Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị UDIC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.01 MB, 122 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QỦA SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
4
1.1 HİỆU QUẢ SẢN XUẤT KİNH DOANH 4
1.1.1. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh 4
1.1.2. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh 4
1.1.3. Đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh 8
1.1.4. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh 10
1.2. CÁC CHỈ TİÊU ĐÁNH GİÁ HİỆU QUẢ SXKD CỦA DOANH NGHİỆP 12
1.2.1. Hệ thống các chỉ tiêu tổng quát 14
1.2.2. Hệ thống các chỉ tiêu chi tiết đánh giá hiệu quả kinh doanh 15
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚİ HİỆU QUẢ SẢN XUẤT KİNH DOANH 22
1.3.1. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 24
1.3.2. Nhân tố bên trong doanh nghiệp 27
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TỔNG CÔNG TY ĐẦU
TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ UDIC 30
2.1. GİỚİ THİỆU CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ PHÁT TRİỂN HẠ TẦNG ĐÔ
THỊ UDIC 30
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 30
2.1.2. Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của Tổng công ty 31
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty 33
2.1.4. Máy móc thiết bị của Tổng Công ty 40
2.1.5. Tình hình lao động của Công ty 40
2.2. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KİNH DOANH 44
2.2.1. Tình hình nguồn việc của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị UDIC
giai đoạn từ năm 2010 ÷ 2012 44
2.2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh giai đoạn năm 2010 ÷ 2012 49
2.2.3. Tình hình tài sản và nguồn vốn của Công ty giai đoạn 2010 ÷ 2012 51
2.3 PHÂN TÍCH HİỆU QUẢ SẢN XUẤT KİNH DOANH CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ
PHÁT TRİỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ UDIC 55


2.3.1. Hiệu quả sử dụng tài sản 55
2.3.2. Phân tích hiệu quả sử dụng lao động 65
2.3.3. Phân tích hiệu quả sử dụng chi phí 67
2.4. ĐÁNH GİÁ CHUNG VỀ HİỆU QUẢ SẢN XUẤT KİNH DOANH CỦA TỔNG CÔNG
TY ĐẦU TƯ PHÁT TRİỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ UDIC 68
2.4.1. Những kết quả đạt được 68
2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân 68
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ UDIC 71
3.1. MỤC TİÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRİỂN CỦA TỔNG CÔNG TY TRONG GİAİ
ĐOẠN 2013-2015 71
3.1.1. Xu hướng phát triển thị trường xây dựng 71
3.1.2. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới 73
3.1.3. Căn cứ đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện kế hoạch SXKD của Tông công ty. 74
3.2. GİẢİ PHÁP NÂNG CAO HİỆU QUẢ SẢN XUẤT KİNH DOANH CỦA TÔNG CÔNG
TY ĐẦU TƯ PHÁT TRİỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ UDIC 77
3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 77
3.2.2. Hoàn thiện quản lý chi phí sản xuất bằng hình thức giao khoán nội bộ 81
3.2.3. Nâng cao khả năng trúng thầu trong công tác đấu thầu 86
3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 90
3.2.5. Các biện pháp tạo động lực và khuyến khích người lao động 92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 94
I. KẾT LUẬN 94
II. KİẾN NGHỊ 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC 68
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHLĐ Bảo hộ lao động
CBCNV Cán bộ công nhân viên
DA Dự án

ĐTTM Đầu tư thương mại
KTKH Kinh tế kế hoạch
QLTB-VT Quản lý thiết bị vật tư
QTKD Quản trị kinh doanh
SXKD Sản xuất kinh doanh
TCHC Tổ chức hành chính
TCKT Tài chính kế toán
TCVN Tiêu chuẩn việt nam
VLĐ, VCĐ Vốn lưu động, vốn cố định
VLXD Vật liệu xây dựng
XDCB Xây dựng cơ bản
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Lao động của Công ty theo trình độ năm 2010 ÷ 2012 41
Bảng 2.2: Báo cáo thống kê cán bộ theo chuyên ngành đào tạo năm 2012 42
Bảng 2.3: Thống kê chất lượng công nhân kỹ thuật năm 2012 43
Bảng 2.4 Cơ cấu nguồn việc của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị UDIC
từ đấu thầu hay chỉ định thầu 45
Bảng 2.5 Cơ cấu lĩnh vực các gói thầu công ty thực hiện 45
Bảng 2.6 Tình hình đấu thầu của công ty theo số lượng các công trình tham gia đấu
thầu từ 2010 ÷ 2012 47
Bảng 2.7 Tình hình đấu thầu của công ty theo giá trị các công trình tham gia đấu thầu
từ 2010 ÷ 2012 47
Bảng 2.8: Bảng phân tích tình hình hoạt động SXKD của Tổng Công ty đầu tư phát
triển hạ tầng Đô thị UDIC từ năm 2010 - 2012 49
Bảng 2.9 Bảng phân tích cơ cấu tài sản của công ty từ năm 2010 ÷ 2012 51
Bảng 2.10 Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn của công ty từ năm 2010 ÷ 2012 52
Bảng 2.11: Hiệu quả sử dụng tổng tài sản 55
Bảng 2.12 Hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn 57
Bảng 2.13: Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn 59
Bảng 2.14: Các khoản phải thu ngắn hạn 61

Bảng 2.15 Các khoản phải thu khách hàng 61
Bảng 1.16: Phân tích chỉ tiêu khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu Tổng Công ty Đầu
tư Phát triển Hạ tầng Đô thị UDIC 63
Bảng 2.17: Phân tích hiệu quả sử dụng lao động của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển
Hạ tầng Đô thị UDIC 65
Bảng 2.18: Phân tích hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh của Tổng Công ty Đầu tư
Phát triển Hạ tầng Đô thị UDIC 67
Bảng 3.1: Tỷ trọng doanh thu của các lĩnh vực kinh doanh năm 2015 của Tổng công ty
đầu tư phát triển hạ tầng đô thị UDIC 73
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Sơ đồ các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp 23
Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tông Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị UDIC 34
Hình 3.1: Biểu đồ cơ cấu doanh thu dự kiến năm 2015 của Tổng công ty đầu tư phát
triển hạ tầng đô thị UDIC 74
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự tập trung của
sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và chi
phí các nguồn lực trong quá trình sản xuất để đạt được các mục tiêu kinh doanh.
Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội
và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả
kinh tế. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp phải phát huy tối đa năng
lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất, tiết kiệm chi phí.
Không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ là mối quan tâm
của bất kỳ nhà quản trị doanh nghiệp nào, mà còn là mối quan tâm hàng đầu của bất
kỳ xã hội nào khi tham gia nền kinh tế thị trường và nhất là giai đoạn hiện nay, khi mà
kinh tế toàn cầu đang là xu thế tất yếu của kinh tế thế giới. Không ngừng nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng là vấn đề bao trùm và xuyên suốt, thể hiện chất

lượng và toàn bộ công tác quản lý kinh tế. Bởi suy cho cùng, quản lý kinh tế là để đảm
bảo tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất cho mọi quá trình, mọi giai đoạn của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Tất cả những cải tiến, những đổi mới về nội dung, phương pháp
và biện pháp áp dụng trong quản lý chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng làm tăng được
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh không những là thước đo
chất lượng, phản ánh trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, mà còn là vấn đề sống còn
của các doanh nghiệp.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế thế giới của Việt
Nam hiện nay, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội tham gia vào nền kinh tế, có cơ hội
giao lưu, mở mang và phát triển. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đứng trước
nhiều thách thức khó khăn, đó là: sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang và sẽ
tham gia vào nền kinh tế này; khó khăn thách thức đó là các vấn đề từ nguồn nhân lực,
tài lực; khó khăn đó là những vấn đề xuất phát từ quan hệ cung – cầu v.v đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành xây dựng nói riêng đang gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh trong giai đoạn này đóng vai trò
cực kỳ quan trọng. Doanh nghiệp nào hoạt động hiệu quả thì tồn tại và phát triển,
doanh nghiệp nào không đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ nhanh chóng suy
yếu và phá sản.
2
Tổng công ty đầu tư phát triển Hạ Tầng đô thị UDIC là doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng và xây lắp cũng không tránh khỏi những khó khăn
thách thức trên. Vì vậy, cần thiết phải tìm lời giải cho bài toán đó là: với năng lực của
doanh nghiệp và trong môi trường kinh doanh hiện nay thì doanh nghiệp sẽ sản xuất
cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào? Để tối đa hóa những nguồn lực từ bên
trong và ngoài doanh nghiệp, đồng thời hạn chế, khác phục các yếu điểm bên trong
doanh nghiệp và những tác động xấu từ môi trường bên ngoài, hướng tới hiệu quả cao
nhất mà doanh nghiệp có thể đạt được, để doanh nghiệp trụ vững trong bối cảnh nền
kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn và có những bước phát triển mới trong sự
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này, “Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh

của Tổng công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô Thị UDIC” được chọn làm đề tài
luận văn thạc sỹ nhằm đánh giá thực trạng hiệu quả kinh doanh và tìm ra giải pháp
hữu hiệu trong sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian tới, giúp cho công ty
có những bước đi vững chắc trên con đường hội nhập và phát triển.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả
sản xuất kinh doanh của Tổng công ty đầu tư phát triển Hạ Tầng đô thị UDIC
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động kinh doanh và hiệu quả hoạt động kinh doanh
của Tổng công ty đầu tư phát triển Hạ Tầng đô thị-UDIC trong thời gian 2009-2012 và
đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quản sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian
tới.
4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đánh giá điểm mạnh,
điểm yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty đầu tư phát triển Hạ
Tầng đô thị-UDIC, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của Công ty.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu của dề tài luận văn sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các
3
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp nghiên cứu hiện trường,
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục
thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty đầu tư phát triển
Hạ Tầng đô thị UDIC.

Chương 3: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công
ty đầu tư phát triển Hạ Tầng đô thị UDIC.
4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QỦA SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.1. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
- Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả hiểu theo nghĩa thông thường là sự so sánh giữa kết quả đạt được với
hao phí bỏ ra. Trong đó kết quả là đại lượng phản ánh kết cục một, một số hay tất cả
các hoạt động cụ thể diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định; Chi phí là các
nguồn lực, hay các phương tiện được sử dụng để đạt kết quả đó. Vậy, thực chất của
phạm trù hiệu quả là phản ánh mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện. Mục đích
gắn với kết quả cần đạt được, còn phương tiện gắn với chi phí, nguồn lực cần có để đạt
được mục đích.
Mỗi lĩnh vực khác nhau, xét trên các góc độ khác nhau và phạm vi khác nhau thì
vấn đề về hiệu quả cũng được nhìn nhận theo các cách khác nhau. Vì vậy ở mỗi lĩnh
vực cụ thể lại có khái niệm về hiệu quả riêng cho từng lĩnh vực cụ thể đó. Thông
thường, khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì người ta gắn tên của lĩnh vực
đó liền ngay sau từ “hiệu quả”, ví dụ hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh doanh, hiệu quả
sử dụng vốn
- Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng
và năng lực quản lý các nguồn lực để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được kết quả
cao nhất với chi phí thấp nhất có thể.
1.1.2. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.2.1. Các quan điểm cơ bản về hiệu quả
Ngày nay, người ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về hiệu quả. Ở mỗi
góc độ, lĩnh vực khác nhau thì hiệu quả cũng được xem xét nhìn nhận khác nhau và
thông thường khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì chúng ta xem xét vấn

đề hiệu quả trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội và tương ứng ta có 3 phạm trù:
hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả kinh tế.
Nếu xét trên phạm vi từng khía cạnh, từng yếu tố, từng ngành thì chúng ta có
phạm trù hiệu quả kinh tế. Có thể hiểu hiệu quả kinh tế là việc so sánh giữa kết quả thu
5
về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Kết quả thu về đề cập trong khái niệm này
có thể là doanh thu, lợi nhuận, tổng sản phẩm công nghiệp… Hiệu quả kinh tế thể hiện
trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Hiệu quả chính trị, xã hội.
Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì ta có hai phạm trù
hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Hai phạm trù này phản ánh ảnh hưởng của hoạt
động sản xuất kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu chung của
toàn bộ nền kinh tế xã hội. Và hai loại hiệu quả này có vị trí quan trọng trong việc phát
triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Hiệu quả chính trị, xã hội phản ánh
trình độ phát triển nền kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản
lý, mức sống bình quân.
Phải luôn có sự cân đối giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị, xã hội. Đây
là một nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia một cách liên tục và
lâu dài. Bất kỳ một sự mất cân đối nào sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Dưới góc độ của doanh nghiệp thì ta có khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh có bản chất của hiệu quả kinh tế và cũng có bản chất của
hiệu quả chính trị, xã hội (đời sống người lao động…). Dưới đây là một số quan điểm về
hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị, xã hội. Nếu áp dụng những quan điểm đó vào
phạm vi của doanh nghiệp thì ta có thể coi đó là các quan điểm về hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Qua một số quan điểm này chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về khái niệm hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
1.1.2.2. Một số quan điểm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Mặc dù đã có sự thống nhất rằng phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh
mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn chưa có sự thống nhất

trong quan niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các nhà kinh tế và thống kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sản xuất
kinh doanh do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu không giống nhau. Cho đến
nay, có khá nhiều quan điểm về hiệu quả sản xuất kinh doanh:
- Quan điểm thứ nhất: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí
và mức tăng kết quả sản xuất.
Quan điểm này biểu hiện bản chất của hiệu quả chứ không phải là khái niệm về hiệu
quả kinh tế.
6
- Quan điểm thứ hai: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự so sánh giữa kết quả sản
xuất và chi phí sản xuất hoặc là sự so sánh nghịch đảo giữa chi phí bỏ ra và kết quả
mang lại.
Quan điểm này đã phản ánh mối quan hệ bản chất của hiệu quả, tuy nhiên nó mới
chỉ phản ánh được về đo lường hiệu quả sản xuất kinh doanh mà chưa gắn với mục tiêu
quản lý. Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh phải đảm bảo phản ánh được cả
định tính cũng như định lượng và ứng dụng được vào thực tiễn sản xuất kinh doanh.
- Quan điểm thứ ba: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả của mục
tiêu kinh doanh.
Đây là một khái niệm tổng quát, thể hiện được bản chất của hiệu quả sản xuất
kinh doanh và là một vấn đề phức tạp, có liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều mặt của
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: lao động tư liệu lao động, đối
tượng lao động, vốn
Vì vậy, khi phân tích hiệu quả phải kết hợp nhiều chỉ tiêu như: Chỉ tiêu hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh; chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng
chi phí
- Quan điểm thứ tư: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu
hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các
nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực
hiện mục tiêu kinh doanh.

Phát triển kinh tế theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng
thêm vốn, bổ sung lao động, đa ngành, đa nghề, phát triển nhiều thành phần kinh tế,
xây dựng thêm nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực, tạo đa dạng sản phẩm mới cho
xã hội.
Phát triển kinh tế theo chiều sâu là đẩy mạnh sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
tiến nhanh lên hiện đại hóa, chú trọng chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
- Từ những quan điểm trên, tác giả cho rằng khái niệm hiệu quả sản xuất kinh
doanh là quan điểm thứ ba.
1.1.2.3. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh
doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, tiền,
7
nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Bản chất của hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự thực hiện yêu cầu của quy luật tiết
kiệm thời gian.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết
quả tối đa với chi phí tối thiểu (thời gian hao phí lao động thấp nhất). Điều này có
nghĩa là với mức chi phí nhất định thì doanh nghiệp phải đạt kết quả tối đa hoặc ngược
lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động sản
xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý luận cũng như thực tiễn đã tồn
tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh, khi đó đã coi kết quả là mục đích và coi hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh là mục tiêu. Từ quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp
luận giải quyết vấn đề, đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả
và rõ ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh
nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp có thể

là những đại lượng có thể cân, đo, đong đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại,
doanh thu, lợi nhuận… và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng
hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm… Như thế
kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về
hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và
chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong lý
thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được
xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị hiện vật để
xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải khó khăn là giữa "đầu vào" và "đầu
ra" không có cùng một đơn vị đo lường, còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa
các đại lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là
hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trước tiên,
hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt
được ở trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà thông
8
qua đó có thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Từ đó có thể có các giải pháp nhằm đạt mục tiêu của doanh nghiệp ở mức độ
cao hơn với chi phí về nhân tài, vật lực và tiền vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta
sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp khác
người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt
là kết quả.
1.1.3. Đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh giá chính
xác. Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phức tạp và khó đánh giá
chính xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh đã cho thấy hiệu quả
sản xuất kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt
được từ hoạt động sản xuất (doanh nghiệp sản xuất) hoặc kinh doanh (doanh nghiệp
thương mại, dịch vụ…) và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
đó. Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít khi các

doanh nghiệp xác định được chính xác các kết quả mà doanh nghiệp thu được ở một
thời điểm nào đó do các quá trình tạo ra kết quả diễn ra trong các doanh nghiệp thường
có sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,… Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp
không phải chỉ tạo ra kết quả (sản phẩm, dịch vụ) mà còn phải bán được các kết quả
đó và quá trình bán hàng và quá trình tạo ra kết quả luôn không trùng nhau. Một doanh
nghiệp ở một thời điểm nào đó có thể có nhiều sản phẩm được sản xuất ra nhưng lại
tiêu thụ được rất ít, như thế chưa thể nói doanh nghiệp đã đạt được kết quả (mục tiêu).
Nếu xét trên góc độ giá trị, đại lượng kết quả của sản xuất kinh doanh không phải là
đại lượng đánh giá dễ dàng vì ngoài các nhân tố ảnh hưởng trên, kết quả sản xuất kinh
doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị (đồng tiền với những thay đổi của nó
trên thị trường). Mặt khác, chính hoạt động của con người là luôn nhằm đến và đạt đến
kết quả nhất định, song không phải lúc nào con người cũng nắm chắc được, biết hết
được các kết quả do chính hành động của họ. Như vậy, phạm trù kết quả là một phạm
trù phức tạp mà không phải lúc nào chúng ta cũng đánh giá đầy đủ được nó.
Việc xác định đại lượng chi phí cũng không dễ dàng. Nếu xét trên phương diện lý
thuyết thì chi phí tính bằng đơn vị hiện vật là chi phí sử dụng tài nguyên, chi phí "thực"
để tạo ra kết quả của doanh nghiệp song điều đó không thể xác định được trong thực
9
tiễn. Ở mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê, kiểm tra xem đã sử dụng bao nhiêu đơn vị
nguyên nhiên vật liệu mỗi loại cũng không phải lúc nào cũng tiến hành được. Trong khi
đó, ở mọi doanh nghiệp lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào không chỉ liên quan đến
một quá trình tạo ra sản phẩm nào đó mà nó liên quan đến nhiều quá trình kinh doanh
khác nhau. Điều này dẫn tới việc xác định hao phí một cách chính xác vào một quá trình
kinh doanh cụ thể gặp nhiều khó khăn. Nếu xét trên phương diện giá trị, chi phí kinh
doanh thường được hiểu là giá trị của toàn bộ tài nguyên đã sử dụng trong kinh doanh.
Bản thân việc sử dụng các yếu tố đầu vào dưới dạng chi phí sử dụng tài nguyên đã là
không xác định được trong tính toán bằng tiền, độ phức tạp và thiếu chính xác còn lớn
hơn nhiều vì nó hàm chứa rất nhiều yếu tố chủ quan của con người (chi phí là chi phí
tính toán). Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh con người ngày càng
đưa chi phí tính toán tiếp cận đến gần chi phí kinh tế hơn. Hơn nữa, không chỉ những chi

phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới đem lại kết quả cho doanh
nghiệp, mà còn rất nhiều chi phí cho hoạt động xã hội như: Giáo dục, cải tạo môi
trường, sức khoẻ… có tác động không nhỏ tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chi phí này rất khó tính toán được trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. Mặt
khác, trong thực tế khi ra các quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh
nghiệp thường hướng vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên dẫn đến xu hướng chi phí
biên cá nhân (MPC) thấp hơn chi phí biên xã hội (MSC). Điều này dẫn đến sự tách biệt
giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội. Để rút ngắn sự tách biệt này, các biện pháp can
thiệp vĩ mô của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết. Cũng cần thấy rằng khi doanh nghiệp
ra quyết định sản xuất kinh doanh theo hướng giảm chi phí biên cá nhân so với chi phí
biên xã hội sẽ tạo ra ảnh hưởng ngoại ứng đối với các doanh nghiệp sản xuất khác cũng
như đối với người tiêu dùng và trong nhiều trường hợp cũng ảnh hưởng trực tiếp đến
bản thân doanh nghiệp với tư cách là một thành viên trong đó. Nhiều doanh nghiệp cố
tình giảm thiểu chi phí cho việc xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường và sự ô nhiễm
ngày một tăng ảnh hưởng đến cả khu vực rộng lớn và cuối cùng dẫn đến việc đóng cửa
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các biện pháp pháp luật. Như thế kết quả
và hiệu quả đạt được trước mắt của doanh nghiệp đã dẫn đến không có hiệu quả và thậm
chí phi hiệu quả kinh tế nếu xét trong thời gian dài.
10
1.1.4. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Các nguồn tài nguyên trên trái đất là hữu hạn tuy nhiên nhu cầu tiêu dùng vật
phẩm của con người lại là phạm trù không có giới hạn: không có giới hạn ở sự phát
triển các loại cầu và ở từng loại cầu cũng không có giới hạn, nó luôn biến đổi theo xu
hướng càng nhiều, càng phong phú, càng có chất lượng cao càng tốt. Vì vậy mà tài
nguyên ngày càng trở nên khan hiếm. Khan hiếm đòi hỏi và bắt buộc con người phải
nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế. Khan hiếm tăng dần dẫn đến vấn đề lựa chọn kinh tế
tối ưu. Các lựa chọn này dần tạo nên đặc tính cạnh tranh của thị trường.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại, phát triển doanh nghiệp cần
phải gắn mình vào thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi hàng hóa. Nó tồn tại một cách khách

quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan nào. Bởi vì, thị trường ra đời và phát triển
gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, thị trường còn có
một vai trò quan trọng trong việc điều tiết và lưu thông hàng hóa. Thông qua nó các
doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống
giá cả trên thị trường.
Trên thị trường luôn luôn tồn tại các quy luật vận động của hàng hóa, giá cả, tiền
tệ… như các quy luật thặng dư, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh… Các quy luật
này tạo thành một hệ thống thống nhất và hệ thống này chính là linh hồn là cha đẻ của
cơ chế thị trường. Như vậy, cơ chế thị trường được hình thành bởi sự tác động tổng
hợp của các quy luật trong sản xuất, trong lưu thông trên thị trường. Thông qua các
quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường cơ chế thị đường tác động đến việc
điều tiết sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và làm thay đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành…
Nói cách khác cơ chế thị trường điều tiết quá trình phân phối, phân phối lại các nguồn
trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một cách tối ưu nhất.
Tóm lại, sự vận động đa dạng, phức tạp của cơ chế thị trường dẫn đến sự biểu hiện
gần đúng nhu cầu thị trường của xã hội. Song các doanh nghiệp không được đánh giá
quá cao hoặc tuyệt đối hóa vai trò của thị trường, coi cơ chế thị trường là hoàn hảo. Bởi
lẽ thị trường luôn chứa đựng những khuyết tật của nó như: Đầu cơ, lừa lọc, độc quyền…
Do vậy mỗi doanh nghiệp phải xác định được cho mình một phương thức hoạt động
riêng phù hợp với doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ chế hoạt
11
động trên hai thị trường đầu vào và đầu ra để đạt một kết quả cao nhất và kết quả này
không ngừng phát triển nâng cao hiệu quả về mặt chất cũng như về mặt lượng.
- Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên
thị trường trong khi đó lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự có mặt này, đồng thời là
mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp là: Luôn tồn tại, phát triển một cách vững chắc.
Do vậy thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng nâng lên. Nhưng trong điều kiện
vốn và các kỹ thuật chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận bắt

buộc các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, hiệu quả sản
xuất kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong công việc đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.
Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng
hóa, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội đồng thời tạo ra
tích lũy cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều phải vươn
lên đảm bảo thu nhập, bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong quá trình hoạt động kinh
doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như
vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như là một tất yếu.
Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là một yêu cầu mang tính chất giản đơn còn sự phát
triển và mở rộng doanh nghiệp lại là một yếu tố quan trọng. Bởi vì sự phát triển, mở
rộng của doanh nghiệp không những đòi hỏi sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn đòi
hỏi sự tích lũy đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng theo đúng quy luật phát
triển. Như vậy để phát triển và mở rộng doanh nghiệp mục tiêu lúc này không còn là
đủ bù đắp chi phí bỏ ra để phát triển quá trình tái sản xuất giản đơn mà phải đảm bảo
có tích lũy đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở rộng và một lần nữa nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh được nhấn mạnh.
- Thứ hai: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy cạnh
tranh và sự tiến bộ trong khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý và kinh doanh.
Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường
ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng khốc liệt hơn. Sự
cạnh tranh lúc này không phải là các mặt hàng mà cạnh tranh cả chất lượng, giá cả…
Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu
12
tố làm cho doanh nghiệp mạnh lên nhưng cũng có thể bóp chết doanh nghiệp trên thị
trường. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp đều phải chiến thắng
trong cạnh tranh trên thị trường. Để được điều này thì các doanh nghiệp phải có hàng
hóa, dịch vụ có chất lượng tốt, giá cả hợp lý.
Mặt khác hiệu quả sản xuất kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành,
tăng khối lượng hàng hóa bán, chất lượng không ngừng được hoàn thiện nâng cao, từ

đó cũng hình thành các công nghệ mới, thúc đẩy tiến bộ trong khoa học kỹ thuật, khoa
học quản lý và kinh doanh…
Như vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đã nâng cao khả năng sử dụng
các nguồn lực trong sản xuất, tiết kiệm tài nguyên và đạt được sự lựa chọn tối ưu. Vì
vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hạt nhân cơ bản của thắng lợi
trong cạnh tranh. Và các dạng cạnh tranh nhau tức là không ngừng nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là con
đường của doanh nghiệp nói giêng và thị trường của mỗi quốc gia nói chung nâng cao
sức cạnh tranh của mình.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả SXKD của doanh nghiệp
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có quan
hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh, vì vậy doanh nghiệp chỉ có thể đạt
được hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất có hiệu
quả.
Để đánh giá chính xác và có cơ sở khoa học hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp, bao gồm các chỉ tiêu tổng
hợp và các chỉ tiêu hiệu quả cá biệt. Các chỉ tiêu phải phản ánh được sức sản xuất, suất
hao phí, cũng như sức sinh lời của từng yếu tố, từng loại vốn, vì vậy chúng cần thỏa
mãn các yêu cầu sau:
- Phục vụ cho mục tiêu phát triển doanh nghiệp
Tiểu chuẩn hiệu quả sản xuất kinh doanh được đề ra trên cơ sở mục tiêu. Tiêu
chuẩn hiệu quả như là thước đo để thực hiện các mục tiêu. Phân tích hiệu quả của một
phương án nào đó luôn luôn dựa trên phân tích mục tiêu. Phương án có hiệu quả nhất
khi nó đóng góp nhiều cho việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất. Chỉ
tiêu cũng có nghĩa là cụ thể hóa một mặt nào đó của một mục tiêu ở một lĩnh vực nhất
13
định. Vậy các mục tiêu xây dụng ra phải phục vụ cho mục đích lâu dài và mục tiêu sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng giai đoạn.
- Thể hiện được đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Đặc điểm đặc thù hoạt động của doanh nghiệp có tác động đến các chỉ tiêu hiệu

quả sản xuất kinh doanh, thể hiện ở các yếu tố đầu vào, đầu ra và bản thân quá trình
sản xuất kinh doanh.
- Đảm bảo tính thống nhất trong phương pháp xác định mối quan hệ giữa các
chỉ tiêu
+ Các chỉ tiêu phải được xây dựng trên những cách xác lập nhất định:
• Phải được đánh giá trên quan điểm hệ thống và xác định trên cơ sở so
sánh giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh.
• Được đo bằng chỉ tiêu tương đối, cường độ quan hệ so sánh giữa đầu vào và
đầu ra.
+ Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh phải có sự liên hệ so sánh được với
nhau, có phương pháp tính toán cụ thể, thống nhất, có phạm vi áp dụng nhất định phục
vụ cho mục đích nhất định của công tác quản lý.
- Đảm bảo tính chính xác và khoa học
Khi xác định chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải đảm
bảo tính đúng đắn, chính xác, đầy đủ của kết quả đạt được và các chi phí bỏ ra.
- Đảm bảo tính đơn giản và thực tế
Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được đưa về
dạng tính toán đơn giản nhất, phải dựa trên cơ sở các dữ liệu thông tin thực tế, đơn
giản và dễ hiểu. Không nên sử dụng các phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ
các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính xác.
- Đảm bảo tính hệ thống
Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một tập hợp
các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả từ góc độ và khía cạnh khác nhau của các yếu tố sản
xuất khác. Các chỉ tiêu cấu thành phải thể hiện được tính hệ thống, trong hệ thống phải
có cả chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu bộ phận
Đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi bức thiết đối với các bộ phận
cũng như toàn doanh nghiệp nhằm khai thác tiềm năng, nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh. Trên cơ sở phân tích, đánh giá, tăng cường tích lũy để đầu tư tái kinh
14
doanh cả chiều sâu lẫn chiều rộng, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh toàn bộ

nền kinh tế quốc dân.
Để phân tích đánh giá chính xác và có cơ sở khoa học cần phải xây dựng hệ
thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm hệ thống các chỉ tiêu tổng quát, hệ thống các chỉ tiêu
chi tiết.
1.2.1. Hệ thống các chỉ tiêu tổng quát
Trên cơ sở lý luận hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là
một đại lượng so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được. Theo nghĩa rộng hơn, nó
là một đại lượng so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả đầu ra.
Chi phí đầu vào bao gồm lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn cố
định và vốn lưu động Kết quả đầu ra được đo lường bằng các chỉ tiêu như giá trị sản
lượng, doanh thu, lợi nhuận
Các chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được tính như sau:
- Theo dạng hiệu số: Hiệu quả sản xuất kinh doanh được tính bằng cách lấy kết
quả đầu ra trừ đi toàn bộ chi phí đầu vào.
E= K-C (1.1)
Trong đó:
K: Kết quả đạt được theo hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh
C: Chi phí bỏ ra
E: Hiệu quả sản xuất kinh doanh
Cách tính này đơn giản, tuy nhiên không phản ánh được chất lượng hoạt động
kinh doanh, cũng như tiềm năng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Tính theo cách này cũng không thể so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa
các bộ phận, đơn vị trong doanh nghiệp, không thấy được mức tiết kiệm hay hao phí
lao động xã hội trong bộ phận hay khâu sản xuất nào.
- Theo dạng phân số: Chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bằng
cách lấy kêt quả đầu ra chí cho toàn bộ chi phí đầu vào.
E =
C
K

(1.2)
Trong đó:
K: Kết quả đạt được theo hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh
15
C: Tổng chi phí bỏ ra để đạt được kêt quả đó
E: Hiệu quả sản xuất kinh doanh
Cách tính này khác phục được những tồn tại của cách tính trên, nó tạo điều kiện
nghiên cứu một cách có hiệu quả và toàn diện.
Tóm lại, cách xác lập này coi hiệu quả sản xuất kinh doanh là đại lượng để so
sánh: Dạng hiệu số gọi là: “hiệu quả dạng tuyệt đối”.
Dạng phân số gọi là: “hiệu quả dạng tương đối”.
1.2.2. Hệ thống các chỉ tiêu chi tiết đánh giá hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quan hệ so sánh giữa chi phí
đầu vào và kết quả đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Chi phí đầu vào
Chi phí đầu vào bao gồm chi phí các nguồn lực (nguồn lực tài chính, nguồn lực
lao động, nguồn lực vật chất )
- Kết quả đầu ra
Kết quả đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh là những gì mà doanh nghiệp thu
được sau một quá trình sản xuất kinh doanh hay một thời gian sản xuất kinh doanh nào
đó được phản ánh bằng các chỉ tiêu: Doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp rất đa dạng, do vậy để đánh
giá một cách chính xác, toàn diện hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
khồn thể sử dụng một chỉ tiêu nào đó mà phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu chung
phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh từ nhiều góc độ khác nhau theo vai trò của các
yếu tố sản xuất khác nhau, trong các phạm vi nghiên cứu khác nhau.
1.2.2.1. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động
Lao động là một trong các yếu tố chính của quá trình sản xuất kinh doanh. Lao
động tác động lên các yếu tố đầu vào khác và tạo ra sản phẩm, chính vì vậy mà
phương thức tổ chức lao động, trình độ lao động có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản

xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng lao động được đánh giá bởi các chỉ tiêu năng suất
lao động, suất hao phí lao động, khả năng sinh lời của một lao động.
- Năng suất lao động
Năng suất lao động đặc trưng cho hiệu quả sử dụng lao động, đây là một trong
những chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu năng suất lao động lao động được xác định theo công thức:
16
W =
T
D
(1.3)
Trong đó:
W: năng suất lao động
D: Khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ ( đơn vị hiện vật hoặc giá
trị)
T: Số lao động trung bình
Chỉ tiêu này phản ánh một người lao động có thể làm được bao nhiêu đơn vị sản
phẩm trong một kỳ, chỉ tiêu năng suất lao động càng cao chứng tỏ trình độ sử dụng lao
động ngày càng cao và ngược lại.
- Sức sinh lời của một lao động
Sức sinh lời của một lao động phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận và lao động,
cho biết một lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ.
Sức sinh lời của một lao động được xác định theo công thức:
h
LD
=
T
LN
(1.4)
Trong đó:

h
LD
: Sức sinh lời của một lao động
LN: Lợi nhuận sau thuế (trước thuế) trong kỳ
T: Số lao động bình quân sử dụng trong kỳ
1.2.2.2. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn là một trong những chỉ tiêu quan trọng, có tác
dụng đánh giá chất lượng công tác quản lý vốn, chất lượng công tác sản xuất kinh
doanh, từ đó làm cơ sở để đề ra biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
sử dụng vốn, góp phần tăng thêm kết quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, việc nghiên
cứu hiệu quả sử dụng vốn có ý nghĩa là tiền đề lý luận cho các nghiên cứu hiệu quả về
sau. Khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn người ta thường so sánh doanh thu, lợi nhuận
đạt được so với số vốn, tài sản bỏ ra để đạt được kết quả đó.
- Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh cho biết doanh nghiệp sử dụng một đồng vốn
tao ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này được xác định theo
công thức (1.5)
17
H
VKD
=
V
KD
D
(1.5)
Trong đó:
H
VKD
: Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh
D : Doanh thu thuần

V
KD
: Vốn kinh doanh bình qn sử dụng trong kỳ
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh (ROA)
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận và
vốn kinh doanh, cho biết một đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ tạo ra được bao
nhiêu đồng lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận được xác định theo cơng thức (1.6)
ROA =
V
KD
LN
(1.6)
Trong đó:
LN : Lợi nhuận trong kỳ
V
KD
: Vốn kinh doanh bình qn trong kỳ
Theo đặc điểm tuần hồn của vốn, vốn kinh doanh bao gồm vốn ngắn hạn và vốn
dài hạn. Vì vậy khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh còn phải sánh giá hiệu
quả theo từng loại vốn
a. Hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn
- Hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn được đánh giá bằng các chỉ tiêu:
+Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn =
+Sức sinh lời của tài sản dài hạn:
Tỷ suất lợi nhuận/ tài sản dài hạn =
quân bình hạndài sản Tài
thue sau nhuận Lợi á
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì tài sản cố định là một bộ phận
quan trọng của tài sản dài hạn, phản ánh năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Do vậy
khi đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn cần sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả sử

dụng tài sản cố định:
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định phản ánh trong một kỳ sản xuất kinh doanh của
một đồng tài sản cố định của doanh nghiệp mang lại bao nhiêu đồng doanh thu, và
được tính theo cơng thức (1.7)
18
H
TSCD
=
TS
CD
D
(1.7)
Trong đó:
H
TSCD
: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
D : Doanh thu thuần trong kỳ
TS
CD
: Tài sản cố định bình quân sử dụng trong kỳ
- Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản cố định
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản cố định cho biết một đồng tài sản cố định bình quân
sử dụng trong kỳ kinh doanh mang lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận và
được xác định theo công thức (1.8)
h
TSCD
=
TS
CD

LN
(1.8)
Trong đó:
h
TSCD
: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản cố định
TS
CD
: Tài sản cố định bình quân trong kỳ
LN : Lợi nhuận
b. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính,
khả năng thanh toán, độ ổn định của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn gồm:
- Vòng quay tài sản ngắn hạn
Vòng quay tài sản ngắn hạn phản ánh mỗi đồng tài sản ngắn hạn doanh nghiệp sử
dụng trong kỳ mang lại bao nhiêu đồng doanh thu, cho biết tài sản ngắn hạn quay được
mấy vòng trong kỳ. Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn được tính theo công thức (1.9)
SV
TSNH
=
TS
NHBQ
D
(1.9)
Trong đó:
SV
TSNH
: Vòng quay tài sản ngắn hạn
D : Doanh thu thuần trong kỳ

TS
NHBQ
: Tài sản ngắn hạn bình quân sử dụng trong kỳ
Để biết khả năng quay vòng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, người ta sử
dụng chỉ tiêu thời gian của một vòng luân chuyển tài sản ngắn hạn. Thời gian của một
19
vòng luân chuyển là số ngày cần thiết cho tài sản ngắn hạn quay được một vòng, và
được xác định theo công thức:
T
LC
=
D
NH
TS
x 360 (1.10)
Trong đó:
T
LC
: Thời gian một vòng luân chuyển tài sản ngắn hạn
TS
NH
: Tài sản ngắn hạn bình quân sử dụng trong kỳ
D : Doanh thu thuần trong kỳ
Tuy chỉ tiêu này không phản ánh trực tiếp hiệu quả sản xuất kinh doanh của việc
sử dụng tài sản ngắn hạn trên phương diện lý luận, nhưng trên thực tế cho thấy: Số
vòng quay tài sản ngắn hạn tăng, số ngày luân chuyển tài sản ngắn hạn giảm, tốc độ tài
sản ngắn hạn chuyển nhanh có thể giảm được tổng số tài sản ngắn hạn cần có trong
một kỳ kinh doanh, trong khi các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận không đổi, dẫn đến hiệu
quả sử dụng tài sản ngắn hạn cao.
- Vòng quay các khoản phải thu

Vòng quay cac khoản phải thu cho biết các khoản phải thu quay được bao nhiêu
vòng trong một kỳ kinh doanh để đạt được doanh thu trong kỳ đó. Số vòng quay các
khoản phải thu được tính theo công thức
SV
KPT
=
KPT
D
(1.11)
Trong đó:
SV
KPT
: Vòng quay các khoản phải thu
D : Doanh thu thuần
KPT : Các khoản phải thu bình quân
- Kỳ thu tiền trung bình
Kỳ thu tiền trung bình là chỉ tiêu cho biết doanh nghiệp mất bao nhiêu ngày để
thu hồi các khoản phải thu của mình. Kỳ thu tiền trung bình được tính theo công thức
(1.12).
T
KPT
=
KPT
SV
360
(1.12)
Trong đó:
T
KPT
: Kỳ thu tiền trung bình

SV
KPT
: Vòng quay các khoản phải thu
20
- Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho. Vòng quay
hàng tồn kho là số lần mà hàng tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. + Vòng quay
hàng tồn kho được xác định bằng giá vốn hàng bán chia cho bình quân hàng tồn kho.
SV
HTK
=
HT
GV
(1.13)
Trong đó:
SV
HTK
: Vòng quay hàng tồn kho
GV : Giá vốn hàng bán
HT : Hàng tồn kho bình quân
+ Thời gian của một vòng quay hàng tồn kho là số ngày trung bình hàng tồn kho
lưu giữ, được tinh bằng công thức:
T
HTK
=
GV
HT
x 360 (1.14)
- Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ngắn hạn
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ngắn hạn phản ánh một đồng tài sản ngắn hạn bình

quân sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận trên tài
sản ngắn hạn được tính theo công thức (1.15)
h
TSNH
=
NH
TS
LN
(1.15)
Trong đó:
h
TSNH
: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ngắn hạn
TS
NH
: Tài sản ngắn hạn bình quân sử dụng trong kỳ
LN : Lợi nhuận sau thuế (trước thuế)
1.2.2.3 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh gồm:
- Hiệu suất sử dụng chi phí kinh doanh
Hiệu suất sử dụng chi phí kinh doanh được xác định bằng công thức:
H
CKD
=
C
KD
D
(1.16)
Trong đó:
H

CKD
: Hiệu suất sử dụng chi phí kinh doanh

×