜI VÀ HỆ SINH THÁI


1.1. Thế nào là một hệ sinh thái
Theo luật Bảo vệ môi trường Việt Nam 2005, hệ sinh thái là hệ quần thể sinh vật
trong một khu vực địa lý tự nhiên nhất định cùng tồn tại và phát triển, có tác động qua lại
với nhau. Hệ sinh thái bao gồm cả thành phần lý học và hoá học như đất, nước và các chất
dinh dưỡng cung cấp cho các sinh vật sống trong nó. Những sinh vật này có thể là những
động vật, thực vật bậc cao, với cấu trúc cơ thể phức tạp nhưng cũng có thể là các vi sinh
vật nhỏ bé. Hệ sinh thái bao gồm những mối tác động qua lại giữa các sinh vật sống trong
một sinh cảnh nhất định và con người là một phần của hệ sinh thái. Sức khoẻ và sự phồn
thịnh của xã hội loài người phụ thuộc vào những lợi ích mà hệ sinh thái mang lại.
Con người đã được hưởng rất nhiều sản phẩm của các hệ sinh thái tự nhiên như thức
ăn, động – thực vật làm cảnh, gỗ để xây dựng và làm nhiên liệu, cùng vô vàn các loài
động vật, thực vật rất có giá trị trong công tác phòng và chữa bệnh. Những sản phẩm này
chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, gần đây người
ta mới nhận thấy rằng các hệ sinh thái tự nhiên còn đóng nhiều vai trò hết sức quan trọng
khác cho sự tồn tại và phát triển của con người. Một số trong những vai trò này là khả
năng làm sạch không khí và nước, giải độc và phân giải các loại rác thải, điều hoà khí
hậu, tăng sự màu mỡ cho đất, kiểm soát hầu hết các động thực vật có hại cho nông
nghiệp, tạo ra và duy trì đa dạng sinh học cung cấp giống cho nông nghiệp, nguyên vật
liệu cho công nghiệp, dược liệu v.v. Những lợi ích này tương đương hàng nghìn tỉ đô la
mỗi năm, tuy nhiên hầu như không được quy ra tiền để có thể thức tỉnh nhận thức con
người nhằm thay đổi các hành vi làm tổn hại tới hệ sinh thái.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


2

1.2. Môi trường và sức khoẻ con người
Tần suất mắc các bệnh do các yếu tố môi trường gây ra phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện địa lý và tình trạng kinh tế của từng quốc gia. Việc phơi nhiễm với các nguy cơ
từ môi trường có liên quan chặt chẽ tới tình trạng phát triển của mỗi quốc gia và tình trạng

kinh tế - xã hội của từng cá nhân và từng cộng đồng. Những người nghèo thường ít được
bảo vệ khỏi các nguy cơ môi trường hơn những người giàu, cho dù đó là những nguy cơ
từ các nhà máy, chất thải độc hại, môi trường trong và ngoài nhà, nước sinh hoạt bị ô
nhiễm v.v…
Trong khoảng 3 – 4 thập kỷ trở lại đây, ở những quốc gia có nền công nghiệp phát
triển, việc kiểm soát ô nhiễm, thay đổi công nghệ, các quy định và luật môi trường được
thực hiện chặt chẽ đã góp phần làm giảm đáng kể việc phơi nhiễm của con người với các
tác nhân độc hại. Mặc dù những nước này đã cố gắng cắt giảm những nguy cơ trực tiếp
ảnh hưởng tới sức khoẻ con người từ các tác nhân môi trường, nhưng toàn thế giới hiện
đang phải đối mặt với việc thiếu nước sạch do dân số thế giới ngày một tăng, nhu cầu sử
dụng nước cũng ngày một tăng. Việc sử dụng nguyên liệu hoá thạch và thải ra những chất
khí gây ảnh hưởng tới tầng ô zôn là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”
và “phá huỷ tầng ô zôn”.
Con người luôn chịu những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ các nguy cơ môi
trường. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng ô nhiễm không khí làm tăng nguy cơ mắc
các bệnh về đường hô hấp, tăng nguy cơ tử vong do các bệnh tim mạch và các bệnh phổi
mạn tính. Cũng theo thống kê của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP,
2003), cứ 6 người thì có 1 người thường xuyên không có được nguồn nước uống an toàn,
hơn 1/3 dân số thế giới (khoảng 2,4 tỉ người) không có các điều kiện vệ sinh đầy đủ, cứ
mỗi 8 giây lại có 1 trẻ em chết vì các bệnh có liên quan tới nước và 80% các bệnh tật, tử
vong tại các nước đang phát triển là có liên quan đến nước. Công nhân và cộng đồng dân
cư ở tất cả các quốc gia trên thế giới đều đang phải chịu những nguy cơ tiềm ẩn từ các sự
cố công nghiệp. Vụ nổ ở nhà máy điện nguyên tử Chernobyl (Liên Xô cũ, 1986) hay vụ
nổ ở nhà máy hoá chất Bhopal (Ấn độ, 1984) là những ví dụ điển hình, với hàng trăm đến
hàng nghìn người tử vong, hàng trăm nghìn người phải chịu ảnh hưởng (hộp 1).
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


3






Hộp 1. Thảm hoạ Bhopal, Ấn Độ, 1984.
Vụ thảm hoạ xảy ra vào khoảng 22h đêm 2/3/1984 tại trung tâm thành phố
Bhopal với khoảng 900.000 dân, bang Madhya Pradesh, Ấn Độ, và trở thành vụ thảm
hoạ sự cố công nghiệp lớn nhất trong lịch sử.
Vào lúc 22h đêm 2/3/1984, khoảng 40.000 tấn methyl isocyanate (MIC) - một
loại chất trung gian được sử dụng trong quy trình sản xuất hoát chất bảo vệ thực vật -
rò rỉ từ 2 hầm lưu trữ từ một nhà máy Liên hợp sản xuất hoá chất bảo vệ thực vật. Đây
là một loại hoá chất nguy hiểm, có đặc tính nhẹ hơn nước một chút, nhưng lại nặng hơn
không khí gấp 2 lần, do vậy, khi thoát ra không khí, đám khí này sẽ tồn tại ở gần mặt
đất. Sự rò rỉ này kéo dài gần 2 tiếng, bắt đầu từ 22h ngày 2/3/1984. Do hiện tượng
nghịch đảo nhiệt, khí MIC sau khi rò rỉ không thoát lên cao được, và đám mây khí này
bao phủ một diện tích khoảng 8km
2
quanh nhà máy. Đám mây khí độc hại này dày đặc
đến nỗi mọi người gần như không nhìn thấy gì. Đám khí này gây ho kích ứng, ngạt thở,
cay xè – bỏng mắt. Khí độc này làm bỏng các mô ở mắt và phổi nạn nhân, tấn công hệ
thần kinh trung ương, làm con người mất khả năng tự điều khiển (đái, ỉa không tự chủ
trong quá trình chạy trốn).
Vụ rò rỉ xảy ra vào ban đêm, lúc hầu hết mọi người đang ngủ nên số lượng nạn
nhân rất lớn, 2.000 người chết vào ngay sáng hôm sau thảm hoạ, và trong vòng 1 tháng
sau sự cố, có thêm 1.500 người chết. 300.000 người phải nhập viện vì ngộ độc khí
MIC.
Sau thảm họa, những nạn nhân còn sống sót bị ảnh hưởng nặng nề như: ung thư,
rối loạn kinh nguyệt, quái thai, dị dạng bẩm sinh v.v 50.000 người không thể quay
trở lại làm việc do bị chấn thương, nhiều người thậm chí không thể đi lại được.
Đến năm 1989, Liên hợp sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật đồng ý chi trả 470

triệu đô la cho việc đền bù thiệt hại do vụ rò rỉ khí MIC gây ra. Tuy nhiên, các nạn
nhân không được tham gia ý kiến trong các buổi thương thảo về việc định cư của họ.
Nhiều nạn nhân cảm thấy mình bị lừa khi chỉ nhận được các khoản đền bù từ 300 đến
500$ hoặc số tiền tương đương với các điều trị về mặt y tế trong 5 năm.
(Nguồn: truy cập ngày 5/4/2007

và truy cập ngày 30/3/2007.)
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


4

1.3. Sự ổn định của hệ sinh thái: nền tảng của sức khỏe con người
Sức khỏe của con người không chỉ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những chất ô nhiễm do
con người hít phải, ăn phải, hay thấm qua da con người. Các chất độc hại còn ảnh hưởng
gián tiếp đến sức khỏe con người bằng cách phá vỡ sự ổn định của các hệ sinh thái, do
vậy làm giảm năng suất của hệ sinh thái và tạo điều kiện thuận lợi cho các tác nhân có hại
cho sức khỏe của con người sinh trưởng và phát triển.
Chẳng hạn, việc phá rừng lấy gỗ, đốn củi, lấy đất canh tác hoặc chăn nuôi làm giảm
khả năng giữ nước của rừng, tăng các dòng chảy xuống sông suối và gây nên lụt lội, trượt
đất, thậm chí lũ quét. Những hoạt động này đã gây ra các vụ lụt và trượt đất liên tiếp ở
Bangladesh và Philippines. Lụt lội làm giảm năng suất nông nghiệp, và ảnh hưởng lớn tới
sức khỏe con người, thậm chí tử vong do đuối nước hoặc do chấn thương. Lụt lội cũng
làm phá hủy các nhà máy xử lý nước và chất thải, tạo điều kiện cho các bệnh truyền
nhiễm lây lan. Ở những khu vực mà người dân sống quanh lưu vực các con sông, và
nguồn nước ăn, uống của họ là nước bề mặt tại các sông thì những ảnh hưởng tới sức
khỏe của dân cư tại vùng này trong và sau bão lụt lại càng nặng nề hơn. Việc phá các khu
rừng nhiệt đới cũng làm tăng sự lan truyền của bệnh sốt rét và một số bệnh do ký sinh
trùng, vì khi phá rừng con người đã làm tăng số lượng của các vũng nước tĩnh, nước đọng
xung quanh các khu rừng vừa bị đốn hạ và những con đường được tạo ra để chuyên chở

gỗ, củi.
Việc phá rừng, đô thị hóa nhanh chóng, đặc biệt là ở quanh các lưu vực sông, đã làm
tăng lượng các trầm tích lắng đọng và những chất ô nhiễm khác trong sông - nguồn nước
thường được sử dụng để làm nước ăn uống và sinh hoạt cho con người. Hậu quả là con
người lại phải đầu tư những trang thiết bị đắt tiền để xử lý nước nhằm bảo vệ sức khoẻ
của mình. Các nguồn nước thải từ đô thị cũng như các loại phân bón hoá học được thải
vào trong môi trường đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các vi sinh vật trong các
dòng sông và trong các vùng biển nông, từ đó lại làm giảm nồng độ ô xy hoà tan trong
nước, ảnh hưởng tới cá và các loài sinh vật khác.
Ngoài những tác hại trên, phá rừng còn làm thay đổi điều kiện khí hậu trong khu vực
cũng như trên phạm vi toàn cầu. Theo hai nhà bác học Myers và Shulka, phá rừng làm
thay đổi lượng mưa trong một khu vực và làm tăng sự ấm nóng trên toàn cầu.
Những mất cân bằng trong hệ khí quyển toàn cầu cũng tạo ra những nguy cơ gián
tiếp đối với sức khoẻ con người. Khí thải có chứa các hợp chất hydrocarbon từ các loại
máy lạnh, tủ lạnh và từ các nhà máy làm phá huỷ ôzôn ở tầng bình lưu. Kết quả là nguy
cơ mắc ung thư da ở người có thể tăng lên.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


5

1.4. Các hoạt động của con người và tác động lên hệ sinh thái
Các hệ sinh thái tự nhiên tham gia vào rất nhiều quá trình khác nhau và có ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới con người và các sinh vật khác. Những hoạt động của
con người trong môi trường đã, đang và sẽ làm thay đổi rất nhiều quá trình tự nhiên này
theo một chiều hướng bất lợi cho sức khoẻ và sự phồn thịnh của chính xã hội loài người.
Bảng sau đây sẽ tóm tắt một số quá trình tự nhiên và những tác động của con người lên
những quá trình này:

Bảng 1. Những ảnh hưởng của con người lên một số quá trình diễn ra trong hệ sinh thái


Các quá trình của
hệ sinh thái
Tác động của con người
Quá trình tạo đất
Các hoạt động trong nông nghiệp đã tăng sự
tiếp xúc của lớp đất bề mặt với mưa nắng làm
giảm đáng kể lớp đất bề mặt màu mỡ
Kiểm soát chu trình nước
Việc chặt phá rừng bừa bãi và các hoạt động
khác của con người gây ra lụt lội, lũ quét hay
hạn hán ở nhiều nơi
Phân giải các loại rác thải
Nước thải, rác thải không qua xử lý và nước
thải chảy từ đồng ruộng, trang trại chăn nuôi
làm tăng ô nhiễm nước
Dòng năng lượng
Một số ngành công nghiệp và nhà máy hạt nhân
đã làm tăng ô nhiễm nhiệt độ đối với môi
trường xung quanh. Các hoạt động đốt cháy các
nhiên liệu hoá thạch sẽ phát thải ra các khí nhà
kính và có thể dần dần làm tăng nhiệt độ trái
đất (Hiệu ứng nhà kính)
Chu trình tự nhiên của các
chất dinh dưỡng
Việc sử dụng các nguyên liệu không phân huỷ
được và các hoạt động chôn lấp rác đã ngăn cản
quá trình hoàn trả lại môi trường nhiều nguyên
liệu hữu ích


Con người là một phần của hệ sinh thái trên trái đất. Những hoạt động của con người
có thể có lợi hay có hại đối với sự cân bằng của hệ sinh thái. Phá hoại nơi sinh sống của
các loài động - thực vật, có thể là do các hoạt động vô tình hay cố ý của con người, đều đe
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


6

doạ đến sự cân bằng của các hệ sinh thái trên trái đất. Nếu những tác động này không
được giải quyết thì sự ổn định của nhiều hệ sinh thái có thể không có khả năng phục hồi .
Con người có thể ảnh hưởng lên hệ sinh thái theo nhiều khía cạnh khác nhau như sau:

Bảng 2. Những tác động tiêu cực mà con người gây ra cho các hệ sinh thái

Hoạt động của con người Ảnh hưởng lên hệ sinh thái
Gia tăng dân số
Gia tăng dân số dẫn đến gia tăng tốc độ tiêu thụ
nguồn tài nguyên thiên nhiên phục hồi và không
phục hồi trên trái đất
Tiêu thụ ồ ạt
Xã hội công nghiệp hoá ở những nước phát triển tiêu
thụ nhiều tài nguyên trên đầu người hơn những nước
nghèo và chậm phát triển
Các kỹ thuật tiên tiến
Thông thường, chúng ta sản xuất ra và ứng dụng vô
vàn các kỹ thuật hiện đại mà không hiểu rõ những tác
động tiềm tàng mà nó sẽ gây ra cho môi trường sinh
thái
Chặt phá rừng
Làm mất đi một diện tích rất lớn rừng nhiệt đới và

các sản phẩm của đa dạng sinh học trong các khu
rừng này
Làm gia tăng ô nhiễm môi trường

Ô nhiễm đất, nước, không khí và phóng xạ đã có
nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới hệ sinh thái
Gây ra những thay đổi trong khí
quyển
Bao gồm sự gia tăng của các khí nhà kính mà chủ
yếu là hậu quả của quá trình đốt cháy các loại nhiên
liệu hoá thạch và sự suy giảm ô zôn ở tầng bình lưu.
Các chất ô nhiễm khác cũng gây nhiều tác động tiêu
cực tới sinh vật sống.

Gia tăng dân số tác động trực tiếp tới quá trình đô thị hoá và sự lan tràn bệnh dịch.
Trong vòng một nghìn năm qua, dân số thế giới gia tăng với một tốc độ chóng mặt. Bảng
3.3 đưa ra số liệu ước lượng về dân số trên thế giới vào một số năm cụ thể từ năm 1000
đến năm 2050.
Gia tăng dân số làm tăng tốc độ đô thị hoá, người dân ở nông thôn di cư ra thành phố
để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân cũng như cho tương lai của thế hệ
con cháu. Trước những năm 1950, dân số sống ở đô thị trên thế giới chỉ chiếm khoảng
dưới 30%, nhưng đến năm 2050 thì con số này ước tính sẽ tăng lên tới hơn 60%. Vào năm
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


7

2000, trên thế giới có khoảng 20 thành phố với số dân vượt quá 10 triệu người
(McCartney, 2002). Điều kiện sống đông đúc chật hẹp, vệ sinh môi trường kém do quá
trình đô thị hoá xảy ra mạnh mẽ ở nhiều nơi tạo điều kiện cho các bệnh truyền nhiễm phát

triển và lây lan. Một số bệnh dịch phổ biến trên thế giới làm nhiều người mắc và chết là
các bệnh tiêu chảy, lao phổi, sốt rét và tả. Ngoài ra còn có nhiều bệnh mới nảy sinh hay
các bệnh cũ quay trở lại do sự thay đổi các hệ sinh thái. Điều này chứng tỏ mối tương
quan chặt chẽ giữa gia tăng dân số, thay đổi môi trường sinh thái và sức khoẻ con người.

Bảng 3. Dân số thế giới ước tính vào một số thời điểm nhất định

Dân số thế giới vào một số thời điểm

1000 5 triệu
1650 500 triệu
1850 1 tỉ
1950 2,5 tỉ
2000 6 tỉ
2050 8 - 12 tỉ (ước tính)

(Nguồn: Sir McCartney P. (2002). Global Environmental Change: Human Impacts “ in this
ever - changing world in which we live in”)
Các hoạt động của con người trong thời gian qua đã có những ảnh hưởng tiêu cực tới
trạng thái cân bằng của nhiều hệ sinh thái. Mối đe doạ trước mắt là sự phá hoại những nơi
sinh sống tự nhiên của sinh vật cũng như sự xâm nhập của các loài lạ xẩy ra sau khi sinh
cảnh bị tàn phá. Đối với hệ sinh thái biển thì việc đánh bắt cá và các loài hải sản tràn lan
là một mối đe doạ lớn tới sự cân bằng và phồn thịnh của các hệ sinh thái nơi đây. Một
trong những tác động lớn nhất mà con người gây ra cho hệ sinh thái đó là làm mất đa
dạng sinh học tự nhiên. Theo ước tính của Lawton và May (1995), cứ mỗi giờ qua đi trên
thế giới sẽ có một loài bị tuyệt chủng nhưng đáng tiếc là trong quá trình tiến hoá phải mất
tới 10.000 năm hoặc thậm chí lâu hơn mới sinh ra được một loài mới. Các mối đe doạ
khác tới hệ sinh thái bao gồm sự thay đổi chu trình cacbon, nitơ và các chất hoá học khác
trên trái đất do tác động của quá trình đốt cháy các nhiên liệu hoá thạch, sử dụng phân
bón chứa nitơ trong sản xuất nông nghiệp với một lượng lớn v.v. Tuy nhiên, một trong

những ảnh hưởng lớn nhất do các hoạt động của con người gây ra và thường được bàn tới
trong những năm gần đây đó là sự thay đổi khí hậu trên toàn cầu. Tác động này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới các hệ sinh thái cũng như tới sức khoẻ của con người.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


8

1.5. Hậu quả của thay đổi khí hậu và biến đổi hệ sinh thái
Theo nhiều nhà khoa học, hậu quả của sự thay đổi khí hậu mà nguyên nhân là do
chính các hoạt động của con người gây ra - đặc biệt là sự ấm lên trên toàn cầu (global
warming) do sự gia tăng nồng độ khí cacbon dioxit và các khí nhà kính khác trong khí
quyển là những tác động tiêu cực lên sức khoẻ của cộng đồng. Các nhà khí tượng học dự
đoán rằng, do sự tích tụ của các khí nhà kính mà khí hậu toàn cầu sẽ thay đổi với một tốc
độ nhanh hơn rất nhiều trong khoảng lịch sử kể từ 10.000 năm trở lại đây. Trong thế kỷ
qua, nhiệt độ trung bình trên bề mặt trái đất tăng khoảng 0,3 đến 0,6
0
C. Theo Sidney và
Raso (1998), các mô hình thực hiện trên máy vi tính hiện đại về khí hậu của trái đất dự
báo rằng: nếu nồng độ các khí nhà kính vẫn tiếp tục tăng như dự đoán thì đến năm 2100
nhiệt độ trung bình trên trái đất sẽ tăng lên từ 1 đến 3,5
0
C. Nhiệt độ tăng lên sẽ thay đổi
hệ sinh thái và ảnh hưởng tới sức khoẻ con người như thế nào? Liệu chúng ta có thể dự
đoán được một cách chính xác các hậu quả của sự thay đổi khí hậu lên cuộc sống để từ đó
có những hành động hay chương trình bảo vệ sức khoẻ của cộng đồng? Cho tới nay, có
rất nhiều người trong số chúng ta còn chưa hiểu được những tác hại mà việc thay đổi khí
hậu có thể gây ra cho sức khoẻ con người. Mối liên hệ sẽ trở nên rõ ràng hơn một khi
chúng ta nhận ra rằng sức khoẻ con người và sự phồn thịnh của xã hội phụ thuộc vào sự
phồn thịnh của các hệ sinh thái tự nhiên trên trái đất, đồng thời những thay đổi trong mô

hình khí hậu và những ảnh hưởng lên hệ sinh thái sẽ là nguy cơ cho sức khoẻ con người.
Các nhà khoa học dự đoán rằng khí hậu thay đổi sẽ có nhiều tác động mà hầu hết là tiêu
cực tới sức khoẻ cộng đồng. Xem Hộp 2 về tác động của El Nilno lên sức khoẻ cộng
đồng. Một số tác động tiêu cực của khí hậu thay đổi và mất cân bằng sinh thái lên xã hội
chúng ta sẽ được trình bày sau đây.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


9


Hộp 2 - El Nilno và sức khoẻ cộng đồng
Ở nhiều vùng trên thế giới, trong giai đoạn xẩy ra El Nilno thì các bệnh truyền qua
vector và các bệnh truyền qua nước tăng lên rõ rệt. Lũ lụt sinh ra nhiều nơi chứa nước
ngọt tạo điều kiện cho muỗi sinh sôi nảy nở. Đợt El Nilno xẩy ra vào năm 1997 - 1998
được xem là mạnh nhất trong thế kỷ 20 và đã gây hậu quả nhiều nơi trên thế giới. Hạn
hán nặng và cháy rừng xẩy ra ở nhiều nước thuộc Châu Á các nước vùng Địa Trung Hải,
vùng Amazon, các khu rừng nhiệt đởi ở Mêhicô, Trung Mỹ và các bang California và
Florida ở Mỹ. Ngứa mắt dị ứng, các bệnh đường hô hấp và tim mạch tăng vọt ở những
vùng này. Hạn hán và lũ lụt xảy ra ở nhiều vùng nhiệt đới làm dịch tả lan tràn.
Sóng nhiệt làm hàng ngàn người bị tử vong ở Ấn Độ và hàng trăm người ở Châu Âu và
Mỹ. Ở Trung Quốc và Băng La Đét thì lũ lụt xẩy ra với sức tàn phá ghê gớm. Ở vùng
mỏm của Châu Phi, trận đại hồng thuỷ xảy ra gây lụt lội vào cuối năm 1997 làm gia tăng
bệnh dịch tả, sốt rét và sốt Thung lũng Rift (Rift Valley fever) làm nhiều người và gia súc
bị chết. Ở Châu Mỹ La Tinh, lụt lội xảy ra dọc theo biển Đại Tây Dương và vùng phía
nam Bra xin đã liên quan với sự bùng nổ bệnh tả và các bệnh truyền qua véc tơ, còn ở
nhiều vùng ở phía Nam nước Mỹ thì đã xảy ra các vụ dịch hantavirus do chuột truyền.
Đây là bệnh mới nảy sinh và xuất hiện lần đầu tiên ở nước Mỹ, là một quốc gia có nền Y
tế công cộng phát triển vào bậc nhất trên thế giới.
El Nilno hay còn gọi là Giao động Nam là một chu trình khí hậu tự nhiên. Tuy

nhiên, sự hấp thụ nhiệt của đại dương do nhiệt độ trái đất tăng lên có thể làm đảo lộn chu
kỳ tự nhiên của El Nilno và làm cho chúng xảy ra thường xuyên hơn và dữ dội hơn.
Trong thời gian xảy ra El Nilno, những thay đổi của thuỷ triều và gió ở vùng đông Thái
Bình Dương sẽ làm thay đổi gió xoáy và các mô hình khí hậu trên toàn cầu. Hạn hán bất
thường xảy ra ở nhiều nơi, còn nhiều vùng khác thì lại phải đối mặt với các trận hồng
thuỷ và bão lụt dữ dội. Cuối mỗi đợt El Nilno thường xảy ra một giai đoạn khác của chu
trình, gọi là La Nilna - sự kiện trái ngược với El Nilno. Ở Ấn Độ, Mê Hi Cô, và đông nam
nước Mỹ đã phải chịu cảnh hạn hán khốc liệt trong giai đoạn 1997 - 1998 do tác động của
El Nilno, sau đó lại xảy ra các trận lụt lớn vào tháng 8, tháng 9 năm 1998 do ảnh hưởng
của La Nilna.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Dữ liệu Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia Hoa
Kỳ thì trong suốt thế kỷ qua các thảm hoạ của thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt, bão và cháy
đã gây thiệt hại nặng nề ở nhiều vùng trên thế giới cả về người và của.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


10
1.5.1. Ảnh hưởng tới năng suất của mùa màng
Khí hậu thay đổi có thể gây tác động tới năng suất của một số mùa màng ở nhiều
nơi. Bất cứ thay đổi bất lợi nào trên diện rộng về công tác sản xuất, cung ứng và phân
phối các sản phẩm nông nghiệp - đặc biệt là ở những nước đang phát triển cũng có thể
gây ra tác động nghiêm trọng. Tỉ lệ suy dinh dưỡng và hộ bị đói cũng có khả năng tăng
lên. Trái đất nóng lên gây nhiều hậu quả trên trên toàn cầu và một trong số những tác
động đáng chú ý là sự gia tăng mực nước biển do băng ở hai cực tan ra và sự nở của nước
biển do nhiệt độ. Các nhà thuỷ văn học dự đoán rằng, đến năm 2100 thì mực nước biển
trung bình trên toàn cầu sẽ tăng lên từ 0,2 đến 1,0 mét và sẽ tiếp tục gia tăng hơn nữa
trong những thế kỷ tới. Mực nước biển gia tăng có thể làm tràn ngập các khu vực trước
đây là khu dân cư đông đúc hay làm ngập mặn các vùng đất canh tác vốn dĩ rất hạn hẹp ở
một số quốc gia. Đặc biệt, Bangladesh và một số quốc gia đảo khác là những nước rất dễ
bị tổn thương. Hơn nữa, lụt lội ở những cộng đồng dân cư sống đông đúc vùng ven biển

sẽ làm cho nhiều gia đình bị mất nhà cửa và buộc phải dời đến sống ở những vùng đông
đúc chật hẹp nơi họ rất dễ bị mắc các bệnh lao, bạch hầu và các bệnh tiêu chảy. Mặt khác,
như chúng ta đã biết, ước tính khoảng 99% các loài động thực vật có hại cho nông nghiệp
có thể bị kiểm soát bởi các kẻ thù trong tự nhiên, bao gồm chim, rắn, nhện, ong, nấm, các
bệnh do virus và nhiều sinh vật khác. Những tác nhân kiểm soát sinh học tự nhiên này đã
giúp cho nông dân tiết kiệm được hàng tỉ đô la mỗi năm bằng cách bảo vệ mùa màng khỏi
bị thất thoát và giảm nhu cầu sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật (Naylor và Ehrlich, 1997).
Khí hậu thay đổi, hệ sinh thái tự nhiên bị mất cân bằng làm cho quá trình kiểm soát sinh
học tự nhiên bị ảnh hưởng và điều này sẽ trực tiếp làm giảm năng suất trong sản xuất
nông nghiệp và gián tiếp tác động lên nền kinh tế và sức khoẻ của cộng đồng.
1.5.2. Nhiệt độ quá cao và hậu quả sức khoẻ
Do sự gia tăng của nhiệt độ, càng ngày chúng ta càng thấy nhiều trường hợp bị căng
thẳng do nhiệt độ, nhiều trường hợp có thể dẫn tới tử vong, đặc biệt là ở người già, trẻ em
và đối tượng có thu nhập thấp. Sự nhạy cảm của các nhóm đối tượng này có thể do nhiều
yếu tố vật lý và xã hội khác nhau quyết định, bao gồm: khả năng họ phải sống trong điều
kiện môi trường không thoáng mát, không có hệ thống thông gió hay điều hoà nhiệt độ.
Những bệnh nhân bị các bệnh tim mạch và hô hấp mãn tính là những người có nguy cơ
rất cao. Chúng ta đã chứng kiến hậu quả của thời tiết quá nóng bức xảy ra ở Chicago năm
1995, làm 500 người chết chỉ trong một thời gian ngắn. Những mô hình dự báo gần đây
cho rằng đến năm 2050 ở nhiều thành phố trên thế giới sẽ có thêm hàng ngàn người bị
chết mỗi năm do nóng bức.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


11
1.5.3. Gia tăng ô nhiễm không khí và hậu quả của nó tới sức khoẻ
Nhiệt độ tăng lên làm giảm chất lượng không khí, chủ yếu là do vấn đề tăng ô nhiễm
khí cacbon dioxit, nitơ oxit, ô zôn v.v. ở những khu vực đô thị nơi môi trường bị ô nhiễm
nặng. Nhiệt độ và tia tử ngoại ở tầng thấp của khí quyển tăng lên tạo điều kiện cho các
phản ứng hoá học xẩy ra mạnh mẽ và sản xuất ra khí ô zôn. Ô zôn là một khí phản ứng rất

mạnh và có thể trực tiếp làm ôxy hoá các phân tử, tạo ra các gốc tự do chứa nhiều năng
lượng và có thể làm tổn thương đến tế bào. Nồng độ ô zôn cao trong không khí có thể làm
gia tăng các trường hợp bị bệnh hô hấp và bệnh tim mạch. Người ta thấy rằng, những tác
động hô hấp cấp tính do ô zôn gây ra có liên quan tới bệnh hen suyễn ở trẻ em. Khí hậu
ấm hơn và ẩm ướt hơn ở nhiều vùng có thể làm tăng nồng độ các loại phấn hoa trong
không khí và rất có khả năng sẽ có tác động tiêu cực lên những người bị rối loạn dị ứng,
ví dụ những bệnh nhân bị hen suyễn hay bị sốt mùa cỏ khô (sốt mùa hè).
1.5.4. Những thay đổi trong hệ sinh thái và các bệnh truyền nhiễm
Xuất hiện các bệnh dịch mới và các bệnh có nguy cơ xuất hiện trở lại
















(Nguồn: Fauci. A. S. "Các bệnh mới xuất hiện và các bệnh có nguy cơ quay trở lại" - Viện Sức
khoẻ Quốc gia, Bethesda, Maryland, Mỹ)
Sự kết hợp của thay đổi khí hậu, suy thoái môi trường và mất cân bằng các hệ sinh
thái đã tạo điều kiện lý tưởng cho sự quay trở lại cũng như sự xuất hiện và lây lan của
(Sốt xuất huyết Ebola)

(Sốt rét kháng
thuốc)
Hình 1. Một số ví dụ về các bệnh mới xuất hiện và các bệnh
có nguy cơ quay tr
ở lại

Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


12
nhiều căn bệnh truyền nhiễm - những bệnh đã làm hơn 17 triệu người bị tử vong hàng
năm trên thế giới. Hình 3.1 mô tả một số ví dụ về các bệnh mới nảy sinh và các bệnh có
nguy cơ xuất hiện trở lại ở các nước trên thế giới.
Khí hậu thay đổi làm thay đổi các hệ sinh thái, tỉ lệ giữa động vật săn mồi và con
mồi bị mất cân bằng dẫn tới các phương thức kiểm soát sinh học tự nhiên của các bệnh
truyền nhiễm và vector truyền bệnh cũng bị phá vỡ. Các loài cá nước ngọt, chim, lưỡng
cư và dơi là những loài giới hạn sự phát triển của muỗi (là vector truyền các bệnh sốt rét,
sốt xuất huyết, sốt vàng và viêm não). quạ, chó sói đồng cỏ và rắn giúp kiểm soát các
quần thể gặm nhấm. Một số loài gặm nhấm làm lây truyền các bệnh Lyme, hantavirus,
arenavirus (sốt xuất huyết), Leptospiroses và dịch hạch. Khi kẻ thù của các vector truyền
bệnh bị giảm về số lượng do tác động của thay đổi khí hậu trong lúc các quần thể vector
truyền bệnh lại phát triển mạnh mẽ thì các bệnh truyền qua vector sẽ có điều kiện lan tràn
và chúng ta khó có thể kiểm soát được. Các nhà khoa học cho rằng khí hậu ấm và ẩm hơn
đã tạo điều kiện mở rộng phạm vi hoạt động của nhiều loại bệnh truyền nhiễm. Tiến sỹ
Epstein trong một nghiên cứu gần đây về "Sức khoẻ con người và sự thay đổi khí hậu" đã
cảnh báo rằng "Thay đổi khí hậu sẽ có nhiều tác động lên sức khoẻ con người và hầu hết
là các tác động có hại" (Epstein, 1998).
1.5.5. Thay đổi mô hình bệnh tật
Trong quá khứ đã có nhiều giai đoạn bệnh tật tàn phá xã hội loài người, ví dụ như
bệnh dịch hạch thời trung cổ xảy ra ở Châu Âu. Vấn đề này đã xảy ra đồng thời với sự gia

tăng dân số, sự đô thị hoá và môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng. Với sự ấm lên của
toàn cầu như hiện nay cùng với sự thay đổi mạnh mẽ các hệ sinh thái đã tạo điều kiện cho
các mô hình bệnh tật thay đổi trên một diện rộng. Trong nghiên cứu của Tiến sỹ Epstein,
ông đã đưa ra 3 tác động chính mà sự thay đổi khí hậu có thể gây ra cho sức khoẻ cộng
đồng, đó là:
• Tạo điều kiện thuận lợi cho sự bùng nổ các vụ dịch bệnh truyền nhiễm
• Tăng khả năng lây truyền các bệnh truyền qua vector và làm hàng triệu người
bị phơi nhiễm với các bệnh mới nảy sinh cũng như phơi nhiễm với nhiều
nguy cơ sức khoẻ khác nhau.
• Cản trở sự kiểm soát bệnh dịch trong tương lai
Ngoài ra, một trong những nhân tố không kém phần quan trọng trong việc làm lây
lan các bệnh mới nảy sinh, góp phần thay đổi mô hình bệnh tật trên thế giới đó là việc đi
lại, thông thương giữa các quốc gia bằng ô tô, tàu cao tốc hay máy bay. Thời xa xưa,
phương tiện vận tải chủ yếu giữa các nước là tàu biển hay xe thô sơ, vì vậy thời gian đi
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


13
sang một vùng khác hay một nước khác là khá lâu. Các vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm
có thể bị chết trên đường đi và làm hạn chế sự lây lan bệnh tật giữa các vùng. Trong xã
hội hiện đại ngày nay, việc đi lại giữa các nước bằng máy bay thuận tiện và nhanh hơn
nhiều. Theo Alleyne (1998), năm 1995 có hơn 1 triệu người sử dụng máy bay mỗi ngày.
Mặc dù đem lại nhiều lợi ích cho con người nhưng điều này cũng góp phần làm lây lan
bệnh tật. Ngoài các bệnh truyền nhiễm thì ngày nay ở nhiều nước mà nhất là ở những
nước phát triển đang phải đương đầu với các bệnh không truyền nhiễm nhưng có tỉ lệ tử
vong cao như ung thư, tiểu đường, tim mạch, béo phì v.v

2. MÔ HÌNH BỆNH TẬT Ở VIỆT NAM THEO CÁC VÙNG SINH THÁI
Đặc điểm chung của nước ta là đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ và đồng bằng chỉ
chiếm 1/4 lãnh thổ. Khí hậu nhiệt đới, gió mùa, phía Bắc có 4 mùa, phía Nam có 2 mùa,

nhiệt độ trung bình năm cao 21 – 26
0
C, độ ẩm cao. Do ảnh hưởng của gió mùa, địa hình
phức tạp nên khí hậu của nước ta luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác,
giữa nơi này với nơi khác, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ thấp lên cao. Do đặc
tính ấy làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội như lề lối sinh hoạt: ăn, mặc, ở và bảo
vệ sức khoẻ. Theo địa lý và thống kê y tế (2001) nước ta được chia thành 8 vùng sinh thái
như sau: Vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải
Miền trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long.
2.1. Miền núi Trung du Bắc bộ (Đông Bắc và Tây Bắc)
Kể từ năm 2001, Miền núi Trung du Bắc Bộ được chia thành vùng Đông Bắc và Tây
Bắc, gồm 16 tỉnh thành: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lao
Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc
Giang, Bắc Ninh và Quảng Ninh.
2.1.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế
• Là nơi tiếp giáp với các nước Lào và Trung Quốc, liền kề với Đồng bằng
Sông Hồng, nên có điều kiện để giao lưu.
• Địa hình núi non hiểm trở, giàu tài nguyên nhất là tài nguyên rừng và các
khoáng sản, nhiều sông, suối, biển
• Khí hậu vẫn là khí hậu nhiệt đới, có 4 mùa
• Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc ít người như Tày, Nùng, Thái, Mường,
Dao, H’mông, v.v…
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


14
• Là vùng còn nghèo và khó khăn, mặc dù có nhiều tiến bộ về đời sống văn hoá
xã hội, nhưng vẫn còn có những phong tục tập quán lạc hậu, ảnh hưởng đến
công việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
2.1.2. Mô hình bệnh tật

Từ những đặc điểm về địa lý, kinh tế như vậy nên kéo theo những vấn đề về sức
khoẻ, bệnh tật cũng có những điểm khác do với các vùng khác như đây là nơi tập trung
khá nhiều những bệnh liên quan đến côn trùng, đói nghèo, phong tục,…. biểu hiện qua 10
bệnh mắc cao nhất như được trình bày trong Bảng 4.

Bảng 4. Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất năm 2005

STT

Vùng Đông Bắc Vùng Tây Bắc
1
Viêm họng và viêm Amidan cấp Các bệnh viêm phổi
2
Viêm phế quản và viêm tiểu phế
quản cấp
Viêm họng và viêm Amidan cấp
3
Các bệnh viêm phổi ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có
nguồn gốc nhiễm khuẩn
4
Ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có
nguồn gốc nhiễm khuẩn
Cúm
5
Viêm khớp dạng thấp và viêm
khớp khác
Viêm nhiễm cổ tử cung
6
Tai nạn giao thông Tai nạn giao thông
7

Viêm dạ dày tá tràng Viêm phế quản và viêm tiểu phế
quản cấp
8
Cúm Viêm dạ dày và tá tràng
9
Tổn thương thần kinh, rễ và đám
rối thần kinh
Suy dinh dưỡng
10
Đau nửa đầu và các hội chứng
đau đầu khác
Tổn thương thần kinh, rễ và đám
rối thần kinh
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.
2.2. Đồng bằng Sông Hồng
Đồng bằng Sông Hồng gồm 9 tỉnh thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải
Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


15
2.2.1 Đặc điểm địa lý, kinh tế xã hội
• Đồng bằng Sông Hồng rộng gần 1,3 triệu ha, chiếm 3,8% diện tích toàn quốc
với một vùng biển bao quanh ở phía đông và đông - nam.
• Là nơi dân cư tập trung đông đúc nhất trong cả nước, mật độ dân số trung
bình 1180 người/km
2
(1999)
• Địa hình bằng phẳng có thế mạnh về phát triển lương thực, thực phẩm, khoa
học kỹ thuật, công nghệ. Do thế mạnh về phát triển lương thực thực phẩm,

chăn nuôi, canh tác nông nghiệp nên gây ra mô hình bệnh tật có khác với các
vùng khác.
• Là vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước.
2.2.2. Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 5. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Đồng bằng Sông Hồng năm 2005

STT

10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1
Các bệnh viêm phổi
2
Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
3
Viêm họng và viêm amidan cấp
4
Iả chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
5
Sâu răng
6
Tai nạn giao thông
7
Tăng huyết áp nguyên phát
8
Viêm khớp dạng thấp và viêm khớp khác
9
Sốt virut khác do tiết túc truyền và sốt virut xuất huyết
10

Viêm dạ dày và tá tràng
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.

2.3. Bắc Trung Bộ
Bắc trung bộ gồm 6 tỉnh là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


16

2.3.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
• Đây là vùng lãnh thổ hẹp theo chiều đông – tây nhưng dài theo chiều bắc
nam. Là vùng có cả đồng bằng, miền núi cao, là nơi có dãy Trường Sơn chạy
dọc theo chiều bắc nam, chạy dọc theo biển đông. Tiếp giáp với nước Lào.
Đường xá giao thông trong vùng còn nhiều khó khăn và có đường số 1 và
đường Hồ Chí Minh chạy qua
• Khí hậu ảnh hưởng của gió lào về mùa hè nên nóng, ẩm, mưa lũ theo mùa. Là
vùng chịu ảnh hưởng khá nhiều thiên tai và bị tàn phá nhiều trong thời gian
chiến tranh.
• Là vùng phát triển cả kinh tế rừng, biển và nông nghiệp.
• Là nơi cư trú của nhiều dân tộc khác nhau và còn nhiều dân tộc ít người sống
rất sâu, xa có nhiều phong tục tập quán lạc hậu.
2.3.2. Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 6. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Bắc Trung Bộ năm 2005

STT

10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005

1
Các bệnh viêm phổi
2
Tai nạn giao thông
3
Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
4
Di chứng phong
5
ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
6
Bệnh phổi không do phế cầu khuẩn
7
Viêm họng và viêm amidan cấp
8
Cúm
9
Lỵ Amip
10
Tăng huyết áp nguyên phát
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.

2.4. Duyên hải Nam Trung Bộ
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


17
Vùng địa lý Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 8 tỉnh thành là Đà Nẵng, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận.
2.4.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội

• Khác với bắc trung bộ, qua đèo Hải Vân, Duyên hải Miền trung có khí hậu 2
mùa là mùa khô và mùa mưa. Không có mùa đông, khí hậu ôn hoà hơn,
nhưng vẫn là vùng chịu nhiều thiên tai và hậu quả của chiến tranh.
• Lãnh thổ hẹp chạy dọc theo bờ biển Đông, địa hình có núi đồi, đồng bằng ven
biển
• Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, phong tục có những nét khác
của Bắc trung bộ
• Thế mạnh là tài nguyên rừng, độ che phủ của rừng là 34%, ngư nghiệp và
nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ hải sản, nhiều ngành công nghiệp khai
thác, chế biến phát triển
• Có nhiều khu có thể trở thành khu du lịch
• Phát triển kinh tế – xã hội của vùng thực sự vẫn còn khó khăn.
2.4.2. Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 7. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Duyên hải Nam Trung Bộ năm 2005

STT

10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1
Các bệnh viêm phổi
2
Viêm họng và amidan cấp
3
Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
4
Tai nạn giao thông
5
ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
6

Tăng huyết áp nguyên phát
7
Cúm
8
Viêm dạ dày và tá tràng
9
Sốt virut khác do tiết túc truyền và sốt virut xuất huyết
10
Bệnh ruột thừa
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


18
2.5. Tây Nguyên
Tây Nguyên có 4 tỉnh là Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk và Lâm Đồng.
2.5.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
• Đây là vùng duy nhất ở nước ta không giáp với biển.
• Giáp với Lào và Cămpuchia, có vị trí quan trọng về quốc phòng và kinh tế.
• Đa dạng về tài nguyên rừng và khí hậu, là nơi có thể phát triển thành những
khu du lịch và nghỉ mát, có tiềm năng to lớn về nông nghiệp và lâm nghiệp.
Có trữ năng thuỷ điện lớn.
• Là nơi thưa dân nhất nước ta, là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người như
Xudăng, Ba na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho, Mạ, M’nông,… với truyền thống văn
hoá độc đáo
• Hệ thống y tế phát triển tương đối tốt nhưng sử dụng của người dân còn thấp,
đặc biệt là các dân tộc ít người.
2.5.2. Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 8. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Tây Nguyên năm 2005


STT

10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1
Cúm
2
Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
3
Các bệnh viêm phổi
4
Viêm họng và viêm amidan cấp
5
Tai nạn giao thông
6
Ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
7
Viêm dạ dày và tá tràng
8
Ỉa chảy do Shigella
9
Sốt rét
10
Bệnh của ruột thừa
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.






Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


19
2.6. Đông Nam Bộ
Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh thành: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Bương, Bình
Phước, Tây Ninh và Đồng Nai.
2.6.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
• Là khu vực có diện tích nhỏ, mật độ dân số trung bình nhưng phát triển nhất
trong cả nước về sản lượng công nghiệp, hàng xuất khẩu
• Đất đai màu mỡ, có điều kiện để phát triển cây công nghiệp lâu năm và ngắn
ngày trên qui mô lớn
• Là khu vực thu hút mạnh lực lượng lao động có chuyên môn cao, thợ lành
nghề, các nhà khoa học và là vùng có tài nguyên chất xám lớn.
• Có điều kiện và khả năng phát triển công nghiệp, các hoạt động du lịch, dịch
vụ, chế biến, xuất, nhập khẩu,…
• Khai thác kinh tế biển, bờ biển, phát triển nông nghiệp và ngư nghiệp
• Khí hậu ôn hoà chỉ có 2 mùa mưa và khô, thời kỳ mùa khô kéo dài (4 tháng)
dẫn đến thiếu nước sinh hoạt, tưới cho cây trồng và công nghiệp.
2.6.2. Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 9. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Đông Nam Bộ năm 2005

STT

10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1
Các bệnh viêm phổi
2
Viêm họng và viêm amidan cấp

3
U ác dạ dày
4
Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
5
Thương hàn, phó thương hàn
6
Tai nạn giao thông
7
Tăng huyết áp nguyên phát
8
Sốt virut khác do tiết túc truyền và sốt virut xuất huyết
9
Đục thể thủy tinh, tổn thương khác của thể thủy tinh
10
Ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.

Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


20
2.7. Đồng bằng sông Cửu Long
Gồm 12 tỉnh là Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,
Trà Vinh, CầnThơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
2.7.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
• Là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước với diện tích 4 triệu ha, mùa mưa đồng
bằng bị ngập sâu trong nước, mùa khô chỉ là những vũng nước tù đứt đoạn,
đất rộng dân thưa, chưa được khai thác nhiều.
• Có 16,1 triệu dân sinh sống chủ yếu là người Kinh và người Chăm, Kh’me,…

• Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt cắt xẻ châu thổ thành những ô nên
việc giao thông bằng đường thuỷ dễ dàng.
• Khí hâu cận xích đạo, nhiệt đới ẩm, mùa khô kéo dài làm cho đất nước bị
nhiễm mặn vào sâu đất liền.
• Thảm thực vật, động vật phong phú chủ yếu là rừng ngập mặn và rừng tràm,
tài nguyên biển vô cùng phông phú.
• Thiếu nước ngọt đang là một vấn đề vô cùng quan trọng của Đồng bằng Sông
Cửu Long.
2.7.2. Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 10. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Đồng bằng Sông Mê Kông năm 2005

STT

10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1
Các bệnh viêm phổi
2
Tăng huyết áp nguyên phát
3
Ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
4
Viêm họng và viêm amidan cấp
5
Tai nạn giao thông
6
Sốt virut khác do tiết túc truyền và sốt virut xuất huyết
7
Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
8

Viêm dạ dày và tá tràng
9
Bệnh của ruột thừa
10
Cúm
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


21
(Nguồn: Niên giám Thống kê Y tế 2005)

Đây là những sơ thảo ban đầu về các vấn đề bệnh tật theo vùng sinh thái. Rõ ràng
theo số liệu thống kê thì mô hình bệnh tật ở các vùng sinh thái khác nhau là khác nhau và
đã có sự thay đổi trong những năm qua. Có tác giả đã nghiên cứu về đại tầng với sinh
thái, nhưng cho đến nay chưa có một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào về những vấn đề này.
Hiện trên toàn quốc vẫn chưa có một nghiên cứu chi tiết nào về vào trò của những biến
đổi của sinh thái với những thay đổi của mô hình bệnh tật ở các vùng. Do vậy, những
nghiên cứu về mối quan hệ giữa ảnh hưởng sinh thái của các vùng khác nhau cũng như
những thay đổi sinh thái học ở từng vùng với sức khoẻ và mô hình bệnh tật của cộng đồng
dân cư vùng sở tại là rất cần thiết.

3. NHỮNG THAY ĐỔI SINH THÁI HỌC VÀ MỘT SỐ BỆNH PHỔ BIẾN LIÊN
QUAN ĐẾN MÔI TRƯỜNG
3.1. Các bệnh truyền nhiễm
3.1.1. Bệnh truyền qua các vật chủ trung gian
Nguyên nhân chính của việc gia tăng tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử vong liên quan tới sự
nóng lên của trái đất có thể không phải là do tác động trực tiếp của sóng nhiệt. Có nhiều
bằng chứng cho thấy rằng một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trước đây chỉ phổ biến ở
các nước có khí hậu nóng ấm thì nay có nguy cơ lan tràn sang nhiều vùng khác trên toàn
thế giới. Đây là một trong những vấn đề quan trọng hiện đang thách thức các chương

trình sức khoẻ công cộng. Với xu hướng đô thị hoá, các biện pháp kiểm soát vector không
hiệu quả và sự gia tăng của việc đi lại thông thương giữa các nước trên thế giới cũng như
sự di cư của người dân từ nước này sang nước khác là những yếu tố chính dẫn tới sự tái
xuất hiện trở lại các bệnh truyền qua vector. Sự mở rộng của các vùng không có sương
tuyết có thể dẫn tới sự di cư của các loài côn trùng và gặm nhấm làm lây lan các bệnh ở
vùng có khí hậu nóng ấm tới các vùng cao nguyên, đồi núi. Những gì có lợi cho vi sinh
vật có hại thì hiếm khi có lợi cho con người. Nhiệt độ ấm lên trong một thời gian dài do
khí hậu thay đổi sẽ tạo điều kiện lý tưởng cho các loài muỗi và nhiều loài vector truyền
bệnh khác sinh sôi nảy nở, làm lây lan các bệnh truyền nhiễm (xem Hình 3.2)

Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


22













(Nguồn: Paul R. Epstein (2001), Global warming: Health and disease. )
• Bệnh sốt rét
Vấn đề đang thu hút được sự quan tâm rất lớn là bệnh sốt rét. Sốt rét hiện là một

trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trên thế giới và ước tính có khoảng 300 đến
500 triệu người bị mắc và có thêm khoảng 1,5 đến 2,7 triệu người bị chết hàng năm vì căn
bệnh này. Hơn một nửa trong số các trường hợp bị tử vong là trẻ em, đặc biệt là trẻ em
sống ở những vùng nông thôn nghèo nàn ở Châu Phi - châu lục có nhiều người mắc bệnh
sốt rét nhất (Watson và cộng sự 1995). 60 trong số 380 loài muỗi được biết đến trên thế
giới có khả năng truyền bệnh sốt rét. ở Việt Nam có khoảng 20 loài muỗi truyền bệnh sốt
rét, trong đó một số loài chính là Anophel minimus, Anophel dirus và Anophel
balabasensis … Người ta cho rằng bệnh sốt rét là căn bệnh truyền qua vector chịu ảnh
hưởng lớn nhất của sự thay đổi khí hậu, vì muỗi rất nhạy cảm với những thay đổi thời tiết.
Những thay đổi khí hậu kéo theo thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm và gió sẽ ảnh
hưởng tới vòng đời và sự phát triển của muỗi và gián tiếp ảnh hưởng tới sự lan tràn của
bệnh sốt rét.
Sốt rét do muỗi truyền thường được tìm thấy ở những vùng có nhiệt độ thấp nhất vào
mùa đông không dưới 16
0
C. Sự mở rộng của các vùng có nhiệt độ trên 16
0
C vào mùa
đông đồng thời cũng nới rộng phạm vi hoành hành của căn bệnh sốt rét và gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho sức khoẻ con người. Giữa những năm1950, nhiều quốc gia trên thế giới
tin chắc rằng họ sẽ thanh toán được căn bệnh này nhờ phun thuốc DDT liều cao để diệt
trừ muỗi Anopheles. Tuy nhiên, những quốc gia này đã chịu thất bại vì muỗi Anopheles
Hình 2 - Một số hậu quả của sự ấm lên trên toàn cầu (global warming)
và thay đ
ổi sinh thái l
ên s
ức khoẻ con ng
ư
ời


Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


23
nhanh chóng trở nên kháng thuốc và càng nguy hiểm hơn cho sức khoẻ cộng đồng. Từ
đầu những năm 1970, căn bệnh này xuất hiện trở lại ở nhiều nơi trên thế giới và dưới
dạng nguy hiểm hơn. Sự gia tăng số trường hợp bị sốt rét trong những năm gần đây một
phần là do sự ấm lên trên toàn cầu, đồng thời do con người xây dựng nhiều đập nước và
các hệ thống tưới tiêu trong nông nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho các quần thể muỗi
sinh sôi phát triển mạnh mẽ làm lây lan căn bệnh này. Theo Tổ chức Y tế Thế giới thì đến
cuối thế kỷ 21, hàng năm sẽ có thêm khoảng 50 - 80 triệu trường hợp bị sốt rét (WHO,
1996).
• Sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là căn bệnh nhiệt đới do muỗi truyền. Đây là căn bệnh nguy hiểm do
virus truyền qua muỗi vằn đốt người vào ban ngày. Khí hậu vùng nhiệt đới với nhiệt độ
giao động từ 15 đến 40
0
C và độ ẩm cao kết hợp với môi trường sống đông đúc, mất vệ
sinh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho căn bệnh này phát triển. Căn bệnh này có hai thể: Sốt
Dengue và sốt xuất huyết Dengue. Sốt Dengue có triệu chứng tương tự như cảm cúm,
thường xảy ra ở trẻ lớn, người lớn và ít khi gây tử vong. Trái lại, sốt xuất huyết Dengue là
thể thứ phát rất nguy hiểm, có xuất huyết và bệnh nhân có thể bị chết nếu không được
chẩn đoán và điều trị kịp thời (Nguyễn, 1996). Sốt xuất huyết là nguyên nhân hàng đầu
của các trường hợp nhập viện và tử vong của trẻ em ở các nước Đông Nam Á và Tây Á
Thái Bình Dương. Căn bệnh ước tính làm tổn hại tới khoảng 30 đến 60 triệu người hàng
năm (Rodhain, 1996). Ở Việt Nam, sốt xuất huyết xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành phố vào
các tháng rải rác trong năm, nhưng tập trung chủ yếu vào các tháng mùa mưa từ tháng 6
đến tháng 10 (Hoàng, 2001). Theo dự đoán của tiến sỹ Epstein thì thay đổi khí hậu là một
nguyên nhân chính gây ra sự lan tràn bệnh sốt xuất huyết. Ngày nay, sốt xuất huyết xuất
hiện khá phổ biến ở các nước Châu Á và Châu Mỹ - La Tinh. Các bằng chứng cho dự

đoán này đó là người ta đã ghi lại các trường hợp bị sốt xuất huyết ở những vùng có độ
cao lớn hơn trước, ví dụ 1.240 mét ở Trung Mỹ, 1.000 mét ở Mêhicô và 2.200 mét ở
Colômbia. Vì hiện nay, sốt xuất huyết chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như chưa có
vắc xin phòng bệnh, do đó biện pháp phòng chống tích cực chủ yếu dựa vào sự tham gia
của cộng đồng để diệt muỗi truyền bệnh.
• Viêm não truyền qua côn trùng
Đây là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm ở các nước ôn đới. Muỗi có thể
truyền một số loài virus gây các bệnh viêm não ở người. Một trong số các bệnh này là
viêm não Nhật Bản, Eastern Equine (Mỹ), Venezuelan Equine và nhiều bệnh khác. Phổ
biến nhất ở Mỹ là viêm não St. Louis. Các vụ dịch viêm não St. Louis xẩy ra ở Trung
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật


24
Đông có tương quan với các giai đoạn thời tiết có nhiệt độ cao (trên 30
0
C), đặc biệt là vào
những tháng cuối mùa đông nóng, ẩm ướt và theo sau là mùa hè hạn hán. Tác động sức
khoẻ tiêu cực mà căn bệnh này gây ra cho cộng đồng được chứng minh bằng nhiều vụ
dịch xẩy ra hàng năm, ví dụ như vụ dịch xẩy ra ở Mỹ vào năm 1975 làm 1.815 người bị
mắc (WHO, 1996). Hiện tại, căn bệnh này chỉ mới xảy ra chủ yếu ở các vùng phía Nam
nước Mỹ, tuy nhiên với tác động của sự ấm lên toàn cầu, sự biến đổi các hệ sinh thái thì
căn bệnh có xu hướng lan tràn lên một số vùng phía Bắc và có thể lên tận Canađa.
• Hantavirus
Cùng với sự gia tăng của các bệnh phổ biến đã xuất hiện từ lâu thì gần đây có sự
xuất hiện của một số bệnh truyền nhiễm mới ở một số nước trên thế giới. Nhiều loài động
vật như gặm nhấm, dơi và động vật gây hại tham gia vào sự lây truyền các bệnh truyền
nhiễm. Ví dụ, sự xuất hiện của hội chứng viêm phổi do hantavirus gây ra ở phía trên và
xung quanh vùng Navajo Indian ở Tây Nam nước Mỹ năm 1993 là có liên quan với
những biến đổi xẩy ra trong các quần thể gặm nhấm trong vùng. Hantavirus là một ví dụ

điển hình về vai trò của những thay đổi trong hệ sinh thái trong việc xảy ra các vụ dịch
bệnh truyền nhiễm trong những thập niên gần đây. Sự thay đổi khí hậu bị nghi ngờ là có
liên quan tới những biến đổi trong hệ sinh thái và góp phần làm nẩy sinh dịch bệnh này.
Hantavirus được truyền bởi chuột nhắt và con người có thể hít thở loại virus này vào
nếu trong môi trường không khí có nước tiểu hoặc phân của chuột nhắt. Dưới điều kiện
bình thường thì loài chuột nhắt ở sa mạc mang hantavirus sẽ bị kiểm soát bởi các loài thú
săn mồi trong tự nhiên. Tuy nhiên, ở vùng Tây Nam nước Mỹ năm 1991 - 1992, hiện
tượng El Nilno xẩy ra làm hạn hán kéo dài và hậu quả là làm giảm số lượng cá thể của các
quần thể chó sói đồng cỏ, quạ và rắn. Mùa xuân năm 1993, mưa nhiều hơn bình thường
làm cho cây cối và côn trùng phát triển mạnh cung cấp lượng thức ăn dồi dào cho chuột
nhắt và tạo điều kiện cho chúng phát triển sinh sôi nảy nở nhanh hơn các loài là kẻ thù
của chúng như chó sói đồng cỏ, quạ và rắn. Các quần thể chuột nhắt tăng số lượng cá thể
lên khoảng 10 đến 15 lần và với số lượng đông đảo, chúng xâm nhập vào nhiều nhà ở
vùng Tây Nam và đã dẫn tới sự gia tăng của các trường hợp mới bị mắc hội chứng
hantavirus ở phổi (HPS). Hơn 150 người đã mắc bệnh và hơn một nửa trong số họ bị chết
(theo tạp chí Y tế Công cộng của Mỹ số 85, tác giả Epstein, P. R.). Các vụ dịch HPS cũng
đã xẩy ra ở nhiều nước thuộc Châu Mỹ La tinh từ năm 1995.
3.1.2. Các bệnh truyền qua nước
Mối quan hệ giữa sức khoẻ con người với chất lượng và số lượng nước cung cấp
cũng như các vấn đề về vệ sinh môi trường là khá phức tạp. Do vậy, việc dự đoán những

×