Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Bai-giang-Luat-Ngan-hang-Ban-gui-SV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.26 KB, 60 trang )

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG
VÀ PHÁP LUẬT NGÂN HÀNG
(3 tiết)
1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngân hàng và hoạt động ngân hàng
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển hoạt động ngân hàng và các ngân hàng trên thế
giới.
(Các giai đoạn trước xem giáo trình từ trang 7 đến trang 14)
Giai đoạn từ thế kỷ XX đến nay.
Về cơ bản, hệ thống ngân hàng được tổ chức thành 2 cấp:
• Ngân hàng trung ương (ngân hàng cấp 1): vai trò, vị trí, chức năng được thể hiện khác
nhau ở các quốc gia nhưng về cơ bản có một số dấu hiệu sau:
- Là ngân hàng của các ngân hàng: cung cấp các dịch vụ tài chính, ngân hàng cho các ngân
hàng thương mại (ngân hàng cấp 2) và điều hòa lợi ích, quản lý hoạt động của các ngân hàng thương
mại và các tổ chức hoạt động ngân hàng khác.
- Ngân hàng cung cấp các dịch vụ tiền tệ, tài chính cho Chính phủ: Chính phủ là một chủ thể
đại diện cho nhà nước tiến hành tiêu dùng (chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi sự nghiệp…).
Vì thế, ngân hàng trung ương có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính tiền tệ
cho Chính phủ. Tuy nhiên, việc cung ứng các dịch vụ này phải được thực hiện trên cơ sở của quan hệ
tín dụng ngân hàng chứ không phải quan hệ mệnh lệnh – phục tùng (quan hệ hành chính) trong tổ
chức, quản lý nhà ước.
- Là cơ quan duy nhất thay mặt nhà nước phát hành tiền và cung ứng tiền vào lưu thông, thay
mặt nhà nước thực hiện chức năng quả lý tiền tệ và không được thực hiện hoạt động kinh doanh tiền
tệ; nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị đồng tiền và đảm bảo an toàn hoạt động
ngân hàng.
- Một số quốc gia, ngân hàng trung ương đảm nhận chức năng quản lý nhà nước đối với các
hoạt động tài chính tiền tệ.
• Các ngân hàng trung gian (còn gọi là các định chế tài chính trung gian – Ngân hàng cấp
2) có một số dấu hiệu pháp lý sau:
- Tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp là các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước hay


sở hữu tư nhân.
- Các ngân hàng này thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, làm trung gian thanh toán và
kinh doanh ngoại hối nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
- Các ngân hàng này không được thực hiện chức năng phát hành tiền.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển ngân hàng và hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
(Nội dung này chỉ mang tính chất giới thiệu, hướng dẫn sinh viên tìm đọc tại website:
www.sbv.gov.vn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam – Mục lịch sử Ngân hàng nhà nước Việt Nam
và giáo trình từ trang 15 đến trang 19). Giáo viên không giảng trên lớp).
1.2. Mô hình hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Trải qua nhiều lần thay đổi và từng bước hoàn thiện mô hình hệ thống ngân hàng, theo quy
định của pháp luật ngân hàng hiện hành thì mô hình hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện hành như
sau:
Trang -1-
Theo mô hình hiện hành thì có thể nhận thấy đây là mô hình hệ thống ngân hàng 2 cấp rõ nét.
Cụ thể như sau:
- Ngân hàng trung ương (mà cụ thể là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam): là cơ quan nhà nước;
là ngân hàng độc quyền phát hành tiền; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng nhằm ổn định giá trị đồng tiền và đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng nhà nước không tham gia vào quá trình kinh doanh tiền tệ với các chủ thể kinh doanh
trong nền kinh tế mà chỉ tham gia vào hoạt động cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Về vai
trò, vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chúng ta sẽ nghiên cứu cụ
thể ở chương 2.
- Hệ thống ngân hàng thương mại (còn gọi là các ngân hàng trung gian, ngân hàng cấp 2): là
các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy dộng vốn, cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình trong nền kinh tế; cung ứng dịch vụ thanh toán; hoạt động ngoại
hối và một số hoạt động ngân hàng khác theo quy định của pháp luật về ngân hàng. Hệ thống ngân
hàng thương mại tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, gắn bó, vừa cạnh tranh vừa hợp tác bình đẳng với
nhau. Về vai trò, vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chúng ta sẽ
nghiên cứu cụ thể ở chương 3.
1.3. Khái niệm, đặc điểm hoạt động ngân hàng.

1.3.1. Khái niệm hoạt động ngân hàng:
Theo quy định tại khoản 1 điều 6 Luật NHNN hoặc khản 12 điều 4 Luật các TCTD thì “Hoạt
động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây:
+ Nhận tiền gửi;
+ Cấp tín dụng;
+ Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.”.
Như vậy, khái niệm hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật ngân hàng Việt Nam
gồm 2 nội dung chính là:
- Hoạt động kinh doanh tiền tệ : đây hoạt động chính, thương xuyên và chủ yếu, là hoạt động
ngân hàng bắt buộc phải có ở tất cả các ngân hàng Việt Nam và trên thế giới, gồm các hoạt động sau:
Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
Các Tổ chức tín dụng
TCTD là
Ngân hàng
Hệ
thốn
g
Quĩ
TD
ND
Chi nhánh
NHNNVN
tỉnh, TP trực
thuộc TW
NHTM
NHCS
NH
HTX
TCTD phi

ngân hàng
Cty TC
Cty
CTTC
Các loại
khác
Mô hình hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện hành
TC
tài
chín
h vi

Trang -2-
Đi vay
+ Nhận tiền gửi: huy động tiền gửi nhàn rỗi từ các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình.
+ Cấp tín dụng: là hoạt động ngân hàng sử dụng số tiền có được từ huy động vốn để cho
vay lại đối với các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình cần vốn để sản xuất, kinh doanh.
- Cung ứng dịch vụ ngân hàng : với hoạt động chính là cung ứng dịch vụ thanh toán còn gọi
là trung gian thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác. Với vai trò là tổ chức tài chính trung gian
thực hiện các nghiệp vụ ghi nợ và ghi có để xác nhận nghĩa vụ thanh toán giữa các chủ thể của nền
kinh tế có mở tài khoản tại ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.3.2. Các đặc điểm của hoạt động ngân hàng.
a. Hoạt động ngân hàng là hoạt động có đối tượng kinh doanh là tiền tệ và cung ứng dịch
vụ thanh toán.
• Tiền tệ: (Về lịch sử tiền tệ, bản chất, chức năng của tiền tệ không đề cập trong nội dung
môn học này vì đã được nghiên cứu ở môn Kinh tế chính trị) Tiền tệ là phương tiện thanh toán, bao
gồm tiền giấy, tiền kim loại.
• Hoạt động kinh doanh tiền tệ: là hoạt động huy động tiền gửi và cấp tín dụng cho nền kinh
tế theo nguyên lý cơ bản là đưa tiền tệ từ nơi “thừa” đến nơi “thiếu” để đồng tiền có thể đi vào quá
trình sản xuất, kinh doanh tạo ra giá trị cho nền kinh tế.

Bất kỳ nền kinh tế nào cũng vậy, do có sự “lệch pha” trong việc thực hiện các mục tiêu đầu tư
(về thời gian cần vốn) nên sẽ dẫn đến tình trạng “thừa” và “thiếu” vốn trong nền kinh tế. Nhà nước
không thể sử dụng mệnh lệnh hành chính để điều tiết vốn mà phải thông qua hoạt động ngân hàng.
Chủ thể có vốn tạm thời nhàn rỗi sẽ mang tiền đến gửi tại các tổ chức tín dụng và hưởng lãi suất huy
động vốn. Chủ thể cần vốn để kinh doanh đến tại các tổ chức tín dụng để vay vốn và phải trả lại suất
cho vay – là một phần lợi nhuận có được trên cơ sở vốn vay.
• Cung ứng dịch vụ thanh toán: là hoạt động trung gian thanh toán giữa các chủ thể torng
nền kinh tế.
b. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện, được tiến hành bởi các tổ
chức tín dụng và chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
• Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện: xuất phát từ chức năng, vai trò,
vị trí của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế nói riêng và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội
nói chung, các tổ chức có hoạt động ngân hàng phải đáp ứng được các điều kiện nhất định do pháp
luật quy định.
• Hoạt động ngân hàng chỉ được tiến hành bởi các tổ chức tín dụng.
• Hoạt động ngân hàng chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
c. Hoạt động ngân hàng là hoạt động quan trọng, chi phối, ảnh hưởng các lĩnh vực kinh
tế-xã hội khác.
- Hoạt động ngân hàng chính là một kênh quan trọng để nhà nước điều tiết lượng tiền mặt
trong lưu thông phù hợp với quy luật lưu thông tiền tệ, đảm bảo điều kiện không thiếu tiền nhưng
cũng không thừa tiền quá mức. Cả “thiếu” hay “thừa” tiền đều có những tác động không tốt đối với
nền kinh tế.
- Hoạt động ngân hàng nâng cao khả năng sự dụng hiệu quả đồng vốn trong nền kinh tế: với
chức năng huy động vốn nhàn rỗi và cấp tín dụng lại cho nền kinh tế đã làm tăng khả năng và hiệu
quả sử dụng đồng vốn trong nền kinh tế.
- Hoạt động ngân hàng thúc thẩy các quan hệ kinh tế phát triển lành mạnh, tích cực.
- Hoạt động ngân hàng là phong vũ biểu thể hiện tính lành mạnh hay rủi ro của nền kinh tế.
d. Hoạt động ngân hàng mang tính rủi ro cao:
- Hoạt động ngân hàng là “chỗ trũng” của nền kinh tế do mội rủi ro trong nên kinh tế đều
“chảy” về ngân hàng.

- Hoạt động ngân hàng mang tính cạnh tranh cao giữa các ngân hàng trong hệ thống ngân
hàng.
Trang -3-
Ngân hàng
Thừa
vốn
Gửi tiền
Thiếu vốn
- Hoạt động ngân hàng chứa đựng rất nhiều nghiệp vụ tài chính, tiền tệ phát sinh, khả năng dự
báo, phân tích các biến động của nền kinh tế đòi hỏi người hoạt động ngân hàng phải có trình độ nhất
định cùng với những “may mắn” cần thiết.
- Hoạt động ngân hàng có liên hệ mật thiết với các hoạt động tài chính tiền tệ khác vốn có tính
rủi ro tự thân như thị trường chứng khoán, thị trường vàng, thị trường dầu mỏ, thị trường bất động
sản…
e. Hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính “nhạy cảm” với các biến động của kinh
tế- chính trị- xã hội.
Hoạt động ngân hàng dễ chịu sự tác động của các quy luật mang tính nhạy cảm như: quy luật
lây lan, tâm lý đám đông (Ví dụ: tình trạng rút tiền hàng loạt ở một số ngân hàng như Á Châu ACB
năm 2003), Quy luật tương hỗ (có mối quan hệ chặt chẽ với các thị trường tài chính, tiền tệ), quy luật
cung cầu…
f. Hoạt động ngân hàng mang tính liên kết thành hệ thống, giữa các chủ thể hoạt động
ngân hàng phải có sự hợp tác song hành với cạnh tranh.
• Tính hợp tác, liên kết thành hệ thống giữa các hoạt động ngân hàng : hoạt động ngân hàng
đều có chung đối tượng tác động là tiền tệ và dựa trên những nền tảng cơ bản của quy luật lưu thông
tiền tệ. Các tổ chức tín dụng đều có chung đối tượng tác động và mục đích kinh doanh trên cùng một
thị trường. Vì vậy, để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, hoạt động ngân hàng trong hệ thống ngân
hàng có mối liên hệ, hợp tác và gắn bó với nhau.
• Tính cạnh tranh giữa các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng : cũng với lý do có cùng
chung đối tượng tác động và lĩnh vực kinh doanh, vì vậy điều tất yếu trong kinh doanh là các ngân
hàng phải cạnh tranh để giành giật khách hàng và phạm vi ảnh hưởng. Sự cạnh tranh là tất yếu trong

điều kiện của nền kinh tế thị trường.
2. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT NGÂN HÀNG.
2.1. Khái niệm luật ngân hàng.
2.1.1. Các quan điểm khác nhau về Luật Ngân hàng (Xem giáo trình từ trang 30 đến
trang 36).
2.1.2. Khái niệm Luật Ngân hàng.
Trên cơ sở tiếp cận các quan điểm khác nhau về luật ngân hàng và thực tiễn khoa học luật
ngân hàng hiện nay ở Việt Nam chúng ta có thể hiểu luật ngân hàng là một bộ phận cấu thành hệ
thống pháp luật quốc gia, bao gồm tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình nhà nước tổ chức, quản lý hệ thống ngân hàng và các quan hệ phát sinh
trong quá trình hoạt động ngân hàng.
2.2. Đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng: (Xem giáo trình từ trang 36 đến trang 40)
Căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội do Luật ngân hàng điều chỉnh và phương thức tác
động của pháp luật, đối tượng điều chỉnh của Luật ngân hàng gồm hai nhóm chính:
• Nhóm 1: Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động
ngân hàng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
• Nhóm 2: Nhóm các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản trị, điều hành của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam; thủ tục, trình tự thành lập, hoạt động, giải thể, cơ cấu tổ chức, điều
hành, quản trị của các tổ chức tín dụng, các chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng.
• Nhóm 3: Các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động ngân hàng. Đây
là nhóm quan hệ chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật ngân hàng, giữ vai trò trung tâm của tất cả
các quan hệ pháp luật ngân hàng còn lại.
2.3. Phương pháp điều chỉnh của luật ngân hàng (Xem giáo trình từ trang 40 đến trang 44).
Căn cứ vào các quan hệ pháp luật ngân hàng đã được trình bày ở mục 2.3 nói trên, để đạt được
mục đích trong mỗi nhóm quan hệ, pháp luật ngân hàng có 2 phương pháp điều chỉnh chủ yếu:
• Phương pháp mệnh lệnh – quyền uy: dùng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa một
bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền với một bên là các chủ thể còn lại cùng tham gia vào hoạt
động ngân hàng.
• Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận: là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sư – kinh tế -
thương mại làm cơ sở để các chủ thể đạt được lợi ích của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp

Trang -4-
luật. Theo đó, các chủ thể được quyền bình đẳng với nhau (về tư cách pháp lý, về quyền và nghĩa
vụ…) trong việc đưa ra các thỏa thuận nhằm tìm kiếm giải pháp dung hòa lợi ích cho các bên.
2.4. Nguồn của Luật Ngân hàng (Xem giáo trình từ trang 44 đến trang 49)
3. QUAN HỆ PHÁP LUẬT NGÂN HÀNG.
3.1. Khái niệm quan hệ pháp luật ngân hàng.
Trên cơ sở lý luận chung đó, có thể đưa ra khái niệm quan hệ pháp luật ngân hàng như sau:
Quan hệ pháp luật ngân hàng là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước
về tiền tệ và ngân hàng, trong quá trình tổ chức và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín
dụng, trong quá trình hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác được các qui phạm pháp luật
ngân hàng điều chỉnh.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật ngân hàng.
• Đối tượng tác động của quan hệ pháp luật ngân hàng là tiền tệ và các chứng từ có giá.
• Một bên chủ thể của quan hệ pháp luật ngân hàng luôn là Ngân hàng nhà nước Việt Nam
hoặc là các tổ chức tín dụng (gồm tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng).
3.2. Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật ngân hàng (Xem giáo trình từ trang 50 đến
trang 51)
4. Nguyên tắc của Luật NH (Xem giáo trình từ trang 52 đến trang 59)
---Hết chương 1---
Trang -5-
CHƯƠNG II
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
(6 tiết)
Mặc dù có những đặc thù riêng, nhưng về cơ bản ngân hàng trung ương các quốc gia được tổ
chức theo 3 mô hình chủ yếu:
a. Mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc Quốc hội (độc lập với Chính phủ):
Mô hình ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ xuất phát từ quan điểm cho rằng mọi
vấn đề quan trọng hàng đầu tác động đến đời sống của nhân dân phải do Quốc hội/Nghị viện quyết
định.
Đại diện tiêu biểu cho mô hình này là: Hệ thống dự trữ liên bang Hoa kỳ (FED) và Ngân hàng

dự trữ Liên bang Đức trực thuộc Nghị viện.
• Ưu điểm của mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc Quốc hội:
- Đảm bảo tính độc lập nhất định đối với Chính phủ trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ
của ngân hàng trung ương do Quốc hội giao.
- Ngân hàng trung ương toàn quyền quyết định việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ,
chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất mà không bị ảnh hưởng bởi áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc
các áp lực chính trị khác.
- Tránh được tình trạng ngân hàng trung ương phải lo cho ngân sách nhà nước khi thâm hụt
ngân sách nhà nước xảy ra.
• Hạn chế của mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc Quốc hội: Với mô hình này tạo
nên sự thiếu đồng bộ trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của chính phủ và ngân hàng
trung ương.
b. Mô hình ngân hàng trung ương thuộc chính phủ:
QUỐC HỘI
NGÂN HÀNG
TRUNG ƯƠNG
CHÍNH PHỦ
BỘ VÀ CÁC CƠ
QUAN NGANG BỘ
CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ XÃ HỘI
Trang -6-
Mô hình ngân hàng trung ương thuộc chính phủ hình thành trên cơ sở lý luận coi chính chính
sách tín dụng – tiền tệ là một bộ phận trong chính sách phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Hai
mục tiêu này có mối quan hệ biện chứng, tương hỗ tác động qua lại với nhau. Theo đó, ngân hàng
trung ương chịu sự chỉ đạo và chịu trách nhiệm trực tiếp trước chính phủ trong việc điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia.
• Ưu điểm của mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ:
- Giúp chính phủ thống nhất, phối hợp đồng bộ các chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách
tiền tệ ngân hàng, nhằm đạt được mục tiêu kinh tế, xã hội chung.
- Đảm bảo sự giám sát thường xuyên của chính phủ và kịp thời can thiệp để đảm bảo hài hòa

các lợi ích, hạn chế tình trạng “lạm dụng” vai trò, vị trí của mình và thiếu sự hợp tác với chính phủ.
- Giúp chính phủ nắm trong tay nguồn lực tài chính ổn định, tập trung của nên kinh tế để thực
hiện các mục tiêu mà chính phủ đặt ra.
• Nhược điểm của mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ: Chính là các ưu
điểm của mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc Quốc hội.
- Sự can thiệp quá mức của chính phủ đối với ngân hàng trung ương.
- Hoạt động phát hành tiền có thể bị lạm dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước.
c.Ngân hàng trung ương thuộc Bộ Tài chính:
QUỐC HỘI
CHÍNH PHỦ
NGÂN HÀNG
TRUNG ƯƠNG
BỘ VÀ CÁC CƠ
QUAN NGANG BỘ
CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ XÃ HỘI
QUỐC HỘI
CHÍNH PHỦ
CÁC BỘ, CƠ
QUAN
NGANG BỘ
BỘ TÀI
CHÍNH
NGÂN HÀNG
TRUNG
ƯƠNG
CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ XÃ HỘI
QUỐC HỘI
CHÍNH PHỦ
CÁC BỘ, CƠ
QUAN

NGANG BỘ
BỘ TÀI
CHÍNH
NGÂN HÀNG
TRUNG
ƯƠNG
CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ XÃ HỘI
HOẶC
Trang -7-
Mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc Bộ Tài chính xem ngân hàng trung ương là một bộ
phận quản lý chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Mô hình này xem việc phát hành tiền là một
nhiệm vụ của ngân sách nhà nước mà không tuân thủ theo quy luật của cung cầu tiền tệ và hoạt động
quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng gắn liền với nhiệm vụ quản lý quỹ ngân sách nhà nước cũng
như thực hiện ngân sách nhà nước.
Mô hình này tồn tại rất nhiều hạn chế do sự hợp nhất giữa chức năng quản lý, điều hành hoạt
động phân phối, tạo lập nguồn ngân quỹ cho việc duy trì bộ máy nhà nước và bảo vệ sự tồn tại cũng
như lợi ích của giai cấp thống trị của Bộ Tài chính với chức năng quản lý tiền tệ và hoạt động ngân
hàng của ngân hàng trung ương. Điều đó làm mất tính độc lập của ngân hàng trung ương trong quản
lý tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Với những phân tích trên đây, có thể nhận thấy mỗi một mô hình ngân hàng có tồn tại các ưu
điểm và nhược điểm nhất định. Việc lựa chọn mô hình nào tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi
quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
1. KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA NHNNVN.
1.1. Khái niệm Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
a. Khái niệm NHNNVN:
Luật NHNNVN 2010 không đưa ra khái niệm cụ thể về NHNNVN mà chỉ liệt kê các dấu hiệu
pháp lý cơ bản quy định tại điều 2 Luật NHNNVN. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm
cơ bản về NHNNVN như sau: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ, có tư cách
pháp nhân, có trụ sở chính, có vốn pháp định thuộc quyền sở hữu nhà nước, thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; có chức năng phát hành tiền, ngân hàng của

các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Trên cơ sở khái niệm, chúng ta nhận thấy rằng, mặc dù cũng là một ngân hàng nhưng
NHNNVN khác so với các ngân hàng thương mại. Điều đó được thể hiện qua vai trò, vị trí và chức
năng của nó trong hệ thống ngân hàng.
b. Đặc điểm của NHNNVN :
• Thứ nhất, NHNNVN là cơ quan của Chính phủ (còn gọi là cơ quan ngang Bộ).
Đây là đặc điểm cơ bản của mô hình ngân hàng trung ương trược thuộc Chính phủ. Tại điều 1
Luật NHNNVN quy định “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ” – là một cơ
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ ngân hàng cao nhất của nước CH XHCN Việt Nam.
Vị trí của NHNNVN trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý
hành chính nhà nước chứ không chỉ đơn thuần là một ngân hàng. Cần lưu ý một số nội dung sau đây:
- Cơ cấu tổ chức của NHNNVN không như một ngân hàng thương mại mà được tổ chức theo
mô hình một Bộ của Chính phủ (Chương II Luật NHNNVN Điều 1 NĐ 96/2008/NĐ-CP).
- Mục tiêu hoạt động của NHNNVN không hướng đến mục tiêu lợi nhuận mà chức hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước hướng đến lợi ích chung, lợi ích nhà nước.
- Bên cạnh tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể thường thì NHNNVN còn
tham gia vào quan hệ pháp luật ngân hàng với tư cách là chủ thể có quyền lực.
- Mặc dù là một cơ quan của Chính phủ nhưng NHNNVN vẫn phải chịu sự giám sát và chịu
trách nhiệm trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội với tư cách độc lập.
• Thứ hai, NHNNVN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động
ngân hàng và ngoại hối.
“Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền
tệ cho Chính phủ; Hoạt động của NHNNVN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 1 Luật NHNNVN).
Khi đề cập đến đặc điểm này cũng cần phân biệt chức năng của NHNNVN với chức năng của
Bộ Tài chính, tránh tình trạng nhầm lẫn, phân bổ chồng chéo về chức năng. Theo quy định tại điều 1
Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày 01/7/2003 thì “Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về tài chính, ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân

sách nhà nước, dự trữ quốc gia, các quỹ tài chính nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp
Trang -8-
và hoạt động dịch vụ tài chính (gọi chung là lĩnh vực tài chính - ngân sách), hải quan, kế toán, kiểm
toán độc lập và giá cả trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh vực tài
chính - ngân sách, hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập và giá cả”. Như vậy có sự tách bạch rõ giữa
chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ với chức năng quản lý nhà nước về ngân sách và loại trừ quan
điểm coi NHNNVN là “máy in tiền” của Chính phủ. Trong trường hợp ngân sách nhà nước thâm hụt
thì Chính phủ hay Bộ tài chính cũng chỉ là một “khách hàng” của NHNNVN trong hoạt động cấp tín
dụng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc “Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách trung ương để
xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản
tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quyết định" (Điều 32 Luật NHNNVN sửa đổi 2003).
• Thứ ba, NHNNVN là ngân hàng trung ương.
Là trung tâm của toàn bộ hệ thống ngân hàng, NHNNVN là ngân hàng trung ương giữ vai trò
điều tiết, chi phối hệ thống ngân hàng thông qua các nghiệp vụ ngân hàng trung ương: nghiệp vụ tín
dụng, nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ ngoại hối, nghiệp vụ thanh toán qua hệ thống ngân hàng…
Với tư cách là ngân hàng trung ương, NHNNVN thực hiện một số hoạt động sau đây:
- NHNNVN là ngân hàng độc quyền phát hành tiền.
- Cấp tín dụng thông qua hình thức tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng thông qua hình thức
tái cấp vốn, cho vay trong tình trạng khẩn cấp.
• NHNNVN là một tổ chức có tư cách pháp nhân, có vốn pháp định.
- Về tư cách pháp nhân của NHNNVN:
+ Được thành lập hợp pháp: ngày 6/5/1951, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban
hành Sắc lệnh số 15 – SL về việc thành lập Ngân hàng Quốc gia VN.
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó.
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
- Về vốn pháp định của NHNNVN: Nguồn vốn này do nhà nước trích từ ngân sách nhà nước
và chuyển giao quyền sử dụng cho NHNNVN.
- Theo đó, tại điều 9 Nghị định số 07/2006/NĐ-CP ngày 10/1/2006 của Chính phủ về chế độ

tài chính đối với NHNNVN thì “Mức vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước là 5.000 (năm ngàn) tỷ
đồng. Việc thay đổi mức vốn pháp định này do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Bộ trưởng Bộ Tài chính”.
• Chế độ tài chính của NHNNVN mang tính độc lập: được quy định cụ thể tại Nghị
định số 07/2006/NĐ-CP ngày 10/1/2006 của Chính phủ về chế độ tài chính đối với NHNNVN.
• Mục tiêu hoạt động của NHNNVN: ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHNNVN: (Nội dung này bao gồm cả mục
1.2 và mục 1.3 từ trang 67 đến trang 75 – Giáo trình). NHNNVN vừa có chức năng của một cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng, vừa thực hiện chức
năng của ngân hàng trung ương đối với hoạt động ngân hàng của hệ thống các tổ chức tín dụng. Theo
quy định tại điều 5 Luật NHNNVN thì NHNNVN có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
2. CƠ CẤU TỔ CHỨC, LÃNH ĐẠO VÀ ĐIỀU HÀNH NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM.
2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy NHNNVN: theo cơ cấu ngành dọc gồm: “Ngân hàng Nhà nước
được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất, gồm bộ máy điều hành và các đơn vị hoạt động nghiệp vụ tại trụ
sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị trực thuộc khác”
1
a) Trụ sở chính: Là một cơ quan ngang bộ, chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân
hàng, NHNNVN đặt trụ sở tại Hà Nội – thủ đô của nước công hòa XHCN Việt Nam – như các bộ và
cơ quan ngang khác. Trụ sở chính là trung tâm điều hành toàn bộ hoạt động của NHNNVN.
b) Các chi nhánh NHNNVN: là đơn vị phụ thuộc NHNNVN, được quyền thực hiện một số các
chức năng, nhiệm vụ của NHNNVN do thống đốc giao. Toàn bộ hoạt động của các chi nhánh đặt
dưới sự quản lý, điều hành thống nhất của thống đốc NHNNVN.
1
Khoản 1 Điều 7 Luật NHNNVN
Trang -9-
Một vấn đề cần lưu ý là chi nhánh NHNNVN không có tư cách pháp nhân mà hoạt động trên
tư cách pháp lý của NHNNVN. Chi nhánh không phải là một cơ quan quản lý nhà nước ở địa
phương. Vì vậy, chi nhánh không phải là cơ quan cùng cấp hay cấp dưới của chính quyền địa
phương, mặc dù được đặt tại địa phương (thường là các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).

Về vị trí pháp lý: Theo quy định tại điều 1 Quy chế tổ chức và hoạt động của NHNNVN và
chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành kèm theo Quyết định 1440/2004/QĐ-
NHNN của thống đốc NHNNVN ngày 8/11/2004 thì “Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng Nhà nước, chịu sự lãnh đạo và điều
hành tập trung, thống nhất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; có nhiệm vụ thực hiện một số nội
dung thuộc chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, và trực tiếp thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng Trung ương theo sự
uỷ quyền của Thống đốc”.
c) Văn phòng đại diện trong và ngoài nước: văn phòng đại diện NHNNVN là đơn vị phụ
thuộc của NHNNVN có nhiệm vụ đại diện theo sự ủy quyền của Thống đốc. Văn phòng đại diện
không được tiến hành các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng. Văn phòng đại diện ngân hàng nhà nước
được đặt ở tỉnh thành lớn và ở nước ngoài.
d) Các cơ quan giúp việc.
• Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng
2
:
− Vị trí pháp lý: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là cơ quan trực thuộc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) thực hiện chức năng thanh tra hành chính,
thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân
hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
• Vụ tổng kiểm soát
3
(theo Nghị định số 96/2008/NĐ-CP đổi tên thành Vụ Kiểm toán nội bộ
nhưng đến thời điểm này chưa ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ kiểm toán nội bộ):
− Về vị trí pháp lý: Vụ Tổng kiểm soát là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà
nước, có chức năng tham mưu giúp Thống đốc tổ chức thực hiện kiểm soát hoạt động và kiểm
toán nội bộ đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước. Vụ Tổng kiểm soát chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của Thống đốc. Điều hành hoạt động của Vụ Tổng kiểm soát là Vụ truởng, giúp việc Vụ

truởng có một số Phó Vụ truởng; Vụ trưởng và các Phó Vụ trưởng do Thống đốc bổ nhiệm. Tổ
chức và hoạt động của Vụ Tổng Kiểm soát thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ
thủ trưởng.
Lưu ý: Cần phân biệt chức năng, phạm vi và mục đích của thanh tra ngân hàng và vụ tổng kiểm
soát.
e) Ngoài ra còn các cơ quan khác sinh viên/học viên xem thêm trong giáo trình.
2.2. Cơ cấu lãnh đạo, điều hành NHNNVN:
a) Thống đốc NHNNVN: Theo quy định điều 8 Luật NHNNV thì “Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu và lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước; chịu trách nhiệm trước
Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng”. Theo quy định
tại điều 3 và điều 4 Luật tổ chức Chính phủ nằm 2002 thì trên cơ sở đề nghị của của Thủ tướng chính
phủ, Quốc hội sẽ phê chuẩn chức danh Thống đốc ngân hàng nhà nước, Chủ tịch nước tiến hành bổ
nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức hoặc chấp nhận việc từ chức Thống đốc ngân hàng nhà nước.
Theo đó, Thống đốc NHNNVN chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, trước Chủ tịch nước, trước Quốc
hội về quản lý nhà về tiền tệ, ngân hàng trong phạm vi cả nước.
• Nhiệm vụ, quyền hạn của Thống đốc NHNNVN: Xem khoản 2 điều 8 Luật NHNN
2.3. Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia (Không trực thuộc NHNNVN):
2
Xem Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNNVN. Theo đó, Cơ quan thanh tra,
giám sát ngân hàng được tổ chức lại trên cơ sở Thanh tra ngân hàng.
3
Xem thêm Quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ Tổng kiểm soát Ban hành theo Quyết định số 1128/ 2004/QĐ-NHNN ngày
09 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trang -10-
Để phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam và giải quyết được mối quan hệ giữa Chính phủ
với NHNNVN trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, Luật NHNNVN ngày
12/12/1997 đã bãi bỏ quy định về Hội đồng quản trị trong NHNNVN và thay thế bằng Hội đồng tư
vấn chính sách tiền tệ quốc gia. Theo đó, Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia là một cơ quan
tư vấn chính sách tiền tệ cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và NHNNVN, không thuộc cơ cấu tổ

chức của NHNNVN mà trực thuộc Chính phủ
4
.
a) Vị trí của Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia: là một cơ quan do Chính phủ thành
lập và chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Với chức năng này, Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia hoạt động hoàn toàn độc lập
với NHNNVN và chỉ hướng đến mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia do Chính phủ giao. Đây là một
quy định khá hợp lý nhằm đảm bảo tính độc lập so với NHNNVN. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng,
Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia không được can thiệp trực tiếp vào hoạt động của
NHNNVN mà chỉ được quyền kiến nghị, tham vấn cho Chính phủ để Chính phủ can thiệp.
b) Cơ cấu tổ chức của Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia
5
.
c) Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia: xem quy định tại
điều 2, Quyết định số Quyết định số 175 /2007/QĐ-TTg ngày 19/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ
về việc thành lập Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia và điều 3 Quyết định số
176 /2007/QĐ-TTg ngày 19/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành quy chế làm việc của
Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia.
Kết luận chung: trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến Hội đồng Tư vấn
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, có thể đưa ra một số kết luận sau đây:
− Hội đồng chính sách tiền tệ ở Việt Nam là một cơ quan do Chính phủ thành lập, không
thuộc cơ cấu tổ chức, lãnh đạo điều hành NHNNVN (tuy nhiên cần lưu ý Kinh phí hoạt động của
Hội đồng do Ngân hàng Nhà nước đáp ứng và được hạch toán vào chi phí nghiệp vụ của Ngân
hàng Nhà nước; Các thành viên Hội đồng và Tổ Thư ký giúp việc của Hội đồng được hưởng thù
lao do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định
6
).
− Hội đồng chính sách tiền tệ ở Việt Nam mang đặc tính là cơ quan chuyên môn, không phải
là cơ quan quyền lực với chức năng chủ yếu là tư vấn chứ không có thẩm quyền quyết định.
− Hoạt động của Hội đồng chính sách tiền tệ trên nguyên tắc tư vấn nhằm định hướng cho

NHNNVN điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
3. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHNN.
3.1. Xây dựng dự án và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
a) Khái niệm, đặc điểm chính sách tiền tệ quốc gia:
Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Luật NHNNVN thì “Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định
về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng
tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”.
Trên cơ sở khái niệm đó, có thể khái quát một số đặc điểm sau đây:
• Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính:
Toàn bộ nền kinh tế muốn vận hành tốt thì cần phải có sự phối hợp thống nhất của rất nhiều
chính sách, trong đó chính sách tiền tệ quốc gia là “bà đỡ” cho chính sách kinh tế xã hội vì nó giữ vai
trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Khẳng định đúng vị trí của chính sách tiền tệ quốc có ý nghĩa trong việc tổ chức xây dựng và
tổ chức thực hiện nó trên thực tiễn, hạn chế tình trạng quá đề cao hoặc xem nhẹ chính sách tiền tệ
trong mối quan hệ với các chính sách khác trong chính sách kinh tế - tài chính.
• Mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ là nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm
phát.
Phần mở rộng: Cũng cần phải phân biệt chính sách tiền tệ quốc gia với chính sách tài chính
quốc gia. Nếu chính sách tài chính quốc gia chỉ tập trung vào thành phần, kết cấu của các mức chi
4
Điều 4 Luật NHNNVN năm 1997.
5
Điều 4 Quyết định số 175 /2007/QĐ-TTg ngày 19/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng tư vấn
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia.
6
Điều 10 Quyết định số 176 /2007/QĐ-TTg ngày 19/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành quy chế làm việc của Hội đồng tư vấn
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia.
Trang -11-
phí, thuế khóa của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào việc giải quyết khả năng
thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu

thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng, đáp ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện và
thúc đầy hoạt động của thị trường tiền tệ cùng với việc kiểm soát tỷ giá hối đoái nhằm mục tiêu cuối
cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả của hàng hóa.
• Chủ thể thực hiện nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
(Xem trang 87 – Giáo trình).
b) Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia:
Để đạt được các mục tiêu đó, nghiệp vụ cơ bản của NHNNVN là “bơm” và “rút” tiền ra khỏi
lưu thông trong nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ được pháp luật quy định như: tái cấp vốn, lãi
suất, tỉ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở… Các nghiệp vụ “bơm” và “rút” tiền
nói trên hướng đến: điều tiết khối lượng tiền tệ, điều tiết tín dụng và điều tiết ngoại hối một cách có
chủ đích nhằm đạt được mục tiêu do chính sách tiền tệ quốc gia đặt ra trong từng giai đoạn nhất định.
Các công cụ cơ bản mà NHNNVN sử dụng để điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia gồm:
b1) Công cụ tái cấp vốn.
• Khái niệm tái cấp vốn: Theo quy định tại khoản 1 điều 11 Luật NHNNVN 1997 thì “Tái
cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHNN nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh
toán cho tổ chức tín dụng”.
• Mục đích tái cấp vốn:
− Phát hành thêm tiền vào lưu thông.
− Bổ sung thêm vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng có hoạt động ngân hàng một cách
thường xuyên.
− NHNNVN là cứu cánh cuối cùng khi các ngân hàng thương mại gặp những khó khăn bất
khả kháng.
• Các hình thức tái cấp vốn: theo quy định tại điều 17 Luật NHNNVN thì có 3 hình thức tái
cấp vốn:
− Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;
− Chiết khấu giấy tờ có giá;
− Các hình thức tái cấp vốn khác.
b2) Quy định về dự trữ bắt buộc:
• Khái niệm dự trữ bắt buộc: Theo quy định tại điều 20 Luật NHNNVN thì: “Dự trữ bắt
buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ

quốc gia”. Qua đó, chung ta có thể hiểu dự trữ bắt buộc là phần % tiền gửi (trên tỷ lệ vốn huy động)
mà các tổ chức tín dụng phải đưa vào dự trữ theo luật được gửi trực tiếp tại tài khoản của NHNNVN
hoặc tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung ương về về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền
gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ, các ngân hàng thương mại có thể giữ tiền
mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này.
• Mục đích dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc được NHNNVN sử dụng để điều tiết mức cung
tiền thông qua việc tác động đến vốn khả dụng của các tỗ chức tín dụng và lãi suất trên thị trường tiền
tệ.
b3) Tỷ giá hối đoái (Điều 13 Luật NHNN):
• Khái niệm: Khoản 3 điều 6 Luật NHNN quy định “Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá của
một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam”. Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt
là tỷ giá) theo nghĩa thông thường là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của hai nước khác
nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền
khác. Thông thường tỷ giá hối đoái được biểu diễn thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn vị đồng tiền nước
này (nhiều hơn một đơn vị) bằng một đơn vị đồng tiền của nước kia.
• Cơ chế tác động của tỷ giá hối đoái: NHNNVN sử dụng tỷ giá hối đoái nhằm mục tiêu làm
tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông cung như thực hiện nhiệm vụ điều tiết cán cân xuất nhập
khẩu trong từng giai đoạn nhất định.
b4) Công cụ lãi suất tín dụng:
Trang -12-
• Khái niệm lãi suất: dưới góc độ kinh tế lãi suất được hiểu là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả
so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hay nói một cách khác lãi suất là giá
mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có
được đối với việc trì hoãn chi tiêu. Theo đó, điều 12 Luật NHNNVN quy định “ngân hàng Nhà nước
xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”.
• Các loại lãi suất: Dưới góc độ nghiệp vụ của ngân hàng trung ương, chúng ta chủ yêu quan
tâm đến 2 loại lãi suất là lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn:
− Lãi suất cơ bản: Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn.
− Lãi suất tái cấp vốn: Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do NHNNVN áp dụng khi tái cấp vốn

theo quy định của pháp luật.
• Tác động của công cụ lãi suất: như trên đã phân tích, lãi suất cơ bản là cơ sở để các ngân
hàng thương mại ấn định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay- hai nghiệp vụ quan trọng làm
giảm hoặc tăng lượng tiền trong lưu thông.
b5) Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
• Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở: Theo quy định tại điều 15 Luật NHNNVN thì Nghiệp
vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng. Thông qua nghiệp vụ
thị trường mở, NHNNVN đã trực tiếp hoặc gián tiếp điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh
hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng
tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
• Ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở:
− Nghiệp vụ thị trường mở có tính linh hoạt về mặt khối lượng lẫn thời điểm can thiệp.
− Thời gian triển khai thực hiện nghiệp vụ thị trường mở diễn ra nhanh chóng, linh hoạt do
tham gia trực tiếp vào thị trường mà không thông qua một ngân hàng hoặc một định chế tài chính
trung gian nào khác.
− Có thể thay đổi nhanh chóng nghiệp vụ “mua” và “bán” khi nhận thấy sự sai lầm trong thực
hiện nghiệp vụ thị trường mở.
Nhận xét chung về các công cụ: trong các công cụ điều hành chính sách tiền tệ nêu trên, mỗi công cụ
có đặc điểm riêng, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn khác nhau. Tuy
nhiên, theo xu hướng phát triển, việc vận dụng các công cụ cũng ngày càng thích ứng hơn để đáp ứng
với yêu cầu của cơ chế quản lý mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Vì vậy, những công cụ mềm
dẻo, có tính linh hoạt cao sẽ là những công cụ được sử dụng phổ biến như là nghiệp vụ thị trưởng mở,
lãi suất. trong khi đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng ngày càng được áp dụng một cách rất
cẩn trọng do sự cứng nhắc, mang tính mệnh lệnh của nó.
3.2. Hoạt động phát hành tiền.
a) Khái niệm hoạt động phát hành tiền: hoạt động phát hành tiền là phương thức mà
NHNNVN bơm tiền vào lưu thông thông qua các nghiệp vụ cơ bản của NHNNVN. Nói một cách dễ
hiểu, phát hành tiền là đưa tiền in sẵn từ trong kho vào lưu thông để đáp ứng các nhu cầu tiền mặt
của nền kinh tế, xã hội. Cũng cần phân biệt khái niệm hoạt động phát hành tiền với khái niệm hạt
động in đúc tiền. Phát hành tiền là việc cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh toán. Còn

việc in, đúc tiền chỉ dừng lại ở việc tạo ra đồng tiền về mặt vật chất chứ chưa tạo ra giá trị của đồng
tiền trong lưu thông.
b) Các nguyên tắc phát hành tiền:
Hoạt động phát hành tiền có tác động rất lớn đến giá cả (thường là lạm phát). Vì vậy, để đạt
được các yêu cầu đặt ra phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia, hoạt động phát hành tiền phải tuân
thủ các nguyên tắc sau đây:
• Nguyên tắc cân đối: nguyên tắc này yêu cầu khối lượng tiền mặt phát hành phải cân đối với
nhu cầu của nên kinh tế theo nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ. Việc mất cân đối trong hoạt
động phát hành tiền đều tác động không tốt đến nền kinh tế:
• Nguyên tắc bảo đảm: Với tính chất là tiền mang giá trị tượng trưng, vì vậy lượng tiền giấy
phát hành vào lưu thông phải được bảo đảm bằng giá trị vật chất làm cho sức mua của đồng tiền mới
được ổn định. Các cơ chế bảo đảm gồm:
Trang -13-
c) Các phương thức phát hành tiền của NHNNVN:
• Phát hành tiền thông qua ngân hàng trung gian (còn gọi là cho vay theo hình thức tái
cấp vốn đối với các ngân hàng).
• Thông qua nghiệp vụ thị trường mở: bằng các nghiệp vụ mua các giấy tờ có giá (đã được
trình bày ở phần nghiệp vụ thị trường mở của NHNNVN). Khi các tổ chức tín dụng mua bán các giấy
tờ từ NHNNVN sẽ được thanh toán bằng một lượng tiền mặt – hình thức phát hành tiền của
NHNNVN.
• Cho vay đối với Chính phủ để bù đắp thiếu hụt tạm thời ngân sách nhà nước (tạm ứng
cho ngân sách nhà nước).
3.3. Hoạt động tín dụng ngân hàng.
a) Khái niệm hoạt động tín dụng ngân hàng của NHNNVN:
Luật NHNNVN khộng đưa ra một khái niệm cụ hể về hoạt động tín dụng của NHNNVN, căn
cứ từ điều 24 đến điều 26 luật NHNNVN 1997 có thể đưa ra khái niệm khái quát như sau: Hoạt động
tín dụng của ngân hàng nhà nước là việc NHNNVN sử dụng các nguồn vốn để thỏa thuận cho các tổ
chức tín dụng, Chính phủ sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho
vay, bảo lãnh ngân hàng, tạm ứng cho ngân sách nước theo qui định của pháp luật.
b) Các phương thức tín dụng ngân hàng của NHNNVN:

b1.Cho vay dưới hình thức tái cấp vốn: Nội dung này đã được phân tích rất rõ trong mục
công cụ tái cấp vốn của NHNNVN – Mục 1.2.1: Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá:
Theo quy định tại khoản 1 điều 24 Luật NHNN thì chỉ được phép cho vay “ngắn hạn” (thời gian cho
vay dưới 12 tháng.
b2. Cho vay nhằm phục hồi khả năng thanh toán: điều 24 Luật NHNNVN 1997 quy
định Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng trong các trường hợp sau
đây:
- Tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đe doạ sự ổn định của hệ thống
các tổ chức tín dụng;
- Tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả do sự cố nghiêm trọng khác.
Lưu ý: toàn bộ hoạt động tín dụng của NHNNVN chỉ được thực hiện giữa NHNNVN với các
tổ chức tín dụng mà không được thực hiện giữa NHNNVN với các tổ chức, cá nhân không phải là tổ
chức tín dụng. Theo đó, khoản 3 điều 24 luật NHNNVN quy định “Ngân hàng Nhà nước không cho
vay đối với cá nhân và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng”.
b3.Bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng vay nước ngoài:
• Khái niệm hoạt động bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng vay nước ngoài: Khoản 1 điều 2
Quy chế cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài Ban hành kèm theo
Quyết định số 272/2006/QĐ-TTg ngày 28 tháng 11 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ quy định:
“Bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay nước ngoài (sau đây được gọi là “bảo lãnh Chính phủ”) là
việc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (người bảo lãnh) thông qua Bộ Tài chính,
cam kết bằng văn bản với người cho vay nước ngoài (người nhận bảo lãnh) đảm bảo thực hiện các
nghĩa vụ thanh toán đã được cam kết trong thỏa thuận vay; trường hợp người vay không thực hiện,
thực hiện không đầy đủ và đúng hạn các nghĩa vụ thanh toán đã được cam kết trong thỏa thuận vay,
người bảo lãnh sẽ thực hiện các nghĩa vụ thanh toán đó thay cho người được bảo lãnh theo quy định
của thư bảo lãnh. Người vay phải có nghĩa vụ bồi hoàn cho người bảo lãnh các khoản tiền mà người
bảo lãnh đã trả thay cùng với lãi và tất cả các chi phí phát sinh thực tế liên quan đến khoản tiền đã trả
thay”.
• Căn cứ vào khái niệm trên, hoạt động bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài
không phải là nghiệp vụ của NHNNVN mà là của Chính phủ thông qua Bộ Tài chính, theo đó cơ
quan cấp bảo lãnh Chính phủ là Bộ Tài chính. Như vậy, trường hợp tổ chức tín dụng xin vay không

trả được khoản vay thì Bộ Tài chính sẽ là chủ thể chịu trách nhiệm chính với người nhận bảo lãnh.
Trong quan hệ bảo lãnh Chính phủ, NHNNVN chỉ tham gia với tư cách là cơ quan tư vấn và phối
hợp với Bộ Tài chính.
b4.Tạm ứng cho ngân sách nhà nước khi ngân sách nhà nước thu không kịp đáp ứng
nhu cầu chi.
Trang -14-
3.4. Hoạt động mở tài khoản, cung ứng dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
a) Hoạt động mở tài khoản:
• Mở tài khoản cho các tổ chức tín dụng trong nước, các ngân hàng nước ngoài và tổ chức
tiền tệ, ngân hàng quốc tế:
Khoản 2 điều 27 Luật NHNNVN quy định “Ngân hàng Nhà nước mở tài khoản và thực hiện giao
dịch cho tổ chức tín dụng”. Như vậy, theo quy định này, tất cả các tổ chức tín dụng, các ngân hàng nước
ngoài, và tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế đều phải có nghĩa vụ mở tài khoản ngân hàng tại
NHNNVN. Với quy định này, NHNNVN sẽ gián tiếp kiểm soát hoạt động thanh toán của hệ thống
ngân hàng một cách chặt chẽ nhất.
Cũng cần lưu ý rằng, ở đây, NHNNVN không mở tài khoản tín dụng cho các tổ chức, cá nhân
không phải là tổ chức tín dụng. Nhóm chủ tể này chỉ được quyền mở tài khoản tại các tổ chức tín
dụng. Đây là sự phân cấp hợp lý về mặt lý luận và thực tiễn ở các quốc gia trên thế giới hiện nay.
Ở một góc độ khác, là một ngân hàng của Chính phủ, NHNNVN còn phải mở tài khoản cho
Chính phủ - một chủ thể đặc biệt trong nền kinh tế cũng có nhu cầu quản lý tiền mặt và thực hiện các
nghĩa vụ thanh toán khi tham gia vào quan hệ phap luật. Theo đó, khoản 3 điều 27 Luật NHNNVN
1997 quy định: “Kho bạc Nhà nước mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước. Ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không có chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước, việc thực hiện các
giao dịch cho Kho bạc Nhà nước theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
• Mở tài khoản cho NHNNVN: Khoản 1 điều 27 Luật NHNN quy định “Ngân hàng Nhà nước
được mở tài khoản và thực hiện giao dịch trên tài khoản ở ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc
tế”.
b) Cung ứng dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Điều 28, 29 Luật NHNNVN. Nghiệp vụ
này của NHNNVN góp phần làm cho hoạt động thanh toán của các tổ chức tín dụng được liên tục và
thông suốt, đảm bảo tính hệ thống và thống nhất trong hệ thống thanh toán.

c) Đại lý cho Kho bạc Nhà nước: là một ngân hàng của Chính phủ, NHNNVN phải thực
hiện các nghiệp vụ tài chính, tiền tệ cho Chính phủ, Kho bạc nhà nước trong việc huy động vốn dưới
các hình thức phát hành chứng chỉ vay nợ. Vì vậy, điều 30 Luật NHNN quy định “Ngân hàng Nhà nước
làm đại lý cho Kho bạc Nhà nước trong việc tổ chức đấu thầu, phát hành, lưu ký và thanh toán tín phiếu kho bạc, trái
phiếu kho bạc”. Trong nghiệp vụ này, NHNNVN không phải là chủ thể đứng ra phát hành tín phiếu,
trái phếu mà chỉ làm đại lý tổ chức đấu thầu, phát hành và nhận thanh toán cho Chính phủ, Kho bạc
nhà nước.
Kết luận quan trọng: Trong hoạt động mở tài khoản và cung ứng dịch vụ thanh toán,
NHNNVN chỉ thực hiện đối với các tổ chức tín dụng trong nước, ngân hàng nước ngoài và tổ chức
tiền tệ, ngân hàng quốc tế chứ không cung cấp dịch vụ tín dụng cho các tổ chức, cá nhân khác trong
nền kinh tế - vốn được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng.
3.5. Hoạt động ngoại hối và quản lý ngoại hối (Xem giáo trình từ trang 95 đến trang 97).
3.6. Thanh tra, giám sat và xử lý vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng
(xem giáo trình từ trang 97 đến trang 105).
3.7. Các hoạt động khác của NHNNVN (xem giáo trình từ trang 97 đến trang 105)
--- Hết chương 2---
Trang -15-
CHƯƠNG III
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
(6 tiết)
1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
1.1 Khái niệm, đặc điểm TCTD.
1.1.1. Khái niệm:
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng” (Khoản 1
Điều 4 Luật các TCTD).
1.1.2. Đặc điểm của các tổ chức tín dụng.
• Thứ nhất, với tính chất là một tổ chức thực hiện chức năng tìm kiếm lợi nhuận, TCTD được
coi là một loại hình doanh nghiệp.
− Một là, TCTD là một tổ chức kinh tế hoạt động với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
− Hai là, các tổ chức tín dụng cũng có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định để thực

hiện hoạt động ngân hàng.
− Ba là, tổ chức tín dụng là một chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh và hoạch toán kinh tế
độc lập với các chủ thể khác và chính các chủ thể sáng lập ra nó.
• Thứ hai, là một loại hình doanh nghiệp đặc thù, các tổ chức tín dụng còn thể hiện những dấu
hiệu pháp lý riêng biệt. Cụ thể như sau;
− Một là, các tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và
mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng.
− Hai là, người quản trị và điều hành các tổ chức tín dụng phải có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
− Ba là, các tổ chức tín dụng chịu sự giám sát, quản lý trực tiếp của NHNNVN.
Từ những phân tích trên, chúng ta nhận thấy rằng, các tổ chức tín dụng vừa mang những dấu
hiệu pháp lý của một doanh nghiệp nói chung, vừa mang những dấu hiệu đặc thù chỉ có ở các tổ chức
tín dụng. Vì vậy, khi vận dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh, sinh
viên cần nắm vũng nguyên tắc vận dụng và áp dụng mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên
ngành trên cơ sở đặt trong mối quan hệ tổng thể của hệ thống pháp luật. Cụ thể như sau:
− Nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành: trong trường hợp nội dung các quy
định điều chỉnh về các tổ chức tín dụng và hoạt động của các tổ chức tín dụng khác với quy định của
pháp luật kinh tế - thương mại, dân sự thì ưu tiên áp dụng phap luật chuyên ngành.
− Nguyên tắc hỗ trợ của pháp luật chung: pháp luật chung được vận dụng để điều chỉnh
trong trường hợp pháp luật chuyên ngành không quy định. Lẽ tất nhiên, pháp luật chuyên ngành chỉ
quy định những vấn đề đặc thù, riêng biệt, những vấn đề chung, giống nhau thì các chủ thể được vận
dụng luật chung để giải quyết.
1.2 Phân loại các tổ chức tín dụng:
1.2.1. Căn cứ vào phạm vi, lĩnh vực hoạt động, tổ chức tín dụng được chia làm 2 loại:
a) Tổ chức tín dụng là ngân hàng: Theo quy định tại khoản 2 điều 4 Luật các TCTD thì
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng”.
− Thứ nhất, khái niệm trên khẳng định ngân hàng là một tổ chức tín dụng nên nó bao hàm
đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cơ bản của một tổ chức tín dụng.
− Thứ hai, về phạm vi hoạt động, ngân hàng được được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng. Về mặt pháp lý, phạm vị hoạt động của ngân hàng rộng nhất trong các loại hình tổ chức tín

dụng.
Tùy theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các ngân hàng còn chia thành:
+ Ngân hàng thương mại: là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định nhằm mục tiêu lợi nhuận.
+ Ngân hàng hợp tác xã: là ngân hàng của tất cả các quỹ tín dụng nhân dân do các quỹ tín dụng nhân
dân và một số pháp nhân góp vốn thành lập theo quy định nhằm mục tiêu chủ yếu là liên kết hệ thống, hỗ trợ tài
chính, điều hòa vốn trong hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân.
Trang -16-
+ Ngân hàng chính sách: là một loại hình ngân hàng do nhà nước thành lập và đầu tư vốn để
thực hiện chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước.
b) Tổ chức tín dụng phi ngân hàng:
Ngược lại với tổ chức tín dụng ngân hàng là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Theo quy
định tại khoản 4 Điều 4 Luật các TCTD thì “Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung
ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng”. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa tổ
chức tín dụng là ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng là tổ chức tín dụng phi ngân hàng
không được thức hiện chức năng nhận tiền gửi của cá nhân và không được làm các dịch vụ thanh
toán.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng tồn tại dưới các hình thức sau:
− Công ty tài chính: Theo điều 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính (được sửa đổi bằng khoản 1 Điều 1 Nghị định
81/2008/NĐ-CP ngày 29/07/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghi định 79/2002/NĐ-CP ngày
04/10/2002) thì “Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử
dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư
vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không
được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi của cá nhân”. Công ty tài chính tồn tại dưới
các hình thức theo quy định tại điều 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính, (được sửa đổi bằng khoản 2 Điều 1 Nghị định
81/2008/NĐ-CP ngày 29/07/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghi định 79/2002/NĐ-CP ngày
04/10/2002)).

− Công ty cho thuê tài chính: “cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông
qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương
tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các
tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã
được hai bên thoả thuận”
7
.
− Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác: ngoài hai loại hình tổ chức tín dụng phi ngân
hàng trên, còn tồn tại một số loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác như Công ty Kiều hối
trực thuộc ngân hàng thương mại cổ phần với nội dung hoạt động là: thực hiện nghiệp vụ kinh doanh
kiều hối theo quy định hiện hành của Nhà nước và của Ngân hàng Nhà nước về kiều hối
8
.
Kết luận: kể từ hôm nay (sau khi học đến nội dung này) chúng ta thống nhất với nhau rằng
khi đề cập đến khái niệm ngân hàng là đề cập đến các tổ chức tín dụng là ngân hàng, còn đề cập đến
tổ chức tín dụng phi ngân hàng là nói đến công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính trừ trường hợp
gọi chính xác loại hình tổ chức tín dụng đó như: ngân hàng thương mại cổ phần hoặc công ty tài
chính dầu khí, hoặc quỹ tín dụng nhân dân A…
Bảng so sánh sự giống và khác nhau giữa ngân hàng và TCTD phi ngân hàng:
Tiêu chí Ngân hàng Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Giống nhau
- Đều là tổ chức tín dụng có thực hiện các hoạt động ngân hàng.
- Đều đặt dưới sự quản lý, kiểm tra của NHNNVN.
Sự khác nhau
Về phạm
vi hoạt
động
Được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh

doanh khác có liên quan.
Được thực hiện một số hoạt động
ngân hàng, không được nhận tiền
gửi của cá nhân, không làm dịch vụ
thanh toán.
Về vai trò Được quyền cung ứng vốn ngắn hạn, Chủ yếu ung ứng vốn trung hạn và
7
Khoản 1 điều 1 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê
tài chính.
8
Điều 7 Quyết định số 951/2003/QĐ-NHNN ngày 18/8/2003 về việc ban hành Quy định thành lập và hoạt động công ty kiều
hối trực thuộc ngân hàng thương mại
Trang -17-
trung hạn và dài dạn tự do. dài hạn (được quyền cung ứng vốn
ngắn hạn dưới 1 năm nhưng hạn
chế)
Về yêu cầu
quản lý
Ngân hàng NNVN quan tâm những
tác động “nhạy cảm” của ngân hàng
đến nền kinh tế nhiều hơn bằng các
nghiệp vụ hỗ trợ hoặc hạn chế
thường xuyên phụ thuộc vào chính
sách tiền tệ quốc gia.
Sự tác động của các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng đến nền kinh
tế ít “nhạy cảm” hơn. Vì vậy, mức
độ và yêu cầu quản lý ít hơn.
c) Tổ chức tài chính vi mô: Theo khoản 5 điều 4 Luật các TCTD thì: Tổ chức tài chính vi mô
là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá

nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
d) Quỹ tín dụng nhân dân: Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân
và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy
định của Luật các TCTD và Luật hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh
doanh và đời sống.
1.2.2. Các loại hình tổ chức tín dụng hoạt động theo pháp luật ngân hàng tại Việt Nam.
(Đây là nội dung quan trọng, sinh viên/học viên cần nghiên cứu kỹ tại giáo trình từ trang 114 đến
trang 121) gồm:
+ Ngân hàng thương mại: gồm NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần; NH liên doanh; NH
100% vốn nước ngoài (dưới dạng công ty TNHH một thành viên), chi nhánh NH nước
ngoài tại VN.
+ Ngân hàng chính sách.
+ Ngân hàng hợp tác xã.
+ Tổ chức tài chính vi mô.
+ Quỹ tín dụng ngân hàng: QTDNN cơ sở và QTDNN trung ương.
+ Công ty cho thuê tài chính.
+ Công ty tài chính.
2. THỦ TỤC THÀNH LẬP, ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ,
PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
2.1. Thủ tục thành lập.
2.1.1. Điều kiện cấp giấy phép: Xem điều 20 Luật cac TCTD.
2.1.2. Cơ quan cấp giấy phép: Xem điều 18 Luật cac TCTD
2.1.3. Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng: Xem điều
21 Luật cac TCTD
2.1.4. Thủ tục và thời hạn cấp giấy phép: Xem điều 22 Luật cac TCTD
2.1.5. Điều kiện hoạt động: Xem điều 24, 25, 26 Luật cac TCTD
2.2. Quy chế kiểm soát đặc biệt.
Vấn đề này được quy định cụ thể tại Mục 1 Chương VIII Luật các tổ chức tín dụng và được
hướng dẫn cụ thể tại Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam ban
hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998 (được sửa đổi, bổ sung bằng

Quyết định số 1071/2002/QĐ-NHNN ngày 2/10/2002) và Quy chế Kiểm soát đặc biệt đối với Quỹ tín
dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN ngày 08/02/2001.
2.2.1. Khái niệm kiểm soát đặc biệt.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 146 Luật các TCTD thì “Kiểm soát đặc biệt là việc một tổ chức tín
dụng bị đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng
thanh toán” Điều 2 Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam ban
hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998 thì “Kiểm soát đặc biệt là việc
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý nghiệp vụ đặc biệt để kiểm soát, giám sát trực
tiếp tình hình tổ chức và hoạt động của Tổ chức tín dụng”.
− Về chủ thể có quyền kiểm soát: chủ thể trực tiếp thực hiện việc kiểm soát đặc biệt là
NHNNVN.
Trang -18-
− Về đối tượng bị kiểm soát: là các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật
các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
− Về điều kiện áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt: NHNNVN chỉ tiến hành kiểm soát đặc
biệt khi các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán và có thông
báo đến NHNNVN.
− Về mục đích kiểm soát đặc biệt: để giúp đỡ hỗ trợ các tổ chức tín dụng khôi phục khả năng
chi trả, khả năng thanh toán hướng tới mục tiêu nhằm nhằm đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và
hệ thống các tổ chức tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động của mỗi một tổ chức tín
dụng đối với hoạt động ngân hàng, hệ thống tổ chức tín dụng và nền kinh tế nói chung. Như vậy, mục
đích của kiểm soát đặc biệt hướng đến 3 vấn đề:
+ Đối với các tổ chức tín dụng: nhằm “cứu” các tổ chức tín dụng thoát khỏi tình trạng tạm
thời mất khả năng chi trả, khả năng thanh toán để trở lại trạng thái an toàn và tiếp tục hoạt động có
hiệu quả.
+ Đối với người gửi tiền (khách hàng): một điều hiển nhiên là khi tổ chức tín dụng trong tình
trạng “rủi ro” thì người gửi tiền – khách hành của họ cũng phải gánh chịu những rủi ro nhất định,
thậm chí là không thu hồi được số tiền vốn đã gửi, làm mất niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống
các tổ chức tín dụng.
+ Đối với nền kinh tế (lợi ích công cộng): hoạt động kiểm soát đặt biệt nhằm hạn chế đến

mức thấp nhất những tác động tiêu cực mà sự “rủi ro” của một tổ chức tín dụng gây ra. Thậm chí
trong trường hợp không thể phục hồi được buộc phải tổ chức lại, giải thể hoặc phá sản thì bản
NHNNVN cũng phải giảm thiểu đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực có thể gây ra cho nền
kinh tế.
2.2.2. Đối tượng bị áp dụng kiểm soát đặc biệt:
a) Về mặt chủ thể: chủ thể bị áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt như trong phân khái
niệm đã đề cập là các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong các văn bản hướng dẫn thi hành
9
thì chỉ đề
cập đến 2 chủ thể gồm:
− Tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam
10
: gồm các Ngân hàng thương mại cổ phần và Công ty
tài chính cổ phần.
− Quỹ tín dụng nhân dân
11
: gồm Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương.
b) Về mặt điều kiện áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt: Theo quy định tại khoản 3 điều
146 Luật các TCTD thì Tổ chức tín dụng có thể được đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt trong
những trường hợp sau đây: Có nguy cơ mất khả năng chi trả; Nợ không có khả năng thu hồi có nguy
cơ dẫn đến mất khả năng thanh toán; Khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị thực
của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất; Hai năm
liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; Không duy trì được tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 130 của Luật các TCTD trong thời hạn một năm
liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 06 tháng liên tục. Cụ thể như sau:
• Đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam: Xem điều 5 Quy chế kiểm soát đặc biệt
đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-
NHNN5 ngày 23/6/1998 (được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 1071/2002/QĐ-NHNN ngày
2/10/2002).

• Đối với quỹ tín dụng nhân dân: xem điều 5 Quy chế Kiểm soát đặc biệt đối với Quỹ tín
dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN ngày 08/02/2001.
2.2.3. Thủ tục tiến hành kiểm soát đặc biệt:
c) Báo cáo và phát hiện:
9
Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-
NHNN5 ngày 23/6/1998 (được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 1071/2002/QĐ-NHNN ngày 2/10/2002) và Quy chế Kiểm
soát đặc biệt đối với Quỹ tín dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN ngày 08/02/2001.
10
Điều 3 Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số
215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998.
11
Điều 1 Quy chế Kiểm soát đặc biệt đối với Quỹ tín dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN
ngày 08/02/2001. Lưu ý theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi 2004 không có quỹ tín dụng nhân dân khu vực.
Trang -19-
− Báo cáo của các tổ chức tín dụng: điều 145 Luật các TCTD quy định: Khi có nguy cơ mất
khả năng chi trả, tổ chức tín dụng phải kịp thời báo cáo với Ngân hàng Nhà nước về thực trạng tài
chính, nguyên nhân và các biện pháp đã áp dụng, dự kiến áp dụng để khắc phục.
− Phát hiện của NHNNVN: khoản 2 điều 146 Luật các TCTD quy định Ngân hàng Nhà nước
có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện kịp thời những trường hợp có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất
khả năng thanh toán.
d) Ra quyết định kiểm soát đặc biệt
12
:
• Thẩm quyền ban hành: Thống đốc NHNNVN ra quyết định đặt tổ chức tín dụng vào tình
trạng kiểm soát đặc biệt.
• Thông báo để phối hợp thực hiện: Quyết định kiểm soát đặc biệt được NHNNVN thông
báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các cơ quan hữu quan trên địa bàn để phối hợp thực
hiện.
• Lưu ý đặc biệt: khoản 4 Điều 146 Luật các tổ chức tín dụng quy định: Ngân hàng Nhà nước

quy định cụ thể việc công bố thông tin kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng.
c) Ban kiểm soát đặc biệt
13
.
Lưu ý quan trọng: Khi tổ chức tín dụng bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, bản thân Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng phải tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ của mình (Nếu bị đình chỉ thì Ban Quản trị lâm thời phải tiếp tục thực hiện nhiệm vụ) tại tổ
chức tín dụng. Mọi hành vi cố tình trốn tránh trái pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm và phải liên
đới chịu cá nhân về hành vi trốn tránh đó đối với những thiệt hại xảy ra trong thời gian kiểm soát đặc
biệt (Xem thêm Điều 11 Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam
ban hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998).
d) Thời hạn kiểm soát đặc biệt: Theo quy định tại điều 14 Quy chế kiểm soát đặc biệt đối
với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-NHNN5
ngày 23/6/1998 (được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 1071/2002/QĐ-NHNN ngày 2/10/2002 –
Quyết định này sửa đổi điều 14) và điều 16 Quy chế Kiểm soát đặc biệt đối với Quỹ tín dụng nhân
dân ban hành kèm theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN ngày 08/02/2001 thì thời hạn kiểm soát
đặc biệt do Thống đốc NHNNVN Quyết định (Nếu là Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở thì do Giám đốc
Chi nhánh NHNNVN cấp tỉnh quyết định) và gia hạn nhưng thời gian tối đa, kể cả thời gian gia hạn
không quá 2 năm. Nếu thời hạn kiểm soát đặc biệt mà tổ chức tín dụng vẫn không phục hồi thì phải ra
quyết định chấm dứt kiểm soát đặc biệt.
e) Hoạt động của tổ chức tín dụng trong thời gian áp dụng kiểm soát đặc biệt.
Về nguyên tắc chung, hoạt động của tổ chức tín dụng trong thời gian áp dụng kiểm soát đặc
biệt vẫn được tiến hành bình thường theo hướng gia tăng giá trị lợi nhuận tạo ra cho chính tổ chức tín
dụng và đảm bảo lợi ích của bên thứ 3.
• Khoản vay đặc biệt: Nhằm nhanh chóng đưa tổ chức tín dụng thoát khỏi tình trạng kiểm
soát đặc biệt, đảm bảo lợi ích của khách hàng, Điều 151 Luật các TCTD quy định cho phép tổ chức
tín dụng được vay khoản vay đặc biệt: “Trong trường hợp cấp bách, để bảo đảm khả năng chi trả tiền
gửi của khách hàng, tổ chức tín dụng có thể được các tổ chức tín dụng khác hoặc Ngân hàng Nhà
nước cho vay đặc biệt. Khoản vay đặc biệt này sẽ được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ
khác của tổ chức tín dụng”

14
.
2.3. Thủ tục phá sản, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách tổ chức tín dụng. (Xem giáo
trình từ trang 131 đến trang 133)
3. CƠ CẤU TỔ CHỨC, QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH, GIÁM SÁT TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
12
Xem thêm Điều 147 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 4, 6 và 7 Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ
phần Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998; Điều 3, 4, 6 và 7 Quy chế Kiểm soát
đặc biệt đối với Quỹ tín dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN ngày 08/02/2001.
13
Xem Điều 148 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 8,9,10,11 Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ phần
Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998; Điều 8, 9, 10, 11, 12 và 13 Quy chế Kiểm
soát đặc biệt đối với Quỹ tín dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN ngày 08/02/2001.
14
Xem thêm điều 13 Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định
số 215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998 và điều 15 Quy chế Kiểm soát đặc biệt đối với Quỹ tín dụng nhân dân ban hành kèm
theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN ngày 08/02/2001.
Trang -20-
3.1. Cơ cấu tổ chức mạng lưới hoạt động của tổ chức tín dụng
15
.
a) Hội sở chính: Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không đề
cập đến khái niệm hội sở chính. Có thể hiểu Hội sở chính của tổ chức tín dụng là nơi đặt bộ máy lãnh
đạo, điều hành, con dấu và được phép thực hiện toàn bộ các hoạt động phù hợp với giấy phép hoạt
động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
b) Chi nhánh, sở giao dịch của tổ chức tín dụng: Theo khoản 2 Điều 37 Luật Doanh nghiệp
2005 thì “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một
phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền. Ngành, nghề kinh doanh
của chi nhánh phải phù hợp với ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp”. Trên cơ sở đó, khoản 4,
5 Điều 2 Quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại của ngân hàng thương mại

Ban hành kèm theo Quyết định số 13/2008/QĐNHNN ngày 29/4/2008 quy định: “Sở giao dịch là đơn
vị phụ thuộc trụ sở chính của ngân hàng thương mại, hạch toán phụ thuộc, có con dấu, thực hiện hoạt
động kinh doanh theo ủy quyền của ngân hàng thương mại”
16
và “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc ngân
hàng thương mại, có con dấu, thực hiện hoạt động kinh doanh theo ủy quyền của ngân hàng thương
mại”.
c) Văn phòng đại diện: Theo khoàn 2 Điều 37 Luật Doanh nghiệp 2005 thì “Văn phòng đại
diện là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo uỷ quyền cho lợi ích của doanh
nghiệp và bảo vệ các lợi ích đó. Tổ chức và hoạt động của văn phòng đại diện theo quy định của pháp
luật”. Trên cơ sở đó, khoản 6 Điều 2 Quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại
của ngân hàng thương mại Ban hành kèm theo Quyết định số 13/2008/QĐNHNN ngày 29/4/2008
quy định “Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc ngân hàng thương mại, có con dấu, thực hiện chức
năng đại diện theo ủy quyền của ngân hàng thương mại. Văn phòng đại diện không được thực hiện
hoạt động kinh doanh”.
d) Thành lập công ty con, công ty hạch toán phụ thuộc: dưới các hình thức công ty mẹ -
con, đầu tư 100% thành lập công ty hạch toán phụ thuộc.
e) Đơn vị sự nghiệp: Nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và mạng lười
của nó hoạt động hiệu quả, chuyên nghiệp, pháp luật cho phép các tổ chức tín dụng được phép thành
lập các đơn vị sự nghiệp trực thuộc tùy vào yêu cầu cần thiết của mỗi tổ chức tín dụng. Khoản 7 Điều
2 Quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại của ngân hàng thương mại Ban hành
kèm theo Quyết định số 13/2008/QĐNHNN ngày 29/4/2008 quy định: “Đơn vị sự nghiệp là đơn vị
phụ thuộc ngân hàng thương mại, có con dấu, thực hiện một hoặc một số hoạt động hỗ trợ hoạt động
kinh doanh theo uỷ quyền của ngân hàng thương mại”
3.2. Cơ cấu quản lý, điều hành, kiểm soát tổ chức tín dụng: (Nội dung này xem tại Nghị
định 59/2009/NĐ-CP về tổ chức NHTM và chương III Luật các TCTD).
Lưu ý: Mục 3 sinh viên/học viên có thể tham khảo thêm giáo trình từ trang 133 đến trang 137.
4. HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
4.1 Hoạt động tín dụng.
Là hoạt động làm chuyển dịch đồng dòng vốn từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu được thể hiện

bằng sơ đồ sau đây:
15
Xem thêm Quyết định số 01/2008/QĐ-NHNN ngày 09/01/2008 ban hành Quy định về việc mở và chấm dứt hoạt động chi
nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Trong nội dung này, những ví dụ dẫn chứng chỉ đề cập đến
mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại.
16
Mỗi ngân hàng thương mại chỉ được mở một sở giao dịch. Địa điểm sở giao dịch nằm trong phạm vi địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính.
Trang -21-
Thừa Thừa
vốn vốn


Thiếu Thiếu
vốn vốn
Xu hướng chuyển động của dòng vốn trong nền kinh tế.
Hoạt động của tổ chức tín dụng.
4.1.1 Hoạt động huy động vốn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức tín dụng
được quyền huy động vốn dưới các hình thức sau:
a) Nhận tiền gửi:
a1) Khái niệm: Nhận tiền gửi là việc tổ chức tín dụng nhận tiền của cá nhân, tổ chức dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức nhận tiền gửi
khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc cho người gửi tiền.
a2) Các hình thức nhận tiền gửi: Theo quy định tại khoản 13 Điều 4 Luật các TCTD thì
“Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo
nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”.
− Chủ thể nhận tiền gửi: chỉ có các tổ chức tín dụng mới được nhận tiền gửi của các tổ chức,
cá nhân trong nền kinh tế. Các chủ thể khác không có hoạt động ngân hàng không được phép nhận
tiền gửi.

− Về chủ thể gửi tiền: là tất cả các chủ thể tồn tại hợp pháp trong nền kinh tế có sở hữu vốn
hợp pháp
17
tạm thời nhàn rỗi đồng ý nhượng quyền sử dụng đồng vốn cho chủ thể có nhu cầu và
hưởng một giá trị vật chất tương ứng (lãi suất tiền gửi).
− Về đối tượng của hoạt động nhận tiền gửi: là các loại tiền tệ (nội tệ, ngoại tệ) và vàng hợp
pháp, được phép lưu hành theo quy định của pháp luật. Đối với hình thức nhận tiền gửi bằng ngoại tệ,
tổ chức tín dụng phải tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối (sẽ được trình bày ở
chương IV của môn học này).
− Lãi suất tiền gửi: Lãi suất tiền gửi do các bên thỏa thuận (thường là các tổ chức tín dụng
công bố tại từng thời điểm nhất định) trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNNVN công bố
18
.
Hình thức nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng phụ thuộc vào loại hình của tổ chức tín dụng.
Cụ thể như sau:
• Đối với các tổ chức tín dụng là ngân hàng và Quỹ tín dụng nhân dân: Theo quy định
tại khoản 2 Điều 4 Luật các TCTD thì ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, Quỹ tín dụng nhân dân
được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức sau: tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
17
Đối với các trường hợp gửi tiền nhằm hợp pháp hóa vốn (hoạt động rửa tiền) sẽ không được đề cập trong nội dung này.
18
Theo quy định tại Điều 1 Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chề điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam như sau:
1.Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam đối với
khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời
kỳ.
2. Định kỳ hàng tháng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam công bố điều chỉnh kịp thời lãi suất cơ bản.
Tình

trạng
vốn
trong
nền
kinh
tế
Hoạt
động
của
các
TCTD
Hoạt
động
của
các
TCTD
Trang -22-
• Đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng: theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật các
TCTD thì “Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước”. Điều đó có nghĩa là tổ chức tín dụng phi ngân hàng không được nhận tiền gửi ở
mọi kỳ hạn của cá nhân.
Về bản chất và các dấu hiệu pháp lý của hình thức nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên
của tổ chức tín dụng phi ngân hàng giống với hình thức nhận tiền gửi có kỳ hạn của ngân hàng. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng người gửi tiền không được yêu cầu tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoàn
trả tiền gửi trước thời hạn ghi trên hợp đồng tín dụng. Đây là quy định rất quan trọng cho người
gửi tiền khi gửi tiền tại các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
a3) Quy định về bảo hiểm tiền gửi:
Để tạo sự an toàn và khả năng huy động vốn nhàn rỗi hiệu quả của người gửi tiền, Điều 1
Quyết định 218/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/11/1999 về việc thành lập Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam thì mục đích của việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhằm bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
• Khái niệm bảo hiểm tiền gửi: là một biện pháp bảo đảm an toàn cho người gửi tiền,
theo đó, tổ chức tín dụng phải mua bảo hiểm tiền gửi cho khoản tiền gửi của các tổ chức, cá nhân tại
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo
quy định của pháp luật.
• Mục đích bảo hiểm tiền gửi: hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng,
bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
• Trường hợp bắt buộc tham gia bảo hiểm tiền gửi
19
:
− Tiền gửi là bằng đồng Việt Nam (không áp dụng với tiền gửi là ngoại tệ, vàng).
− Chủ thể gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp
danh. (Các tổ chức, doanh nghiệp khác khi gửi tiền không bắt buộc phải tham gia bảo hiểm tiền gửi).
Trừ các trường hợp sau đây:
+Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10%
vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó;
+Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc
(Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó;
+Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền;
+Tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
• Chế độ pháp lý về bảo hiểm tiền gửi:
− Chủ thể tiến hành mua bảo hiểm tiền gửi: là tổ chức tín dụng nhận tiền gửi.
− Mức bảo hiểm được chi trả
20
: Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao
gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật) tại một tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng.

b) Phát hành các giấy tờ có giá (chứng chỉ tiền gửi):
Theo quy định tại Điều 46 Luật các tổ chức tín dụng về phát hành giấy tờ có giá thì: “Khi
được Thống đốc NHNNVN chấp thuận, tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước”.
• Khái niệm giấy tờ có giá: theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ
có giá của các tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng
3 năm 2008 của Thống đốc NHNNVN thì “Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát
19
Xem thêm Điều 2 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và khoản 2 Điều 1
Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999.
20
Xem thêm Điều 4 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và khoản 3 Điều 1
Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999.
Trang -23-
hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua”.
• Đặc trưng của hoạt động phát hành giấy tờ có giá: Hoạt động phát hành giấy tờ có
giá của tổ chức tín dụng có những đặc trưng cơ bản sau đây:
− Về bản chất pháp lý: việc phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng ra công chúng thực
chất là một hành vi vay tiền (huy động vốn) của khách hàng chứ không phải là hành vi “bán” giấy tờ
có giá cho khách hàng.
− Về tư cách pháp lý: khi phát hành các giấy tờ có giá để vay nợ của khách hàng, tổ chức tín
dụng có tư cách là người vay hay người mắc nợ, còn khách hàng “mua” giấy tờ có giá có tư cách là
người cho vay hay chủ nợ của tổ chức tín dụng.
• Điều kiện phát hành giấy tờ có giá: xem Điều 18, 22 và 28 Quy chế phát hành giấy tờ
có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước ban hành kèm theo Quyết định số
07/2008/QĐ-NHNN ngày 024/03/2008).
c) Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác:

Điều 100, điểm c khoản 1 điều 108, khoản 3 điều 112, khoản 2 điều 119 Luật các TCTD cho
phép các tổ chức tín dụng được “vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài theo
quy định của pháp luật” là hợp lý vì:
− Tổ chức tín dụng bản thân là một tổ chức kinh tế. Vì vậy, tổ chức tín dụng cũng cần đối xử
bình đẳng như các chủ thể khác, khi thiếu vốn được phép đi vay vốn từ một tổ chức tín dụng khác.
− Đảm bảo sự lành mạnh, an toàn và hỗ trợ cho hoạt động ngân hàng phát triển vì duy trì được
tính liên tục của hoạt động ngân hàng.
− Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng hỗ trợ, nâng đỡ nhau theo nguyên tắc “có qua có lại”
để cùng phát triển, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng và nền kinh tế.
− Đối với hoạt động vay vốn từ các tổ chức tín dụng nước ngài còn giúp cho các tổ chức tín
dụng trong nước tăng năng lực tài chính, quy mô, năng lực kinh doanh. Đó là cơ hội để các tổ chức
tín dụng tiếp cận nguồn vốn lớn, tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Vì những lẽ trên, Điều 1 Quy chế cho vay giữa các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết
định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 khẳng định “quan hệ cho vay, đi vay giữa các tổ
chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam, nhằm bảo đảm khả năng thanh toán và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn của các tổ chức tín dụng”.
d) Vay của NHNN: (Nội dung này đã được phân tích rất kỹ trong hoạt động tín dụng
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). Ở mục này chỉ nhắc lại một số nội dung quan trọng.
Theo quy định tại điều 48 Luật các tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng vay vốn từ NHNNVN
dưới 2 hình thức:
• Hình thức tín dụng tái cấp vốn: gồm các hình thức (Xem điều 30 Luật NHNNVN và
mục 1.2 chương 2: Chức năng của NHNNVN:
− Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng
− Chiết khấu, tái chiết khấu hối thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
− Cho vay có bảo đảm cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
• Cho vay phục hồi khả năng thanh toán: nhằm giúp tổ chức tín dụng đặt vào tình
trạng kiểm soát đặc biệt để phục hồi khả năng thanh toán (Xem thêm mục 2.3 của chương 3 về Quy
chế kiểm soát đặc biệt đối tổ chức tín dụng).
Bảng so sánh giữa cho vay phục hồi khả năng thanh toán (cho vay cứu cánh) cho vay tái
cấp vốn:

Căn cứ Cho vay tái cấp vốn Cho vay cứu cánh
Về mục đích
Cho vay tái cấp vốn là bổ sung
nguồn vốn huy động, công cụ
được sử dụng để điều tiết là lãi
suất tái cấp vốn.
Nhằm phục hồi khả năng thanh
toán
Về đối
tượng áp
Đối tượng được vay tái cấp
vốn là các tổ chức tín dụng.
Đối tượng được vay cứu cánh là
các tổ chức tín dụng tạm thời
Trang -24-
dụng. mất khả năng chi trả.
Về điều kiện
cho vay
− Là khoản vay ngắn hạn.
− Có đảm bảo bằng giấy tờ có
giá hoặc hồ sơ tín dụng.
là hình thức đưa tiền vào lưu
thông nhưng không cân đối với
nền kinh tế.
Về bản chất
Cho vay tái cấp vốn là khoản
nợ có đảm bảo và được xử lý
như những khoản nợ thông
thường.
Đây là một khoản nợ đặc biệt

và được ưu tiên thanh toán
trước tất cả các khoản nợ của
TCTD (được trả trước khi đặt
TCTD vào việc mở thủ tục phá
sản).
Về thời hạn
cho vay
Thời gian cho vay là ngắn hạn
(dưới một năm).
Thời hạn tùy thuộc vào thời
gian NHNNVN đặt vào tình
trạng kiểm soát đặc biệt.
4.1.2 Hoạt động cấp tín dụng.
Theo quy định Luật các TCTD thì các tổ chức tín dụng được quyền cấp tín dụng dưới các hình
thức sau:
a) Cho vay (Chế độ pháp lý về hoạt động cho vay sẽ được phân tích kỹ ở Chương V,
trong nội dung nay chúng ta chỉ để cập một số nội dung mang tính khái quát): theo quy định tại
Khoản 1 Điều 3 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định
số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNNVN (được sửa đổi, bổ sung bằng
Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005 của Thống đốc NHNNVN) thì “Cho vay là một
hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
b) Bảo lãnh ngân hàng: Căn cứ vào quy định trên, khoản 1 Điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân
hàng Ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 thì “Bảo lãnh ngân hàng
là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh)
về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải
nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Như vậy, bản chất của bảo lãnh
ngân hàng là một hình thức cấp tín dụng có điều kiện trực tiếp cho nền kinh tế.
c) Chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá:

• Khái niệm: Theo khoản 1 và 2 Điều 3 Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng Ban hành kèm theo quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN
ngay 15/10/2004 (được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số Quyết định số 17/2006/QĐ-NHNN của
Thống đốc Ngân hàng về việc sửa đổi, bổ sung Điều 10 và Điều 12 Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu
giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng) đưa ra khái niệm như sau:
− Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách
hàng.
− Tái chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua lại giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán và đã
được chiết khấu theo phương thức mua hẳn.
d) Cho thuê tài chính:
• Khái niệm cho thuê tài chính: Theo khoản 1 Điều 1 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP
ngày 02 tháng 5 năm 2001 về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính (Được sửa đổi
bằng Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 và Nghị định số 95/2008/NĐ-CP ngày
25/8/2008) thì “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa
bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và
các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê.
Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả
thuận”.
• Đặc điểm của cho thuê tài chính:
Trang -25-

×