TCNCYH 22 (2) - 2003
Cơ sở triết học phơng đông trong lý luận y học cổ
truyền phơng đông (đông y) về sức khoẻ và bệnh tật
Phạm Công Nhất
Bộ môn Mác-Lênin - Đại học Y Hà Nội
Những năm gần đây, dới ánh sáng của tri thức khoa học hiện đại, các quan niệm của chúng ta
về sức khoẻ và bệnh tật ngày càng đợc mở rộng, các phơng pháp phòng, điều trị bệnh tật và
nâng cao sức khoẻ cũng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Tuy nhiên, nếu đi sâu nghiên cứu t
tởng của ngời xa, đặc biệt là trong triết học và y học phơng Đông cổ đại, chúng ta thấy ngay từ
rất sớm, ngời phơng Đông đã xây dựng một quan niệm khá toàn diện về các vấn đề sức khoẻ và
bệnh tật: từ nội dung quan niệm, cho tới việc xây dựng các phơng pháp phòng, điều trị và nâng
cao sức khoẻ. Nghiên cứu các quan niêm của ngời xa về sức khoẻ và bệnh tật có một ý nghĩa
hết sức to lớn đối với sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay.
i. đặt vấn đề
Những năm gần đây, dới ánh sáng của tri
thức khoa học hiện đại, các quan niệm của
chúng ta về sức khoẻ (SK) và bệnh tật (BT)
ngày càng đợc mở rộng, các phơng pháp
phòng và điều trị BT cũng trở nên phong phú,
đa dạng hơn. Tuy vậy, cũng có ý kiến lại cho
rằng, thật ra những quan niệm đợc gọi là
mới của chúng ta ngày nay về BT và SK của
con ngời có lẽ cũng không hoàn toàn mới
hơn quan niệm của cha ông ta xa (đặc biệt là
trong triết học và y học Phơng Đông) về vấn
đề này, từ đó đã tạo ra những cuộc tranh luận
khá sôi nổi trong lĩnh vực nghiên cứu. Vậy thực
chất quan niệm của ngời xa về SK và BT là
gì? Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa nh thế
nào đối với sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân
dân (CSSKND) hiện nay? Đó là những vấn đề
đặt ra cho chúng ta nghiên cứu để làm sáng tỏ.
Đề tài này đợc đặt ra nghiên cứu là nhằm góp
phần làm sáng tỏ các vấn đề trên. Vấn đề quan
niệm về SK và BT của ngời xa đợc thể hiện
trong triết học và y học phơng Đông trớc đây
cũng nh hiện nay đợc nhiều tác giả cả trong
và ngoài nớc quan tâm. Tuy vậy, vì nhiều lý
do khác nhau mà kết quả nghiên cứu cha đợc
bao nhiêu. Vả lại, do việc nghiên cứu đan xen
với nhiều vấn đề khác nhau nên kết quả nghiên
cứu của các tác giả này cha thành hệ thống.
Kế thừa các kết quả đồng thời khắc phục các
nhợc điểm trong các nghiên cứu trên, chúng
tôi muốn tập trung nghiên cứu sâu hơn về vấn
đề này để tạo ra kết quả có tính hệ thống hơn.
ii. đối tợng, giới hạn và phơng
pháp nghiên cứu.
- Đề tài thực hiện với 3 mục tiêu cơ bản sau:
Xem xét một cách có hệ thống nội dung quan
niệm của ngời xa (chủ yếu là trong triết học
và y học phơng Đông) về các khái niệm SK và
BT. Xác định những u điểm và hạn chế trong
nội dung các quan niệm kể trên. Chỉ ra ý nghĩa
của các quan niệm này đối với quá trình phát
triển sự nghiệp CSSKND ở nớc ta hiện nay.
1. Đối tợng nghiên cứu đợc đề tài xác
định là toàn bộ lịch sử các t tởng trong triết
học và y học phơng Đông về SK và BT.
2. Giới hạn nghiên cứu đợc đề tài xác định là
các t tởng triết học và y học của Trung Quốc và
Việt Nam về SK và BT trong các thời kỳ cổ và
trung đại.
3. Về phơng pháp nghiên cứu, đề tài sử dụng
chủ yếu các phơng pháp lôgic - lịch sử, phân tích -
tổng hợp. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số
phơng pháp khác nh phơng pháp hệ thống - cấu
trúc, mô hình hoá.
77
TCNCYH 22 (2) - 2003
iii. kết quả và bàn luận
1. Cơ sở triết học trong lý luận y học cổ
truyền phơng đông về sức khoẻ và bệnh tật.
1.1. Nội dung trong các quan niệm về SK
và BT.
Năm 1978, tại Alma - Ata (thủ đô nớc
Cộng hoà Kazakstan thuộc Liên Xô trớc đây),
W.H.O đa ra định nghĩa: SK là trạng thái
thoải mái cả về thể chất, tâm thần và xã hội,
chứ không giới hạn trong tình trạng không có
BT hoặc không có chấn thơng (4)
Thực ra, quan niệm coi sức khoẻ con ngời
là sự thoải mái về thể chất, tâm thần và xã hội
không phải bây giờ mới xuất hiện, mà có từ rất
sớm trong triết học Phơng Đông, đặc biệt là
trong triết học Trung Quốc cổ đại. Chẳng hạn:
- Ngời trung Quốc (thời tiền cổ) cho rằng:
con ngời là loài tối linh trong vạn vật, sự tồn
tại của đời sống hiện thực con ngời không
chỉ phụ thuộc và điều kiện thể xác mà còn phụ
thuộc vào điều kiện tinh thần. SK và bệnh tật
của con ngời có liên quan tới các yếu tố: sự
cờng tráng, sự thoải mái, hay sự tổn thơng,
rối loạn về thể xác hay tinh thần của mọi ngời
Họ cho rằng: muốn nâng cao SK hay chữa
trị BT cần phải chú ý tới các yếu tố kể trên.
- Trong sách Tả truyện (thế kỷ VI tr CN) có
nói: Một lần vua nớc Trịnh bị bệnh, quan ngự
y khi khám bệnh cho nhà vua đã chẩn đoán
rằng: ốm đau là tình trạng của linh hồn nhà vua
đang chết dần (quan điểm duy tâm tôn giáo về
BT và SK). Nhng khi hỏi tới Tử Sản (một
tớng quốc của nớc Trịnh, đồng thời là một
nhà cải cách theo khuynh hớng duy vật thời
đó) về SK và BT thì Tử Sản giải thích rằng:
"Với lối sống và cách ăn uống điều độ, mừng
giận, lo nghĩ vừa phải thì không BT nào có thể
đến với ta đợc .
- Lão Tử (560 - 480 tr CN): Ham ăn, ham
uống làm khó cho thân xác, ham danh, ham lợi
làm khó linh hồn (Đạo đức kinh) [3].
- Tuân Tử (298 - 238 tr CN): Con ngời
không chỉ có khí, có sinh (sức khoẻ sinh lý -
chúng tôi thêm vào), mà còn có trí, có nghĩa
(sức khoẻ tâm thần - chúng tôi thêm vào), nên
con ngời là loài tối linh (quý nhất) trong vạn
vật (Vơng Chế) . Hoặc: Hình thể đầy đủ
sinh ra tinh thần. Sự tốt xấu có liên quan đến
các trạng thái của tinh thần, tức thất tình (hỉ,
nộ, u, bi, ố, ai, lạc) đều có đủ trong thân thể
ngời ta (Thiên Luận)[3].
- Đặc biệt, phái âm dơng gia với các
thuyết: Âm dơng ngũ hành và Thiên nhân
hợp nhất không chỉ là một thế giới quan duy
vật biện chứng, thô sơ và chất phác của ngời
phơng Đông cổ xa về con ngời và về thế
giới, mà còn là cơ sở triết học trực tiếp cho việc
hình thành và phát triển cuả lý luận y học cổ
truyền phơng Đông trong quan niệm về SK và
BT.[3].
- Theo các tác giả của sách Hoàng Đế nội
kinh thì: SK của con ngời là sự thống nhất bởi
các yếu tố âm dơng và ngũ hành tơng ứng
với từng bộ phận, chức năng hay quá trình vận
động sống của mỗi ngời. Hoặc: BT ở mỗi
ngời là sự thiên lệch của âm dơng, là sự bất
cập hay thái quá của ngũ hành tơng ứng với
từng bộ phận, chức năng hay quá trình vận
động sống của ngời đó [1].
- ở Việt Nam, Hải Thợng Lãn Ông - Lê
Hữu Trác (1724 1791), trong các tác phẩm y
học của mình cũng có quan niệm: "SK là khí
huyết lu thông, âm dơng bình hoà".[2].
Nh vậy, dù quan niệm còn đơn giản (chất
phác, ngây thơ), song cách hiểu của ngời xa
về BT và SK của con ngời cũng không nằm
ngoài 3 yếu tố:
78
TCNCYH 22 (2) - 2003
Thể chất - tâm thần - xã hội
Trên nền tảng đời sống hiện thực của từng cá nhân.
Quan niệm này về cơ bản không khác mấy
với quan niệm của W.H.O hiện nay về SK và
BT.
1.2. Quan niệm về các yếu tố tác động tới
SK và BT.
Khi bàn tới SK và BT không thể không bàn
tới các yếu tố tác động của nó. Trong y học
truyền thống phơng Tây, do ảnh hởng bởi
phơng pháp t duy siêu hình nên ngời ta vẫn
cho rằng SK và BT của mỗi ngời chỉ liên quan
trực tiếp đến các điều kiện sống của họ (ăn
uống đầy đủ dinh dỡng sẽ có SK tốt, cơ thể bị
tổn thất sẽ sinh ra BT), mặc dù quan niệm của
W.H.O những năm gần đây về vấn đề này có
đợc mở rộng hơn.
Tuy vậy, thật ngạc nhiên khi cách đây hơn
2000 năm, lý luận y học cổ truyền Phơng
Đông khi dựa vào các học thuyết "Âm dơng
ngũ hành" và "Thiên nhiên hợp nhất" đã cho
rằng: SK và BT của mỗi ngời thờng xuyên
chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó phải
kể tới 3 yếu tố chủ yếu. Đó là:
- Tố chất di truyền từ thế hệ trớc (Bẩm khí
tiên thiên)
Theo Hải Thợng Lãn Ông thì chính: Thuỷ
hoả tiên thiên là nguồn gốc sinh ra con ngời .
Quá trình đó đợc diễn đạt bằng sơ đồ sau:
Giao hợp Con cái
Nam giới (dơng) Khí giao (âm, dơng, thuỷ, hoả Nữ giới (âm)
Khí giao
nguyên khí
bẩm khí tiên thiên
Có bẩm khí tiên thiên mới phát triển thành
hình thể (thể xác) và thần thái (sắc thái, tinh
thần).
Cũng theo Hải Thợng Lãn Ông, ngời ta
nhờ có chân thuỷ, chân hoả (2 yếu tố cơ bản để
tạo ra bẩm khí tiên thiên) nên cơ thể mới có sự
ôn dỡng và nhu dỡng. Nếu âm dơng bất túc,
thuỷ hoả không cân bằng thì con ngời ta ngay
khi mới sinh ra dù có sống trong nhung lụa
cũng không tránh đợc phận chết yểu
- Sự tác động của môi trờng tự nhiên
Dựa vào các thuyết "Âm dơng ngũ hành"
và "Thiên nhân hợp nhất", lý luận Đông y cho
rằng: cơ thể con ngời và môi trờng tự nhiên
luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Vấn đề
SK và BT của con ngời do đó cũng chịu sự tác
động của môi trờng xung quanh.
+ T tởng này đợc thể hiện rất rõ trong
học thuyết về vận khí khi vận dụng vào việc
giải thích các vấn đề y học, trớc tiên là nói rõ
ảnh hởng của môi trờng khí hậu và các điều
kiện tự nhiên bên ngoài tác động đối với cơ thể
con ngời. Từ đó, lý luận Đông y chỉ ra các
nhân tố gây bệnh thông qua lý thuyết về sự tác
động qua lại giữa lục dâm - lục khí - lục tà, căn
cứ vào các tính chất khác nhau của nguyên
nhân bệnh và vận dụng thuyết "Âm dơng ngũ
hành" để giải thích, biện chứng sự phát sinh
BT, giúp cho việc chẩn đoán thuận lợi và dễ
dàng xác định đợc các nguyên tắc chữa bệnh.
+ Vì tính chất nguyên nhân bệnh không
giống nhau, thể chất của mỗi ngời cũng có sự
khác nhau nên tạng phủ kinh lạc bị bệnh hiện
ra các chứng trạng cũng khác nhau. Chẳng hạn:
Năm Đinh, năm Nhâm đều thuộc mộc vận.
79
TCNCYH 22 (2) - 2003
Nhâm là mộc vận thái quá, Đinh là mộc vận
bất cập. Mộc bất cập thì táo khí vợng thịnh ,
còn mộc thái quá thì phong khí hữu hành. Vì
vậy khi nó ảnh hởng (tác động) đến cơ thể con
ngời thì thể hiện ra các chứng trạng BT khác
nhau (Hoàng Đế nội kinh Tố vấn, thiên Giao
biến đại luận), [1].
Nh vậy, từ kinh nghiệm thực tiễn của
mình, ngời xa đã khái quát thành lý luận y
học hết sức độc đáo để chỉ ra sự tơng quan
hữu cơ giữa SK và BT của con ngời với môi
trờng bên ngoài. Điều này cũng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong công tác chẩn đoán
và điều trị của Đông y
- Sự tác động của môi trờng xã hội
Đây cũng là yếu tố đợc các nhà t tởng
phơng Đông đề cập từ rất sớm. Yếu tố xã hội ở
đây đợc hiểu trên nhiều phơng diện nh: lối
sống (thói quen sinh hoạt, ăn uống), quan hệ
giao tiếp và đặc biệt là quan hệ về lợi ích kinh
tế, chính trị. giữa các giai cấp, các tầng lớp
ngời khác nhau trong xã hội có giai cấp.
* Kinh thi: chỉ ra mối tơng quan về sản
xuất giữa nhân dân lao động với giới quý tộc
thời Tây Chu cho rằng:
Có kẻ thì nghỉ ngơi an nhàn, có kể thì vất
vả suốt ngày
Có kẻ thì không hề nghe những lời than vãn
bên ngoài, có kẻ thì khó nhọc thở không ra hơi.
Có kẻ thì nằm mát thảnh thơi, có kẻ thì việc
vua bề bộn
Có kẻ thì chè chén say sa có kẻ thì buồn
sầu lo. (Tiểu nhã), [3].
* Mặc tử (Mặc Địch): Chiến tranh, đấu
tranh bao giờ cũng dẫn tới kết cục: bọn đại
phu (quan lại) ngày càng béo tốt phè phỡn,
còn lũ dân đen thì ngày càng tiều tuỵ, xác
xơ". (Phi công), [3].
* Thiệu Tử (Khang Tiết): Bệnh tật có nặng
nhẹ khác nhau, cũng nh ngời bệnh có kẻ
sang hèn khác nhau". (Y huấn) (4)
Qua đó có thể thấy, ngời xa ngay từ rất
sớm đã đặc biệt chú ý yếu tố xã hội trong việc
đánh giá SK và BT của con ngời.
2.3. Quan niệm về các phơng pháp điều
trị BT và nâng cao SK
Dựa trên cơ sở triết học phơng Đông, lý
luận Đông y cho rằng cơ thể con ngời là một
thể thống nhất, cơ năng sinh lý của con ngời
có khả năng thích ứng với môi trờng chung
quanh. Quan điểm đó đã tạo ra nguyên tắc
toàn diện, một nguyên tắc cơ bản trong chẩn
đoán và điều trị của Đông y.
- Về chẩn đoán, Đông y với cách nhìn
chỉnh thể vận dụng lý luận cùng với phơng
pháp biện chứng (thông qua tứ chẩn (vọng, văn,
vấn, thiết) và bát cơng (biểu lý, hàn nhiệt, h
thực, âm dơng) để phân tích và suy đoán BT,
làm căn cứ cho việc phòng và điều trị BT
- Về điều trị, Đông y cho rằng bệnh tật nẩy
sinh chẳng qua chỉ là sự thiên thắng hay
thiên suy của âm dơng, sự thái quá hay bất
cập của ngũ hành. Do đó nguyên tắc trị bệnh
là điều chỉnh cân bằng sự thiên lệch của 2 mặt
âm dơng, điều chỉnh đợc sự thái quá hay bất
cập của ngũ hành, tơng ứng với từng bộ phận,
chức năng hay quá trình vận động sống của cơ
thể. Từ đó đa cơ thể con ngời từ chỗ thiên
lệch, mất cân bằng trở về trạng thái tâm - sinh -
lý bình thờng. Đó tức là chữa vào gốc bệnh
(trị bệnh tất cầu kỳ bản) Đây là phơng pháp
chữa bệnh khá độc đáo của Đông y so với các
nền y học truyền thống khác trớc đây.
- Về dự phòng BT và nâng cao SK, dựa trên
cơ sở triết học phơng Đông lý luận Đông y
cho rằng: Cơ thể con ngời là một vũ trụ thu
nhỏ (Thân nhân tiểu thiên địa). Cho nên, về
nguyên tắc trời đất có âm dơng thì có cơ thể
con ngời cũng có âm dơng (Thiên- Địa-
Nhân âm dơng tơng ứng). SK con ngời có
đợc là nhờ sự cân bằng của các yếu tố âm
dơng. Do vậy, thuận theo âm dơng thì sống,
trái với âm dơng thì loạn.
80
TCNCYH 22 (2) - 2003
Từ lý luận này, Đông y đã đề ra phơng
pháp dỡng sinh nhằm mục đích bảo trì và
nâng cao SK. Theo phơng pháp này, để nâng
cao SK và ngăn ngừa BT, con ngời cần phải ăn
uống sinh hoạt đúng phép vệ sinh, dùng thực
phẩm đầy đủ dinh dỡng, năng hoạt động thể
dục, thể thao để giữ cho cơ thể đợc cờng
tráng, khoẻ mạnh.
Đứng trên quan điểm của y học hiện đại có
thể coi phơng pháp dỡng sinh trong y học cổ
truyền phơng Đông là một phơng pháp dự
phòng và chữa bệnh tích cực (ngăn ngừa và
điều trị BT khi cha xuất hiện). Có thể coi đây
là phơng pháp chữa bệnh khá độc đáo ít thấy
trong các nền y học truyền thống khác trớc
đây.
Tóm lại, ngay từ thời cổ xa, ngời phơng
Đông đã đa ra một quan niệm khá toàn diện
về SK và BT. Có thể hiểu quan niệm đó với 3
nội dung cơ bản sau:
Một là, SK và BT của mỗi ngời không chỉ
đơn thuần là sự cờng tráng (thoải mái) hay tổn
thơng đối với thể chất mà nó còn liên quan tới
sự thoải mái hay rối loạn của các yếu tố tâm
thần và xã hội đối với từng cá nhân sống.
Hai là, SK và BT của mỗi ngời thờng
xuyên chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố trong
đó có các yếu tố cơ bản nh: tố chất di truyền,
môi trờng tự nhiên, môi trờng xã hội.
Ba là, để chữa trị BT và nâng cao SK cho
con ngời, ngời thầy thuốc phải đứng trên
quan điểm toàn diện, nghĩa là phải xem xét SK
và BT của mỗi ngời trong sự tác động bởi
nhiều yếu tố, nên các phơng pháp chẩn đoán,
điều trị và dự phòng BT phải hết sức linh hoạt,
đa dạng và hiệu quả.
Có thể nói, mặc dù các quan niệm trên đây
còn đơn giản (chất phác, ngây thơ) song nó
cũng rất gần với quan niệm của chúng ta ngày
nay về SK và BT của con ngời.
2. ý nghĩa trong quan niệm của Đông y
về SK và BT đối với sự nghiệp CSSKND
hiện nay.
- Giúp chúng ta hiểu sâu hơn về các giá trị
khoa học trong lý luận của Đông y về SK và
BT, quý trọng thêm các kinh nghiệm của cha
ông ta đối với sự nghiệp CSSKND trớc đây.
- Là động lực thúc đẩy việc đi sâu nghiên
cứu và kế thừa kinh nghiệm từ y học truyền
thống, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền
y học Việt Nam ngày càng hiện đại, song cũng
không kém phần đậm đà bản sắc dân tộc.
- Là cơ sở để hiểu và thực hiện tốt chủ
trờng kết hợp Đông - Tây y của Đảng và Nhà
nớc ta trong chiến lợc phát triển ngành y tế
nớc ta hiện nay
IV. Kết luận
1. Lịch sử triết học và y học phơng Đông
cho thấy, ngay từ rất sớm ngời phơng Đông
đã xây dựng một quan niệm khá toàn diện về
các vấn đề SK và BT của con ngời, mà những
nội dung cơ bản trong các quan niệm trên rất
gần với y học hiện đại ngày nay về SK và BT.
2. Các nội dung trong quan niệm về SK và
BT của Đông y đều xuất phát từ cơ sở trong các
quan niệm của triết học phơng Đông, qua đó
cho thấy trong sự phát triển của y học truyền
thống phơng Đông (Đông y), có sự gắn bó
chặt chẽ với các t tởng triết học phơng
Đông, đặc biệt là triết học Trung Quốc cổ,
trung đại.
3. Các kết luận trên đây cũng cho thấy, việc
nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu của nền
y học cổ truyền phơng Đông hiện nay không
thể tách rời với việc nghiên cứu và học tập một
cách có hệ thống các t tởng triết học phơng
Đông nói chung, triết học Trung Quốc cổ,
trung đại nói riêng, trong đó cần đặc biệt lu ý
tới một số học thuyết triết học có ảnh hởng và
liên quan tới lý luận Đông y nh Âm dơng
gia, Nho gia, Đạo gia v.v
81
TCNCYH 22 (2) - 2003
4. Việc làm rõ quan niệm về SK và BT trong
triết học và y học cổ truyền phơng Đông có
một ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp CSSKND
ở nớc ta hiện nay và cũng có ý nghĩa hơn khi
chúng ta đang xây dựng ngành y học y tế Việt
Nam phát triển mang đậm đà bản sắc dân tộc.
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Đế nội kinh Tố vấn (Nguyễn Tử
Siêu dịch và chú thích) (2001), Nxb. Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
2. Lê Hữu Trác - Hải Thợng y tông tâm
lĩnh (tác phẩm gồm 6 tập) (1987). Hội Y học
dân tộc thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với
Hội Y học dân tộc Tây Ninh kết hợp tái bản.
3. Nhiệm Kế Dũ (chủ biên) (1974) - Trung
Quốc triết học sử giản biên. Nhân dân xuất xã,
Bắc Kinh, (Bản tiếng Trung Quốc).
4. Phạm Công Nhất (2001) - T tởng triết
học về con ngời qua các tác phẩm Y học của
Hải Thợng Lãn Ông. Luận án Tiến sĩ triết
học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
Summary
Basic of the Orient philosopher in the Orient traditional medicine of
health and illness
Recent years, in the light of the modern scientific knowledge, own opinions of health and illness
expand more and more, methods for preventing, treating illness and improved health also become
more abundant and various. However, if going deeply to study ideology of ancient people,
especially in Philosopher and the ancient Orient medicine, we can see that established a pretty
comprehensive opinion of health and ill issues in early stage by the Orient people: coming from its
content to establish preventing, treating and developing health methods. Studying opinions of
ancient people to health and illness have a great significance into Vietnamese population's t health
care work in recent period.
82