Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Siêu âm Mô Mềm docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.89 KB, 5 trang )

Siêu âm Mô Mềm

Nhiều bệnh nhân nhập vào khoa cấp cứu với những triệu chứng có liên
quan đến mô mềm, chẳng hạn như nhiễm trùng, chấn thương, những khối
bất thường xuất hiện trong mô mềm. Thông thường, CT scan và MRI sẽ
được sử dụng nếu như các bác sĩ cần phải khảo sát về hình ảnh học trên
những bệnh nhân này. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, siêu âm
thường sẽ sẵn sàng hơn và là phương pháp khảo sát hình ảnh học được ưa
thích hơn.
Ứng dụng thường được sử dụng nhất của siêu âm tại giường ở những
bệnh nhân có bất thường trên mô mềm là đánh giá tình trạng nhiễm trùng,
viêm mô tế bào (cellulitis), abcess, viêm cân mạc hoại tử (necrotizing
fasciitis). Những chỉ định khác về mô mềm bao gồm đánh giá các nang và
hạch bạch huyết. Siêu âm cũng còn được dùng để xác định vị trí của
những vật lạ.
Mặc dù phần lớn abscess được điều trị bằng cách rạch và dẫn lưu mủ,
nhưng trong một số trường hợp, do vấn đề thẩm mỹ nên có thể điều trị
bệnh nhân bằng cách chọc hút bằng kim và dùng kháng sinh. Ozseker và
các cộng sự đã phát hiện ra rằng chọc hút và rửa dưới hướng dẫn của siêu
âm ở những trường hợp bị absces vú được lựa chọn nhiều hơn nếu ổ
abscess có đường kính nhỏ hơn 3cm. Siêu âm có tác dụng hướng dẫn thời
gian thực và cơ động để chọc hút bằng kim, do đó nó giúp tăng khả năng
thành công lên cao hơn.
GIẢI PHẪU HỌC
Những cấu trúc nhìn thấy được trên hình ảnh siêu âm mô mềm chủ yếu là
da, mô dưới da, cân mạc và cơ.
Da bao gồm 2 lớp: lớp biểu bì ở bề mặt và lớp hạ bì nằm sâu hơn và dày
hơn. Lớp mô dưới da nằm ở phía dưới lớp hạ bì bao gồm các vách bằng
mô liên kết và những thùy mỡ. Lớp cân mạc, là cấu trúc nằm sâu hơn, là
một lớp màng xơ đặc. Lớp cơ bao gồm những sợi fiber dài được nhóm
chung lại với nhau thành từng bó. Có nhiều lớp mô liên kết bao quanh các


sợi fiber riêng rẽ, cân mạc, và toàn bộ các cơ.
KỸ THUẬT, NHỮNG HÌNH ẢNH BÌNH THƯỜNG VÀ CÁC BIẾN
THỂ
Dụng cụViệc lựa chọn đầu dò thích hợp là rất quan trọng trong siêu âm
mô mềm tại giường. Do hầu hết các cấu trúc được ghi hình tương đối
nằm ở bề mặt nên đầu dò linear có tần số cao (7 - 12 MHz) sẽ có ích nhất
và cân bằng được hai yêu cầu về độ sâu của hình ảnh và độ phân giải của
hình ảnh. Đôi khi cần phải khảo sát những cấu trúc nằm sâu hơn, trong
những trường hợp này cần phải sử dụng đầu dò có tần số thấp hơn. Nếu
không có đầu dò linear tần số thấp thì có thể sử dụng đầu dò conver (hình
1).


Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 1: để khảo sát những cấu trúc sâu hơn, chẳng hạn như các cơ
đùi như ở hình phía trên, có thể sử dụng đầu dò conver tần số thấp.

Kỹ thuật
Yếu tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi siêu âm mô mềm là khả năng
điều khiển đầu dò của bác sĩ do thường đòi hỏi đầu dò phải được di
chuyển một cách khéo léo và có kiểm soát tốt. Đầu dò được giữ sao cho
một phần của bàn tay, chẳng hạn như ngón nhỏ hoặc khuỷu tay, tựa lên
cơ thể bệnh nhân để cố định đầu dò.

Trong nhiều trường hợp, cần phải quét đầu dò bắt đầu từ vùng kế cận
vùng cần khảo sát để nhận biết được những hình ảnh giải phẫu bình
thường và không liên quan đến tổn thương trước. Rồi sau đó mới trượt
đầu dò đến vùng cần khảo sát. Bác sĩ siêu âm cũng có thể dùng một ngón
tay của bàn tay không cầm đầu dò đặt lên vùng cần khảo sát rồi trượt đầu

dò dần dần cho đến khi nó chạm vào ngón tay đó.

Nên ghi nhận hình ảnh ở cả hai mặt phẳng: dọc và ngang, như vậy sẽ cho
được nhiều thông tin nhất và định vị được tổn thương tốt nhất. Bác sĩ
cũng nên khảo sát luôn cả phía bên đối diện của bệnh nhân để ghi nhận
được những hình ảnh của các cấu trúc bình thường.


Hình ảnh bình thường
Những máy siêu âm tại giường thường không phân biệt được biểu bì và
hạ bì. Chúng sẽ xuất hiện cùng với nhau dưới hình ảnh là một lớp mỏng
và tăng âm. Lớp mô dưới da cho hình ảnh giảm âm trên siêu âm với 2
thành phần: mô mỡ giảm âm được phân cách bởi những đường tăng âm
chạy gần như song song với mặt da là hình ảnh của các vách mô liên kết
(hình 2). Có thể nhìn thấy các tĩnh mạch và thần kinh bên trong lớp mô
dưới da.

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 2: da, mô dưới da và lớp cân mạc bình thường

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 2a: da, mô dưới da và lớp cân mạc bình thường

Cân mạc xuất hiện trên siêu âm với hình ảnh những lớp thẳng tăng hồi
âm. Độ dày của nó thay đổi tùy theo vị trí.
Các bó cơ có hình ảnh là những cấu trúc hình trụ giảm hồi âm, với các
mô liên kết tăng âm (bao cơ) bao xung quanh (Hình 3 và 4). Tính chất
đặc trưng của cơ trên siêu âm là hình ảnh của nó có thể thay đổi khi co

lại; ở mặt cắt ngang qua trục ngắn, nó sẽ dày hơn và tăng hồi âm khi co
lại.

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 3: mặt cắt ngang trục dài của cơ

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 4: mặt cắt ngang trục ngắn của cơ

Các hạch bạch huyết thường giảm âm và có hình bầu dục.

BỆNH HỌC

Viêm mô tế bào

Viêm mô tế bào là một tình trạng bệnh lý thường gặp nhất trong các
trường hợp được chỉ định siêu âm mô mềm tại giường. Hình ảnh siêu âm
của viêm mô tế bào thay đổi tùy theo giai đoạn và độ nặng của nó. Hình
ảnh ban đầu của bệnh là phù nề lan tỏa và tăng hồi âm của da và các mô
dưới da (hình 5). Khi bệnh tiến triển và lượng dịch trong mô dưới da tăng
lên, các thùy mỡ tăng âm sẽ bị tách ra khỏi nhau bởi những vùng chứa
dịch giảm âm xen giữa. Ở giai đoạn sau đó nữa thì viêm mô tế bào sẽ có
hình ảnh đặc trưng được các nhà siêu âm mô tả là hình ảnh sỏi cuội (hình
6). Hình ảnh dịch đọng ở các vách gian thùy không đặc hiệu cho viêm mô
tế bào mà đó có khả năng là tình trạng phù nề toàn thể mô dưới da hơn,
đây có thể là kết quả của một bệnh khác, chẳng hạn như suy tim sung
huyết.


Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 5: viêm mô tế bào giai đoạn sớm
Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.Hình 6: viêm mô tế bào giai đoạn muộn với
hình ảnh sỏi cuội
Doppler màu và Doppler năng lượng có thể giúp xác định xem có sự hiện
diện của tình trạng viêm (là 1 tính chất của viêm mô tế bào) hay không.

Tayal và cộng sự đã nghiên cứu trên những bệnh nhân được siêu âm cấp
cứu tại giường có những dấu hiệu của nhiễm trùng mô mềm dưới da
nhưng không có những dấu hiệu rõ ràng của abscess. Việc sử dụng siêu
âm đã cho thấy có thể làm thay đổi cách thức điều trị của một tỷ lệ có ý
nghĩa thống kê số bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu. Bằng cách sử dụng
siêu âm định kỳ để đánh giá những bệnh nhân trên, bác sĩ có thể tránh
phải thực hiện những thủ thuật dẫn lưu không cân thiết cũng như có thể
tìm thấy được những ổ abscess kín đáo. Nghiên cứu này ủng hộ việc sử
dụng siêu âm để đánh giá hầu hết những bệnh nhân bị viêm mô tế bào.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×